A- ĐẶT VẤN ĐỀ 1
B-NỘI DUNG 3
CHƯƠNG I : CƠ SỞ Lí LUẬN 3
I. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 3
1.1. Lực lượng sản xuất 3
1.2. Quan hệ sản xuất được hiểu ra sao: 5
II- QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. 6
1. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp. 6
2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 8
III- NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM 10
1. CƠ SỞ KHÁCH QUAN TỒN TẠI NHIỀU THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ 10
2. CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ 11
2.1. Cơ cấu thành phần kinh tế quá độ ở Việt Nam tại Đại hội Đảng IX có 6 thành phần kinh tế. 11
CHƯƠNG II : CƠ SỞ THỰC TIỄN 16
I- Vấn đề đổi mới quan hệ sản xuất dẫn đến phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam 16
II-Vai Trũ của QHSX trong việc phỏt triển LLSX 20
III- Những thành tựu Việt Nam đã đạt được 25
IV- Những kiến nghị, đề xuất 27
C- KẾT LUẬN 29
E- TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
31 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1826 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Vai trò của QHSX trong đời sống xã hội ,sự phù hợp giữa LLSX và QHSX trong nền sản xuất kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho lực lượng sản xuất phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất: lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động qui định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại.
+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.
III- NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM
1. Cơ sở khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
a) Khi phân biệt hàng hóa giản đơn và sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, kết luận về phương pháp luận: khi giai cấp vô sản giành được chính quyền cần có thái độ đối xử khác nhau đối với 2 loại tư hữu của hai loại hình sản xuất hàng hóa trên.
- Đối với tư hữu tư bản chủ nghĩa: Quốc hữu hóa. Nhưng bản thân quá trình quốc hữu hóa có nhiều hình thức và giai đoạn: hoặc bằng tịch thu hoặc bằng hình thức chuộc lại và phải được tiến hành dần dần từng bước một hoặc bằng sự liên kết của Nhà nước với các cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa để hình thành kinh tế tư bản Nhà nước. Vì thế trong một thời gian dài vẫn còn tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
- Đối với tư bản nhỏ của người sản xuất hàng hóa nhỏ thì chỉ có thông qua con đường hợp tác hóa. Để tiến hành hợp tác hóa theo quy luật và nguyên tắc cần phải có thời gian. Do đó trong thời kỳ quá độ còn thành phần cá thể của nông dân và thợ thủ công, tiểu thương là một tất yếu.
b) Các thành phần kinh tế tư nhân do lịch sử để lại: Trong thời kỳ quá độ cần phải được phát triển để sản xuất và đời sống không bị mất mát gián đoạn. Nó phù hợp với lợi ích của người lao động và có vai trò quan trọng trong việc xác lập và phát triển hệ thống kinh tế mới.
c) Để giữ lại được chính quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản cần xây dựng hệ thống kinh tế mới, trước hết là kinh tế quốc doanh làm cơ sở để phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ.
- Xác định bản chất các thành phần kinh tế dựa trên quan hệ sở hữu và tính chất của lao động. Mỗi thành phần kinh tế có nhiều kiểu sản xuất hàng hóa của nó, hợp thành kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Còn gọi là nền kinh tế hàng hóa quá độ, chứ không phải là kinh tế hàng hóa xã hội chủ nghĩa.
- Nền kinh tế hàng hóa quá độ là nền kinh tế hàng hóa kết hợp những kiểu sản xuất hàng hóa không cùng bản chất, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
2. CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
2.1. Cơ cấu thành phần kinh tế quá độ ở Việt Nam tại Đại hội Đảng IX có 6 thành phần kinh tế.
2.1.1) Kinh tế Nhà nước: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm Nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế.
- Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế vì:
+ Nó nắm những ngành, những cơ sở kinh tế then chốt như: công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải, ngân hàng, tài chính, bưu điện để đảm bảo cân đối chủ yếu của nền kinh tế là cơ sở để định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Được Nhà nước trực tiếp quản lý và giúp đỡ phát triển.
+ Xu hướng vận động của nó ngày càng được mở rộng và phát triển, tiến tới thống trị trong nền kinh tế.
- Để làm được như vậy phải hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp Nhà nước đầu tư 100% vón hoặc có cổ phần chi phối ở một ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước về thực chất là giải quyết vấn đề sở hữu, theo những hướng sau:
+ Đầu tư có hiệu quả (cả trang bị kĩ thuật, vốn, trình độ quản lý vào những đơn vị kinh tế nắm những mạch máu quan trọng của nền kinh tế.
+ Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn.
+ Giao bán khoán cho thuê các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ.
+ Sáp nhập, giải thể cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và không thực hiện các biện pháp trên (cả nước có khoảng 250 xí nghiệp quốc doanh trung ương, 2041 xí nghiệp quốc doanh địa phương quản lý).
- Về mặt quản lý kinh tế Nhà nước phải phân biệt quyền chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1.2) Kinh tế tập thể: Là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung bình đẳng, cùng có lợi.
- Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người ít vốn và người nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ.
- Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế là chính bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên.
- ở khu vực nông nghiệp và nông thôn, phát triển kinh tế tập thể phải trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát triển gắn liền với tiến trình CNH- HĐH nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
- Xu hướng vận động và phát triển của kinh tế tập thể theo hướng hình thành những cơ sở, tổ hợp kinh tế công nông nghiệp để đi lên sản xuất lớn.
2.1.3) Kinh tế cá thể, tiểu chủ
- Kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
- Kinh tế tiểu chủ: cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động. Tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông thôn và thành thị có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả về vốn sức lao động tay nghề của từng người trong gia đình. Do đó mở rộng sản xuất kinh doanh của kinh tế cá thể tiểu chủ cần được khuyến khích.
- Tuy nhiên cũng cần thấy rằng kinh tế cá thể tiểu chủ dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể loại bỏ được những hạn chế vốn có của nó như: tính manh mún, tự phát, hạn chế về kĩ thuật do đó Nhà nước cần tạo điều kiện và giúp đỡ để họ phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Bởi thành phần kinh tế này có vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất, dịch vụ, tư liệu sinh hoạt phục vụ cả sản xuất và tiêu dùng.
2.1.4) Kinh tế tư bản tư nhân: Là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lộc sức lao động làm thuê.
- Trong thời kỳ quá độ thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể trong việc phát triển lực lượng sản xuất, là thành phần rất năng động nhạy bén với thị trường do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế .
- Nó gồm các đơn vị kinh tế phần lớn vốn của tư nhân (cả trong và ngoài nước) đầu tư, hoạt động dưới hình thức xí nghiệp tư doanh, hoặc công ti cổ phần được pháp luật qui định.
- Nhà nước khuyến khích và kiểm soát, tạo điều kiện và môi trường hoặc các đơn vị kinh tế tư bản tư nhân hình thành và phát triển những ngành, lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh và hướng dẫn theo con đường kinh tế tư bản Nhà nước.
- Tuy nhiên đây là thành phần kinh tế có tính tự phát rất cao. Đầu cơ buôn lậu trốn thuế, làm hàng giả là những hiện tượng thường xuyên hiện đòi hỏi phải tăng cường quản lý đối với thành phần kinh tế này.
- Văn kiện đại hội Đảng lần 9 có viết: khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lí để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phiếu cho người lao động liên doanh liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế Nhà nước, xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động (Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 9, nhà xuất bản Chính trị.
2.1.5. Kinh tế tư bản Nhà nước: Là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
- Các thành phần kinh tế cơ bản tồn tại trên cơ sở 3 loại sở hữu. Ngoài ra còn có những hình thức tổ chức liên kết kinh tế hoạt động không thuộc thành phần kinh tế nào như hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu công ty xí nghiệp cổ phần, liên doanh liên kết hai bên nhiều bên giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
- Sự chuyển hóa của các thành phần kinh tế trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội diễn ra dưới nhiều hình thức, phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
2.1.6. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành viên) có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp Nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong 10 năm qua (1991 - 2000) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh giá trị sản xuất tăng bình quân 22% một năm. Trong 5 năm (1996 - 2000) vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện khoảng 10 tỉ USD, chiếm 23% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GDP chung của cả nước.
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định "tạo điều kiện để kinh tế có vốn đấu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu xây dựng kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm cải thiện môi trường kinh tế và pháp lí để thu hút vốn đầu tư nước ngoài [Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 9, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, trang 99].
CHƯƠNG II : CƠ SỞ THỰC TIỄN
I- Vấn đề đổi mới quan hệ sản xuất dẫn đến phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam
ở nước ta trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây, đã có lúc chúng ta tưởng rằng có thể thiết lập được một quan hệ sản xuất cao hơn, đi trước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Song kết quả lại diễn ra trái với mong muốn của chúng ta. đó là lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, hàng hóa sản xuất rra kém chất lượng, giá thành cao không thể cạnh tranh với hàng ngoại, lại khan hiếm không đủ để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, đời sống nhân dân rất khó khăn.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Song, một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta đã áp đặt chủ quan một quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất . Trong điều kiện lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp kém, phổ biến là sản xuất nhỏ nhưng vì muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã nhấn mạnh quá mức quan hệ sở hữu mà chưa chú ý đúng mức tới quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối, trao đổi. Từ đó đã dẫn đến việc mở rộng ồ ạt hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, các thành phần kinh tế khác bị ngăn cấm hoặc
xóa bỏ để chuyển sang kinh tế quốc doanh và tập thể qua các đợt cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Bên cạnh đó, việc duy trì quá lâu cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp và kèm theo nó là sự phân phối bình quân, lợi ích cá nhân chưa được quan tâm đúng mức đã kìm hãm sức sản xuất của xã hội. Các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước chưa được phát huy tác dụng. Động lực sản xuất bị giảm, người lao động xa lánh tư liệu sản xuất, thờ ơ với các kế hoạch của tập thể và Nhà nước.
Thực tế phát triển kinh tế ở nước ta gần 40 năm qua đã chứng minh rằng: quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất không chỉ khi nó trở nên lạc hậu, mà cả khi nó được áp đặt một hình thức đi trước quá xa so với lực lượng sản xuất, một lần nữa quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại thể hiện rõ tính tất yếu và tính phổ biến mạnh mẽ của nó bất chấp cả ý muốn chủ quan của con người. Dù mong muốn đẩy mạnh phát triển sản xuất, nhanh chóng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, chúng ta cũng không thể bất chấp quy luật, mà trái lại phải tôn trọng và hành động đúng quy luật khách quan. Đó là một trong những bài học lớn mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ.
Đảng ta đã nhận thức đúng quy luật khách quan nên đã có những đướng lối, chủ trương đúng đắn, kịp thời. Chỉ thị 100- CT/ TƯ của ban bí thư ngày 13- 1- 1981 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là khâu đột phá đầu tiên trong tiến trình đổi mới. Nhưng cái mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới toàn diện và sâu sắc nền kinh tế xã hội là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986.
Với Nghị quyết Đại hội VI, chúng ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển dần kinh tế sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế mới khuyến khích phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, các khu vực trên thế giới, động viên mọi người làm giàu trong khuôn khổ luật pháp cho phép.
Đường lối của đảng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân lao đọng hứng khởi hưởng ứng và đã đem lại nguồn sinh khí mới, tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng và dần dần đi vào thế ổn định. Sau tám năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: tăng trưởng kinh tế khá, lạm phát được đẩy lùi, đời sống nhân dân được cải thiện từng bước. Sở dĩ có sự chuyển biến đi lên theo hướng vững chắc như vậy chính là nhờ chúng ta đã đổi mới từng bước quan hệ sản xuất cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, do đó đã giải phóng sức sản xuất của xã hội, khai thác được các tiềm năng cả ở bên trong và bên ngoài, làm cho lực lượng sản xuất nước ta có những bước phát triển nhảy vọt về chất.
Việc giải phóng lực lượng sản xuất có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta, bởi vì:
Thứ nhất: nền kinh tế nước ta còn kém phát triển do điểm xuất phát thấp, đang ở trạng thái đan xen nhiều loại hình và thành phần kinh tế ở những trình độ rất khác nhau như phân tán và tập trung, thủ công và hiện đại, lạc hậu và tiên tiến... Trong tình hình đó, nếu không kiến tạo được những hình thức quan hệ sản xuất đa dạng thích ứng với trình độ của lực lượng sản xuất ở tất cả các thành phần kinh tế hiện có, chúng ta sẽ không thể khai thác được tiềm năng to lớn của những thành phần kinh tế đó. Vì vậy, thừa nhận sự tồn tại lâu dài và thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là giải pháp quan trọng nhất để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta.
Thứ hai: Khi lực lượng sản xuất được giải phóng sẽ tạo ra động lực để khai thác và sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn kực hiện có như nguồn lực nhàn rỗi trong dân cư, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và trí tuệ con người.
Thứ ba: chỉ khi lực lượng sản xuất được giải phóng, mọi tiềm năng sản xuất được gợi mở, khơi thông, chúng ta mới có thể thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư của nước ngoài để tranh thủ vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại và tri thức quản lý kinh nghiệm tiên tiến nhằm thúc đẩy nhanh chóng tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh ế nước ta.
Giải phóng lực lượng sản xuất thực chất là giải tỏa, tháo gỡ những lực lượng cản kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất là hai quá trình diễn ra đồng thời và có tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau.
Quá trình phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên đổi mới quan hệ sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực có thể có, cả nguồn lực bên trong và bên ngoài. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất của nhiều quốc gia trên thế giới phát triển nhanh chóng và ngày càng mang tính chất quốc tế hóa cao. Do đó giữa các quốc gia trên thế giới hiện nay đang diễn ra xu hướng vừa cạnh tranh gay gắt vừa giao lưu và hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ... Bất cứ quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển cũng phải hòa nhập vào xu thế chung đó. Đối với nước ta, để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa thì nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới là phải thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực với tất cả các nước, các khu vực trên thế giới. Để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Một đất nước vừa phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại vừa thừa nhận sự phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều đó không phải là một nghịch lý, vấn đề đặt ra ở đây là, chúng ta sẽ sử dụng chủ nghĩa tư bản như thế nào để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất mà vẫn xây dựng được đát nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn bảy mươi năm trước đây, Chính sách kinh tế mới được Lê nin đề ra cùng với sự thừa nhận, “ toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi căn bản”( 12) đã cứu vãn kinh tế nước Nga Xô viết trẻ tuổi khỏi sụp đổ. Đó là quan điểm từ bỏ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hóa, mở rộng trao đổi, thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chủ nghĩa tư bản nhà nước theo Lê nin là cao hơn nhiều so với nền sản xuất nhỏ, rằng: “ Chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản, ( nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu tư sản và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”( 13).
Chúng ta sẽ không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu không xây dựng nền công nghiệp tiên tiến. Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế tiểu nông, con đường phát triển mang tính tự phát sẽ là trải qua chủ nghĩa tư bản, song để tránh cho nhân dân khỏi những đau khổ mà chế độ tư bản chủ nghĩa có thể gây ra, Đảng ta dứt khoát lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu, bắt nhà nước tư bản phải “ cày trên mảnh đất vô sản”, biến thành phần kinh tế tư bản tư nhân thành “ một trợ thủ đắc lực cho chủ nghĩa xã hội”.
Rõ ràng, công cuộc đổi mới đòi hỏi một tư duy mềm dẻo, năng động và nhạy bén, phải “ vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Lê nin về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”( 14).
II-Vai Trũ của QHSX trong việc phỏt triển LLSX
Bằng nhiều con đường khỏc nhau, lõu nay, từ nước ngoài du nhập vào nước ta những ấn phẩm chứa đựng những luận điểm sai trỏi. Một trong những luận điểm đú là: quan hệ sản xuất mà chỳng ta đang xõy dựng chỉ là phương tiện để phỏt triển lực lượng sản xuất. Họ núi rằng, chỳng ta chủ trương xõy dựng quan hệ sản xuất xó hội chủ nghĩa bằng mọi giỏ, nờn lực lượng sản xuất thấp kộm, trỡ trệ.
Luận điểm đú lõu ngày cũng dần dần “thấm” vào một số người. Gần đõy, trong một số hội thảo khoa học, đõu đú cũng cú người tung ra luận điểm đú. Cú người tuy khụng trực diện nờu lờn quan hệ sản xuất chỉ là phương tiện, nhưng nội dung trỡnh bày lại khụng khỏc gỡ lắm so với luận điểm đú. Những ý kiến khụng đồng tỡnh với họ, theo chỳng tụi, tuy cú nhiều, nhưng chưa được luận giải một cỏch rừ ràng và đầy đủ. Trong khi đú, tỏc động tiờu cực của luận điểm sai trỏi này trong xó hội chỳng ta ngày càng nhiều.
Như chỳng ta đó biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất là hỡnh thức xó hội của sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ thỳc đẩy lực lượng sản xuất phỏt triển khi quan hệ sản xuất phự hợp với tớnh chất và trỡnh độ của lực lượng sản xuất.
Vỡ vậy, khụng thể bằng mọi giỏ xõy dựng quan hệ sản xuất mới bất chấp tỡnh trạng thấp kộm của lực lượng sản xuất. Trước đõy, chỳng ta thường đặt nhiệm vụ ngắn hạn cho việc hoàn thành những nhiệm vụ dài hạn của việc xõy dựng quan hệ sản xuất, như cải tạo xó hội chủ nghĩa trong nụng nghiệp, tiểu thủ cụng nghiệp, thương nghiệp,.., hoặc đưa quy mụ và tớnh chất của đơn vị kinh tế tập thể và quốc doanh lờn bậc cao. Những việc làm đú thường được một số nhà lý luận lỳc đú giải thớch rằng: “Xõy dựng quan hệ sản xuất mới để mở đường cho lực lượng sản xuất phỏt triển”. Đến Đại hội lần thứ VI của Đảng, với tư duy mới, chỳng ta nhận ra rằng, quan hệ sản xuất là vật cản của lực lượng sản xuất khụng chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất đi sau mà cũn cả trong trường hợp vượt lờn trước, tỏch rời lực lượng sản xuất. Nguyờn lý quan hệ sản xuất phải phự hợp với tớnh chất và trỡnh độ của lực lượng sản xuất bao giờ cũng đỳng trờn mỗi bước phỏt triển. Chớnh vỡ vậy, từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay, chỳng ta luụn luụn cố gắng thiết lập sự đồng bộ giữa cỏc yếu tố trong quan hệ sản xuất, trong lực lượng sản xuất và giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Điển hỡnh nhất là những sự thay đổi trong lĩnh vực sản xuất nụng nghiệp. Cơ chế “khoỏn 100” và “khoỏn 10” đó làm cho quan hệ sản xuất phự hợp với lực lượng sản xuất, thỳc đẩy sự tiến bộ vượt bậc của nền nụng nghiệp nước ta. Trong kinh tế nhà nước, ở tất cả cỏc ngành nghề, từ trờn 12.000 doanh nghiệp, nay sắp xếp lại cũn 4.000 doanh nghiệp. Một lộ trỡnh thay đổi, điều chỉnh đó được vạch ra liờn quan đến doanh nghiệp nhà nước sẽ làm cho số lượng tuyệt đối của chỳng giảm hơn nữa, nhưng hiệu quả kinh doanh và tớnh cạnh tranh của chỳng thỡ tăng lờn. Với cỏc hỡnh thức đa dạng của quan hệ sản xuất đó thiết lập trong khu vực kinh tế nhà nước như cổ phần hoỏ; giao, bỏn, khoỏn, cho thuờ; cụng ty trỏch nhiệm hữu hạn; cụng ty mẹ, cụng ty con; tập đoàn kinh tế,... đó đem lại cho khu vực kinh tế này một luồng sinh khớ mới, sống động, nhờ đú mà lực lượng sản xuất của khu vực kinh tế nhà nước sẽ khụng ngừng tăng lờn.
Chỳng ta đều biết, mỗi hỡnh thỏi kinh tế - xó hội cú một kiểu quan hệ sản xuất thống trị. Gắn liền với nú cú một giai cấp đại diện cho quan hệ sản xuất đú; giai cấp này đứng ở vị trớ trung tõm của quyền lực chớnh trị, phải bảo vệ và phỏt triển quan hệ sản xuất đú – cỏi mà từ ban đầu cũn non yếu về số lượng và chất lượng, tiến tới định hỡnh như một yếu tố nền tảng, chi phối nền sản xuất. Nú trở thành cốt lừi cơ sở hạ tầng của kiến trỳc thượng tầng, của chế độ chớnh trị - xó hội. Giai cấp cụng nhõn Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lónh đạo khụng thể là một ngoại lệ, nờn cũng phải xõy dựng, bảo vệ và phỏt triển quan hệ sản xuất do mỡnh đại diện – quan hệ sản xuất xó hội chủ nghĩa. Quyền lực về chớnh trị nếu khụng dựa trờn một quan hệ kinh tế vững chắc thỡ khụng thể được bảo đảm lõu dài.
Ngay
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8975.doc