Chuyên đề Vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thực trạng và giải pháp trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư tực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment-FDI)

MỤC LỤC

 

Lời nói đầu 1

Nội dung: 3

Chương một: Vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 3

I - Cơ sở nghiên cứu đề tài 3

1. Cơ sở lý luận: 3

2. Cơ sở thực tiễn: 4

II - Thực trạng của khu vực kinh tế có vốn dầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 5

1. Thực trạng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay: 5

2. Những tồn tại và hạn chế: 12

3.nguyên nhân: 14

III - Tác động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước ta: 16

1. Tác động tích cực: 16

2. Tác động tiêu cực: 20

Chương 2: Các vấn đề thực tiển đặt ra trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 22

I- Giải pháp phát triển, tăng cường thu hút và sử dụng FDI 22

1. Giải pháp về chính trị 22

II- Triển vọng của kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 24

III - Kết luận: 25

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1077 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thực trạng và giải pháp trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư tực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment-FDI), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp  đôi  so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD).  Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ  năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%. Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm  2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là  80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.   Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm  2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là  71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ;  24% và 20%. Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam. D – Quy mô dự án: Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....).  D – Đối tác đầu tư: Do chính sách thu hút đầu của Việt Nam ngày càng thông thoáng hơn, Bộ Luật Đầu Tư của nước ta ngày càng hoàn thiện hơn nên các đối tác đầu tư trực tiếp vào Việt Nam ngày càng đa dạng hơn. Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký. Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam . Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD. Trong nhưng năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy mô nhỏ và từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan. Cho tới hết năm 2007, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn từ các nước châu Á mặc dù Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra ba định hướng thu hút ĐTNN.  E – Cơ cấu vốn đầu tư: Cơ cấu vốn đầu tư theo đối tượng sử dụng, nhóm nghành kinh tế có ự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các nghành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Đây là một đấu hiệu khả quan cho nền kinh tế Việt Nam, nó hoàn toàn phù hợp với giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước hiện nay. Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử...  Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và  Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.  Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN,  phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%).Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN,  phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) . Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v. Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn. 2. Những tồn tại và hạn chế: Những thành tích đạt được trong hoạt động thu hút và thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài cao là đáng ghi nhận trong khi cạnh tranh gay gắt giữa các nước về thu hút vốn FDI. Tuy nhiên, vốn thực hiện còn tăng thấp hơn nhiều so với vốn đăng ký làm cho thành tích của khu vực đầu tư nước ngoài đạt kết quả chưa cao so với tiềm năng. Trong năm qua, hoạt động đầu tư nước ngoài còn có một số hạn chế như: Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế: thủ tục hành chính rườm rà, tình trạng quan liêu tham nhũng. Môi trường cạnh tranh cưa lành mạnh: tình trạng vi phạm bản quyền tràn lan, bất bình đẳng giửa các công ty trong nước và công ty của nước ngoài, công ty nhà nước và công ty có vốn nước ngoài. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao, thu hút đầu tư tuy tăng mạnh nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, tình trạng giải ngân vốn chậm. Thị trường còn nhiều biến động, tình trạng lạm phát ngày càng gia tăng, giá cả leo thang. Trình độ quản lý thị trường, các chính sách vĩ mô về kinh tế còn nhiều bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực tuy nhiều nhưng chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Cơ sở hạ tầng kỷ thuật còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Trước hết là những bất cập trong cơ cấu đầu tư theo đối tác, ngành và theo vùng. Mặc dù tích cực xúc tiến đầu tư, nhưng dòng vốn FDI vẫn chủ yếu đến từ các nước châu Á. Tính đến nay, năm đối tác đứng đầu về đầu tư vào Việt Nam đều thuộc châu Á, chiếm 63,2% về số dự án, 61,5% về tổng vốn đăng ký và 67,5% tổng vốn thực hiện. Cơ cấu đầu tư theo ngành vẫn chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp và xây dựng (chiếm 67,5% về số dự án và 60,6% tổng vốn đầu tư đăng ký), không phù hợp với xu hướng đầu tư trên thế giới là hướng vào ngành dịch vụ. Bên cạnh đó, số vốn FDI thu hút vào nước ta tăng mạnh nhưng không đồng đều giữa các vùng và địa phương. Lượng vốn thu hút chỉ tập trung vào một số địa phương như Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh. Và đây cũng chính là các địa phương có ngành công nghiệp phát triển, chiếm tỷ trọng cao, đạt tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp cao (hơn 14%). Rõ ràng, sự kết hợp giữa cơ cấu đầu tư FDI theo ngành và theo vùng đã góp phần làm cho các địa phương này có tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp cao. Những địa phương này một phần có lợi thế về cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ cũng như lao động. Hơn nữa, chính tính minh bạch và trách nhiệm, tính năng động và tiên phong của lãnh đạo cấp tỉnh làm cho các tỉnh có điều kiện cơ sở hạ tầng, khoảng cách với thị trường như nhau dẫn tới lượng vốn đầu tư vào tỉnh đó cũng hoàn toàn khác nhau. Vậy, không chỉ chính sách đầu tư vào các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn là chưa phát huy tác dụng mà cả chính quyền địa phương cũng có tác động đến quá trình thu hút đầu tư nước ngoài. Công tác quản lý hành chính công còn nhiều bất cập. Trong kỳ họp Quốc hội cuối năm, Thủ tướng Phan Văn Khải đã nêu ra ba vấn nạn lớn gồm: thủ tục hành chính rườm rà, nạn quan liêu tham nhũng và lãng phí tràn lan. Công tác xúc tiến đầu tư còn chồng chéo, chưa có tính hệ thống, mang tính cục bộ và không xuyên suốt. Các địa phương tổ chức hội nghị, hội thảo có hiện tượng chồng chéo. Các tỉnh đua nhau đưa ra các ưu đãi nhằm thu hút đầu tư như miễn giảm thuế, tiền thuê đất, thời hạn hoạt động của dự án... Chính tình trạng cạnh tranh trong thu hút đầu tư khiến các nhà đầu tư bối rối khi lựa chọn địa điểm đầu tư cũng khiến cho hiệu quả xúc tiến đầu tư không cao. Bên cạnh đó, các địa phương chỉ chú ý thu hút các nhà đầu tư mới mà chưa quan tâm đến giai đoạn thực hiện và triển khai dự án. Điều đó giải thích phần nào cho vốn đăng ký tăng thêm chỉ bằng mức của năm 2004. Ngoài ra, lĩnh vực khuyến khích đầu tư lại không đưa ra các ưu đãi kèm theo như thành phố Hồ Chí Minh, khuyến khích đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhưng chưa có ưu đãi nào cho nhà đầu tư vào lĩnh vực này. Hơn nữa, các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, chưa cung cấp đủ nguyên nhiên liệu  (cả về số lượng và chất lượng ), chưa đáp ứng về giá cả và thời hạn giao hàng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong thời gian, số lượng các doanh nghiệp nội địa có tăng nhưng mới dừng lại ở việc sản xuất các chi tiết, linh kiện kích cỡ cồng kềnh và công nghệ đơn giản. Điều này gây cản trở việc mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp FDI cũng như thu hút vốn FDI mới. Hơn nữa, tác động tràn của hoạt động đầu tư nước ngoài chưa được phát huy. 3.nguyên nhân: Những nguyên nhân của những thành tựu Sự tăng trưởng của vốn FDI vào Việt Nam từ nửa cuối năm 2004 đến nay là dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước ta. Sự gia tăng về lượng vốn và thay đổi về chất trong thu hút vốn FDI xuất phát từ một số nguyên nhân sau: Thứ nhất là sự tăng lên của vốn FDI vào nước ta nằm trong xu hướng tăng chung của toàn thế giới. Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, và mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài như tiếp tục quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Thứ ba, kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng, đạt tốc độ tăng trưởng 8,4%, cao nhất kể từ năm 1997 cho đến nay. Tốc độ tăng trưởng cao và ổn định là biểu hiện của môi trường đầu tư thuận lợi, ổn định, việc sử dụng vốn đầu tư đạt hiệu quả cao. Đó chính là nguyên nhân kéo dòng vốn FDI chảy mạnh vào Việt Nam, nơi có tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao. Đây cũng chính là động cơ của tất cả các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ tư, Môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng được cải thiện. Điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài là sự ổn định về chính trị xã hội, sự đảm bảo về an ninh, sức lao động chất lượng cao với chi phí thấp. Việc hoàn thiện hệ thống luật pháp đã tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ, rõ ràng cho nhà đầu tư nước ngoài Thứ năm, hoạt động xúc tiến đầu tư đã được tích cực triển khai ở nhiều ngành, nhiều cấp, trong nước và nước ngoài như việc tổ chức thành công Diễn đàn hợp tác, đầu tư và Triển lãm đầu tư trực tiếp nước ngoài đã cung cấp thông tin về môi trường đầu tư Việt Nam nhằm thu hút đầu tư nước ngoài; cuộc đối thoại giữa cơ quan Chính phủ với các nhà đầu tư nước ngoài tổ chức vào tháng 4 năm 2005 được tổ chức nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những khó khăn mà nhà đầu tư nước ngoài gặp phải. Các địa phương cũng chủ động tổ chức các cuộc vận động và hội nghị xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước và đã thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Nguyên nhân của những hạn chế: - Do hệ thống hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế: Thủ tục hành chính, luật đầu tư, luật về quyền phát minh sáng chế, chính sách khuyến khích đầu tư,    Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ. Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt. - Do quá trình đào tạo nhân lực không sát với nhu cầu của thị trường, còn mang nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn, coi trọng số lượng hơn chất lượngChất lượng cán bộ quản lý nền kinh tế còn hạn chế. - Nguồn ngân sách còn hạn hẹp, chưa đầu tư đúng mức cho cơ sở hạ tầng. Phân bổ nguồn vốn chưa hợp lý nên hiệu quả sử ụng vốn chưa cao. Một số bất ổn về chính trị - xã hội, tình trạng chống phá vì mục dích chính trị. - Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam. - Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. -Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế. - Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp. - Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm  ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh.  III - Tác động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước ta: Tác động tích cực: Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.   Về mặt kinh tế: - ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và  tăng trưởng kinh tế: Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%, trong đó: (i) 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); (ii) 5 năm 1996-2000: tăng 6,94% (nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990: (iii) 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%; (iv) Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29% và (iv) Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%.  - ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp: Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, trong đó từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều công trình trọng điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và  năm 2006). Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.  -  ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ: ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy...  Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ. Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới. - Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế: Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.  - ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:             Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007  khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005. ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu... - ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế:             Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007. ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc   Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới. Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Về mặt xã hội: - ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực:             Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7361.doc
Tài liệu liên quan