Chủ nghĩa duy vật tầm thường đại biểu là Buykhơnơ, Môletsốt, phôgtơ, không tìm thấy được sự khác biệt giữa vật chất và ý thức, xem ý thức cũng là một dạng vật chất, coi tư tưởng đối với óc giống như mật đối với gan hay là nước tiểu đối với thận, chủ nghĩa duy vật kinh tế, coi kinh tế là cái duy nhất quyết định sự phát triển của xã hội, trong khi đó thực ra kinh tế chỉ quyết định sự phát triển của xã hội khi xét đến cùng và cũng không phải là một nhân tố quyết định duy nhất.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 21789 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Vấn đề cơ bản của triết học và các trường phái triết học trong lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các phạm trù phổ quát mà tâm thức sử dụng để hiểu về các hiện tượng) để cho lý tính khám phá, nhưng trái ngược với chủ nghĩa duy tâm Plato ở chỗ nó khẳng định sự không chắc chắn về một thế giới không thể biết được ở bên ngoài tâm thức của chính ta. Ta không thể tiếp cận vật tự thân (tiếng Đức: Ding an Sich) nằm ngoài thế giới tâm thức của ta. (Chủ nghĩa duy tâm của Kant được gọi là chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm.)
Với Johann Fichte phủ nhận vật tự thân của Kant, ông cho rằng ý thức tự xây dựng cơ sở cho mình, rằng cái tôi tinh thần của bản thân không dựa vào thế giới bên ngoài, và rằng giả thiết về một vật bên ngoài thuộc bất cứ kiểu nào cũng giống như thừa nhận về một vật chất có thực. Ông là người đầu tiên thử xây dựng một lý thuyết về tri thức mà không dựa trên bất cứ một phỏng đoán nào, trong đó không có cái gì bên ngoài tư duy được giả thiết là tồn tại bên ngoài phân tích khởi đầu về khái niệm. Nhờ đó nhận thức có thể đặt nền móng chỉ trên chính nó, và không giả định bất cứ điều gì mà không suy dẫn từ đó trước nhất. (Quan điểm này khá tương tự với chủ nghĩa duy tâm thực tế (actual idealism) của Giovanni Gentile, chỉ khác ở chỗ lý thuyết của Gentile tiến xa hơn, đến chỗ thậm chí phủ nhận cả cơ sở cho một bản ngã hay cái tôi được tạo ra từ tư duy.)
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm bản chất của thế giới là vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất là cái có trước và quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là kết quả của quá trình đúc kết khái quát kinh nghiệm đề vừa phản ánh những thành tựu mà con người đã đạt được trong từng giai đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ hoạt động trên nền tảng của những thành tựu ấy.
Chủ nghĩa duy vật là một hình thức của thực hữu luận với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết tự nhiên phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát được trong thiên nhiên được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân tự nhiên mà không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại của cái siêu nhiên. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm. Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa duy vật đã trải qua 3 giai đoạn cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật chất phác ra đời vào thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật thể hiện khá rõ ở các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Tuy những quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình có tính chất kế thừa từ những quan điểm của chủ nghĩa duy vật chất phác nhưng nó có sự phát triển hơn do cơ học cổ điển thời kỳ này đạt được những thành tựu rực rỡ. Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã ra đời mà C.Mác và Ăngghen là những người xây dựng và Lênin là người hoàn thiện và bổ sung.
Trước hết ta xét hình thức thứ nhất của chủ nghĩa duy vật là Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ, xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ như ở Ấn Độ, Trung Hoa, Hylạp. Về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống lại những tư tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng về mặt phương pháp luận thì chưa có cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa học của bản thân tri thức triết học. Vì, quan niệm về thế giới là vũ trụ, là vạn vật, vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính của vật thể cụ thể, v.v… còn ý thức là linh hồn, là cảm giác nhưng nó phụ thuộc vào vật chất.
Ănghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời cổ, và nguời đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Héraclite: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn nhưng mang tính ngây thơ chất phác vì chủ yếu dựa vào quan sát trực tiếp, chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành vì lúc đó chưa phát triển.
Tiêu biểu cho chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ là Đêmôcrít (460 – 370 TCN). Ông là nhà Triết học duy vật cổ đại nhất trong thế giới cổ đại. Ông là người hiểu biết sâu rộng rất nhiều lĩnh vực: Triết học, toán học, đạo đức học, sinh vật học… là học trò và người kế tục phát triển quan điểm của Lơxip. Nổi bật trong triết học duy vật của ông là học thuyết về nguyên tử. Đêmôcrit cho rằng nguyên tử không nhìn thấy được, không âm thanh, màu sắc và mùi vị. Chúng đồng nhất với nhau về chất nhưng khác nhau về hình thức, thứ tự và tư thế. Ông quan niệm nguyên tử là vô hạn về lượng và hình thức. Mỗi sự vật đều được cấu tạo bởi những nguyên tử do sự kết hợp giữa chúng với nhau theo một trật tự và thế nhất định. Sự biến đổi vật chất là do sự thay đổi trình tự sắp xếp của những nguyên tử tạo thành còn bản thân nguyên tử thì không thay đổi. Nguyên tử luôn vận động trong không gian ông thấy rõ quan hệ chặt chẽ giữa vật chất và vận động. Vận động là vốn có của nguyên tử chứ không phải được đưa từ ngoài vào. Nhưng ông chưa thấy được nguồn gốc của vận động và vận động không chỉ là sự di chuyển trong chân không của các nguyên tử. Dựa vào thuyết nguyên tử, Đêmôcrit thừa nhận sự ràng buộc lẫn nhau theo quy luật nhân quả tính khách qan trong tính tất yếu của sự vật, hiện tượng tự nhiên. Đó là đóng góp quan trọng của Đêmôcrit vào triết học duy vật. Song ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên, ông coi ngẫu nhiên là một hiện tượng không có nguyên nhân. Đêmôcrit bác bỏ quan nhiệm về sự sản sinh ra sự sống và con người của thần thánh. Theo ông sự sống là kết quả của quá trình biến đổi dần đần từ thấp đến cao cảu tự nhiên. Sinh vật đầu tiên sống ở dưới nước, sau đó chuyển lên cạn, cuối cùng con người được ra đời. Ông coi cái chết là sự phân tích của các nguyên tử tạo nên xác và của những nguyên tử cấu tạo lên tinh hồn chứ không phải linh hồn rời khởi thể xác. Tuy quan niệm của Đêmôcrit còn mang tính mộc mạc song nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống các quan điểm duy tâm và tôn giáo về tính bất tử của linh hồn người. Đêmôcrit đã có công lao to lớn trong xây dựng lý luận nhận thức giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác là điểm khởi đầu của nhận thức và tư duy trong việc nhận thức thế giới.
Ông cho rằng đối tượng của nhận thức là vật chất, là thế giới xung quanh con người và nhờ sự tác động của đối tượng nhận thức vào con người nên con người mới nhận thức được. Đêmôcrit phân chia nhận thức thành nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý. Nhận thức mờ tối do các giác quan đem lại còn nhận thức chân lý là do sự phân tích sâu sắc về sự vật để nắm bắt bản chất bên trong của nó.Triết học duy vật của Đêmôcrit đã đóng vai trò quan trọng trong chủ nghĩa vô thần. Ông cho rằng sự tồn tại của thần chẳng qua là sự cách hoá những hiện tượng của tự nhiên hay những thuộc tính của con người chẳng hạn thần Dớt là sự nhân cách hoá mặt trời, thần ATêna là sự nhân cách hoá thuộc tính của con người.
Khái niệm nguyên tử được xây dựng trên cở sở các khái niệm về “tồn tại” và “không tồn tại”. Theo ông “tồn tại” là cái được xác định, cái đa dạng, cái có ngoại hình. Độc lập với cái “tồn tại” là cái “không tồn tại” hay cái “trống rỗng”. Cái trống rỗng là cái không xác định, cái vô hình, bất động vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì đến cái vật thể nằm trong nó, nhờ nó mà các vật thể có thể vận động được. Cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống rỗng nào để cho phép phân chia nó nhỏ hơn nữa, được gọi là nguyên tử. Vì vậy, nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được nữa, hoàn toàn nhỏ bé và không thể cảm nhận bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu không thay đổi, trong lòng nó không có cái gì xảy ra nữa. Nguyên tử có vô vàn hình dạng. Theo quan niệm của Đêmôcrít các sự vật là do các nguyên tử liên kết lại với nhau tạo nên. Tính đa dạng của nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới các sự vật. Nguyên tử tự thân, không vận động, nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể thì làm cho vật thể và thế giới vận động không ngừng. Trong lý luận nhận thức, khái niệm linh hồn được Đêmôcrít cũng như các nhà duy vật cổ đại hiểu như là hoạt động tâm linh. Linh hồn là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt thế giới hữu sinh và thế giới vô sinh. Linh hồn, theo ông cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc biệt có hình cầu, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn, luôn luôn động và sinh ra nhiệt làm cho cơ thể hưng phấn và vận động. Do đó linh hồn có một chức năng quan trọng đem lại cho cơ thể sự khởi đầu vận động. Trao đổi chất với môi trường bên ngoài cũng là một chức năng của linh hồn và được thực hiện thông qua hiện tượng thở của con người. Như vậy linh hồn là không bất tử, nó chết cùng thể xác. Về các dạng nhận thức của con người, Đêmôcrít phân thành nhận thức do các cơ quan cảm giác đem lại và nhận thức nhờ lý tính. Nhận thức đem lại do cơ quan cảm giác là loại nhận thức mờ tối, chưa đem lại chân lý. Còn nhận thức lý tính là nhận thức thông qua phán đoán và cho phép đạt chân lý, vì nó chỉ ra cái khởi nguyên của thế giới là nguyên tử, tính đa dạng của thế giới là do sự sắp xếp khác nhau của các nguyên tử. Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít trình bày các quan điểm của mình trên lập trường tư tưởng của giai cấp chủ nô dân chủ. Ông coi chế độ nô lệ là hợp đạo lý, cần sử dụng nô lệ như các bộ phận của thân thể. Đêmôcrít đã có những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người, theo ông không phải ở lời nói mà việc làm. Con người cần hành động có đạo đức. Còn hạnh phúc của con người là ở khả năng trí tuệ, khả năng tinh thần nói chung. Đỉnh cao của hạnh phúc là trở thành nhà thông thái, thở thành công dân của thế giới.
Mặt khác đối với Sam Khuya : vào thời gian đầu, triết lý Samkhuya không thừa nhận "tinh thần vũ trụ tối cao" phủ nhận sự tồn tại của thần. Ngược lại nó khẳng định thế giới này là thế giới vật chất. Đã giải thích mọi vật của thế giới là kết quả của sự thống nhất ba yếu tố. Đó là Sativa (sự trong sáng; Tamas (tính ỳ thụ động) và Rajas (kích thích động). Khi 3 yếu tố này ở trạng thái cân bằng thì vật chất đầu tiên chưa biểu hiện nhưng khi cân bằng bị phá vỡ thì sinh thành vạn vật của vũ trụ.
Tuy nhiên quan niệm về vật chất của phái Samkhuya còn có nhiều hạn chế. Họ cho ràng dạng vật chất đầu tiên là không nhận biết được và giải thích về hình thành vạn vật còn chưa đúng đắn đó là quan niệm về sự hình thành thế giới hữu hình đa dạng từ thế giới vô hình, đồng nhất.
Còn với Nyaya: ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất rất phong phú đa dạng bao gồm nhiều sự vật, hiện tượng. Thế giới này tồn tại trong không gian do các hạt nhỏ cấu tạo nên và được gọi là nguyên tử. Nguyên tử của thực thể này khác nguyên tử của thực thể kia ở chất lượng, hình dạng và cách kết hợp. Các vật thể chỉ tồn tại nhất thời, thường xuyên thay đổi và chuyển hoá. Đây quả là một quan niệm thiên tài hết sức đúng đắn trong điều kiện khoa học tự nhiên thời bấy giờ chưa phát triển. Đã để lại một tư tưởng quý báu cho nhân loại mà các nhà duy vật sau này tiếp tục kế thừa và phát huy.
Tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của phái Nyaya còn hạn chế ở chỗ coi thế giới vật chất tạo nên bởi 4 yếu tố đất, nước, lửa, không khí, cho rằng nguyên tử không biến đổi, không chia cắt được. Âu cũng là do hạ chế về khoa học tự nhiên lúc bấy giờ.
Đối với Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn của Phương Đông cổ - trung đại. Cùng với những phát minh có tính chất vạch đường trên mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên, y học, Trung Quốc còn là quê hương của nhiều hệ thống triết học lớn. Nhìn một cách tổng thể, các trường phái triết học cổ đại Trung Quốc đa phần theo khuynh hướng duy tâm, tuy nhiên vẫn có một số tư tưởng duy vật tiến bộ có ý nghĩa to lớn mà điển hình là Mạc Gia. Mạc Gia đầu tiên đề xuất quan hệ giữa thực và danh như một phạm trù triết học. Chủ trương "lấy thực đặt tên để nêu ra cái thực", "cái dùng để gọi tên, cái được gọi lên là thực". Điều đó có nghĩa khách quan là tồn tại thực. Đồng thời, Mạc Gia cho rằng để đánh giá đúng sai trong thực tế khách quan phải dựa vào 3 tiêu chuẩn: trước hết lập luận phải có căn cứ, thứ hai phải được chứng minh và thứ ba lập luận cần có hiệu quả. Thuyết "tam biểu" này của Mạc Gia thể hiện thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật chất phác, các học thuyết cùng thời khó sánh kịp. Về sau thời Hậu Mạc đã phát triển khía cạnh duy vật lên một tầm cao mới. Họ cho rằng sự tồn tại của vật chất là bất diệt, hình thái tồn tại của sự vật thì có thay đổi, thời gian, không gian liên hệ mật thiết với sự vận động của sự vật. Vật thể vận động trong không gian và thời gian và muốn nhận thức được thế giới, trước hết nhờ các khí quan cảm giác (tai, mũi, miệng, mắt, thân) đồng thời để nhận thức sâu sắc sự vật, con người phải nhờ tâm, tức là hoạt động tư duy là quá trình phân tích so sánh, tổng hợp trừu tượng hoá để đạt đến ý nghĩa của nó. Vì vậy họ đã làm rõ mối quan hệ giữa cảm giác và tư duy. Các triết gia hậu Mạc còn phân ra tri thức thành 3 loại: "Văn tử" là sự hiểu biết nhờ sự truyền thụ của người khác, "Thuyết trị" là kết quả do sự hoạt động suy luận đem lại, "Thân trị" là kết quả do sự quan sát, đúc kết kinh nghiệm đem lại.
Những quan điểm duy vật của phái Mạc Gia đã hơn hẳn những phái khác về nhận thức lý luận. Hệ thống lôgic của họ đã tấn công vào thuyết hoài nghi và bất khả thi của phái Trang - Chu. Đồng thời phê phán khía cạnh duy tâm trong học thuyết của phái Công Tôn Long.
Tuy vậy, học thuyết của Mạc Gia vẫn không tránh khỏi một số sai lầm như xem trời là đấng anh minh có quyền lực tối cao, trời tạo ra muôn loài. Mạc Tử còn tin có cả quỉ thần giám sát hành vi con người. Dù vậy, những tư tưởng của Mạc Gia đã khiến cho thế hệ sau này phải ngưỡng mộ bởi tính đúng đắn tiến bộ của nó trong điều kiện hết sức lạc hậu như vậy. Cũng có lẽ vì thế mà học phái Mạc Gia đã không có chỗ đứng trong tư tưởng của giai cấp phong kiến và bị tuyệt diệt vào đời Tần hán. Đó là Chủ nghĩa duy vật Trung Hoa cổ đại.
Với phương tây cũng xuất hiện Chủ nghĩa duy vật Phương Tây cổ đại và được chia thành nhiều trường phái khác nhau trong đó triết học Hy Lạp cổ đại là một đại diện tiêu biểu.
Thời cổ đại, các ngành khoa học của Hy Lạp đã rất phát triển, đặc biệt thiên văn, toán học, y học… Triết học duy vật nhờ đó phát triển rực rỡ, chứa đựng hầu hết các nội dung cơ bản của nó. Trường phái tiêu biểu cho triết học Hy lạp là Hêraclit .
Hêraclit (530-470 TCN)Ông cho rằng thế giới muôn vật không do thần thánh nào tạo nên, cũng không phải con người tạo ra mà là do ngọn lửa vĩnh viễn, linh động nhen nhóm lên. Mọi sự vật luôn ở trạng thái vận động, biến đổi và chuyển hoá qua lại. Ông nêu lên tư tưởng hiện vật đều trôi đi, hiện vật đều biến đổi "người ta không thể tắm 2 lần trên 1 dòng sông". "Mặt trời luôn luôn luôn đổi mới và vĩnh viễn đổi mới"
Theo ông nguồn gốc của mọi sự vật thay đổi là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật. Mọi vật đều nảy nở trong quá trình đấu tranh và sự vận động, phát triển liên tục của sự vật tuân theo các yếu tố khách quan, qui luật quyết định.
Về lý luận nhận thức, Hêraclit cho rằng nhận thức là phản ánh hiện tượng khách quan. Ông chia quá trình nhận thức ra làm 2 giai đoạn cảm tính và lí tính. Hai giai đoạn này có quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể chỉ có một giai đoạn tồn tại độc lập.
Về hạn chế: Hêraclit đã quan niệm lửa là nguồn gốc tạo ra vạn vật. Mọi vật trao đổi với lửa và lửa trao đổi với tất cả. Mọi sự biến hoá của sự vật dựa trên sự chuyển hoá của chúng thành những dạng vật chất đối lập với bản thân chúng. "Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh ra từ cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí.
Đến thời Trung Cổ Phục Hưng và cận đại: đây là những thời kỳ mà chủ nghĩa duy vât Tây âu có nhiều thắng lợi rực rỡ.
Đối với Franxi Bêcơn (1561 - 1621): Là người sáng lập triết học duy vật Anh. Becơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của Thế giới vật chất khoa học không biết cái gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tựnhiên ông cho rằng con người cần phải thống trị làm chủ tựnhiên. Điều đó thực hiện được hay không phụ thuộc vào hiểu biết của con người.
Theo BêCơn, nhận thức tốt nhất là đi từ cái riêng lẻ đến cái chung, cái trừu tượng. Tri thức chỉ có thể đạt được bằng cách giải quyết những quan hệ nhân quả hiểu biết đúng là hiểu biết bằng nguyên nhân.
Song chủ nghĩa duy vật của Bêcơn là duy vật siêu hình. Ông quy sự vận động của vật chất thất thành sự lặp lại vĩnh viễn những hình thức bất biến. Ông cũng chưa vượt qua được bức tường tôn giáo và nhà thờ để hoàn toàn tự do với những tư tưởng khoa học và biết học đặc sắc của mình.
Đối với hình thức cơ bản thứ hai là chủ nghĩa duy vật siêu hình đại biểu là Lútvích Phoiơbắc (1804 – 1872) ông là một nhà nhân vật kiệt suất trước Mác, là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản dân chủ. Ông đã có công lớn trong việc phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêgghen cũng như chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung, khôi phục vị trí xứng đáng của triết học duy vật. Khi chống lại luận điểm duy tâm của Hêgghen coi giới tự nhiên là “tồn tại khác” của tinh thần, Phoiơbắc đã chứng minh thế giới là vật chất, giới tự nhiên tồn tại ngoài con người không phụ thuộc vào ý thức của con người, là cơ sở sinh sống của con người. Giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại và vận động nhờ những cơ sở bên trong nó.Triết học của ông mang tính chất nhân bản. Nó chống lại nhị nguyên luận về sự tách rời giữa tinh thần và thể xác, ông coi ý thức tinh thần cũng là một thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Từ đó cho phép khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa tồn tại và tư duy. Phoiơbắc không chỉ chống lại chủ nghĩa duy tâm, mà với triết học nhân bản của mình ông còn đấu tranh chống những quan niệm duy vật tầm thường quy các hiện tượng tâm lý, tinh thần về các quá trình lý hóa, không thấy sự khác nhau về chất giữa chúng, chẳng hạn như coi óc tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra mật. Phoi-ơ-bắc đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt quan niệm về thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định, chính con người sáng tạo ra thượng đế. Khác với Hê-ghen nói đến sự tha hóa của ý niệm tuyệt đối, Phoi-ơ-bắc nói đến sự tha hóa của bản chất con người vào thượng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện, nghĩa là hướng tới những cái gì đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng thượng đế; từ đó Phoi-ơ-bắc phủ nhận mọi thứ tôn giáo thần học về một vị thượng đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống của con người. Ông nói rằng bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thương giữa con người thành mối quan hệ chi phối mọi mối quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Ông còn khuyên mọi người rằng : “Hãy yêu nhau đi, hãy ôm lấy nhau mà hôn đi”.
Hình thức cơ bản thứ ba và cũng được xem là hình thức cơ bản cuối cùng của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng đại biểu là Mác, Ăngghen, Lênin. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác – Anghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận thức khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực đó.
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát điểm của phương pháp luận.
Triết học Mác – Lênin còn được coi là hệ thống các nguyên lý, phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng và sự vận dụng nó trong việc nghiên cứu lịch sử và nghiên cứu con người. Cho nên triết học Mác – Lênin còn được gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nghiên cứu triết học Mác – Lênin thực chất là việc khẳng định ý nghĩa bước ngoặc cách mạng do Mác thực hiện trong lịch sử triết học và được Lênin bổ sung phát triển thêm. Triết học Mác – Lênin không chỉ giải thích về thế giới vật chất và vai trò con người về mặt lí luận mà chủ yếu là sự vận dụng nó trong hoạt động thực tiễn xã hội để khẳng định vai trò của triết học đối với đời sống xã hội. Sự hình thành và phát triển của phép biện chứng duy vật Mác – Lênin đã bao hàm sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học. Sự hình thành những quan điểm duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin được coi là cơ sở lí luận về mặt thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học để nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu con người. Đó cũng là việc khẳng định sản xuất vật chất được coi là cơ sở đối với sự tồn tại, vận động phát triển của xã hội, khẳng định con người là chủ thể của lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là lực lượng sang tạo chân chính của lịch sử, đồng thời nhấn mạnh vai trò quyết định tồn tại của xã hội, ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Triết học Mác – Lênin giải quyết mối quan hệ triết học và khoa học hiện đại trên cơ sở nghiên cứu của triết học. Song, nó cũng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân thế giới, là cơ sở lí luận cho sự hoạt động của đảng cộng sản trong quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới, và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại". Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Ngược lại, triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển khoa học.
Chủ nghĩa duy vật tầm thường đại biểu là Buykhơnơ, Môletsốt, phôgtơ, không tìm thấy được sự khác biệt giữa vật chất và ý thức, xem ý thức cũng là một dạng vật chất, coi tư tưởng đối với óc giống như mật đối với gan hay là nước tiểu đối với thận, chủ nghĩa duy vật kinh tế, coi kinh tế là cái duy nhất quyết định sự phát triển của xã hội, trong khi đó thực ra kinh tế chỉ quyết định sự phát triển của xã hội khi xét đến cùng và cũng không phải là một nhân tố quyết định duy nhất.
Ngoài ra còn có Chủ nghĩa duy vật Kitô giáo, Chủ nghĩa duy vật văn hóa, Chủ nghĩa duy vật biện chứng , Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Chủ nghĩa duy vật tiêu trừ , Chủ nghĩa duy vật cách mạng, Chủ nghĩa duy vật Pháp, chủ nghĩa duy vật hoàn nguyên / Thuyết hoàn nguyên hay Chủ nghĩa duy vật Descartes tất cả đều có quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất.
Trả lời mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học cũng đã xuất hiện nhị nguyên luận khi lấy việc thừa nhận vật chất và ý thức là hai nguyên thể song song tồn tại, không có cái nào trước, chúng là hai nguồn gốc tạo nên thế giới, mà Đêcáctơ (1596-1650) là một nhà khoa học, đồng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề cơ bản của triết học và các trường phái triết học trong lịch sử.doc