Chuyên đề Vấn đề xuất khẩu của Hà Nội trong thời kỳ đổi mới - Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

Lời cảm ơn 2

Danh mục chữ viết tắt 3

Danh mục các bảng biểu 4

PHẦN MỞ ĐẦU 8

1.Tính cấp thiết của đề tài 8

2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8

3.Phương pháp nghiên cứu 9

4. Những đóng góp chủ yếu của luận văn 9

5.Kết cấu, nội dung của luận văn 9

CHƯƠNG 1: CÁC LÝ THUYẾT VỀ XUẤT KHẨU VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ THÀNH PHỐ TRONG NƯỚC VÀ NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU 10

1.1. Các lý thuyết về xuất khẩu 10

1.1.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế 10

1.1.1.1.Khái niệm xuất khẩu 10

1.1.1.2.Vai trò của xuất khẩu 11

1.1.2.Các lý thuyết về xuất khẩu trong thương mại quốc tế 15

1.1.3. Các hình thức xuất khẩu 20

1.1.4. Các công cụ chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu 22

1.2. Kinh nghiệm phát triển ngoại thương của một số thành phố trong nước và quốc tế 28

1.2.1.Kinh nghiệm của Singapore 28

1.2.2. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh 31

1.2.3. Kinh nghiệm phát triển xuất khẩu của Thành phố Hải Phòng 33

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA HÀ NỘI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI KINH TẾ (1986 - 2000) 36

2.1.Đặc điểm chung của Thành phố Hà Nội 36

2.1.1. Những lợi thế của Thủ đô Hà Nội trong việc phát triển xuất khẩu 36

2.1.2.Những khó khăn của Thành phố Hà Nội trong việc phát triển xuất khẩu 38

2.2.Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Hà Nội 39

2.2.1.Hoạt động xuất khẩu của Hà Nội trước đổi mới (Trước 1986) 39

2.2.2. Hoạt động xuất khẩu của Hà Nội thời kỳ đổi mới (1986 - 2000) 42

2.2.2.1.Hoạt động xuất khẩu của Hà Nội giai đoạn 1986 - 1990 42

2.2.2.2.Hoạt động xuất khẩu giai đoạn 1991 -2000 50

2.2.3.Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm hoạt động xuất khẩu của trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2000) 73

2.2.3.1. Những thành tựu Hà Nội đã đạt được 73

2.2.3.2. Hạn chế trong hoạt động xuất khẩu của Hà Nội 75

2.2.3.3.Bài học kinh nghiệm về hoạt động xuất khẩu của Hà Nôi 78

 

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI KỲ 2001-2010 80

3.1.Những yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu của Hà Nội trong thời gian tới : 80

3.2. Mục tiêu phát triển xuất khẩu Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010. 81

3.3.Quan điểm phát triển xuất khẩu Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010. 82

3.4. Một số giải pháp phát triển xuất khẩu của Hà Nội : 85

3.4.1. Giải pháp phát triển sản xuất và tạo nguồn hàng, sản phẩm xuất khẩu 85

3.4.2. Giải pháp về tổ chức xúc tiến thị trường và phát triển một số thị trường trọng điểm 89

3.4.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ đẩy mạnh xuất khẩu .90

3.3.4. Phối hợp của Hà Nội đối với các doanh nghiệp Trung ương và các Tỉnh Thành khác 91

3.4.5. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách đẩy mạnh xuất khẩu 92

3.5. Một số kiến nghị 94

KẾT LUẬN 97

Danh mục tài liệu tham khảo 98

 

 

 

 

 

doc99 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Vấn đề xuất khẩu của Hà Nội trong thời kỳ đổi mới - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoá lớn như : lạc, khoai tây, tỏi ớt, rau quả.. Đầu tư giống mới, kỹ thuật bảo quản để chế biến nông sản. - Thành phố đã có những chương trình đầu tư vốn để nhập khẩu các tư liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Với chủ trương, những xí nghiệp xây dựng mới phải có kỹ thuật tiên tiến, sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Chọn phương thức đầu tư ít nhất nhưng tạo được hàng xuất khẩu nhanh nhất thì đầu tư, không phân biệt hình thức sở hữu. Giám đốc xí nghiệp làm hàng xuất khẩu chủ động vay ngoại tệ đầu tư sản xuất , lo thị trường tiêu thụ, Thành phố không bao cấp. - Ban hành các chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, các dịch vụ tăng ngoại tệ. - Quy định về giá sản xuất đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Chấp nhận sản phẩm xuất khẩu phải được hưởng giá cao nhất. - Ưu tiên vốn đầu tư ngoại tệ và vốn cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu. Bên cạnh những chuyển biến tích cực mà Đảng bộ và Chính quyền Thành phố đã thực hiện để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, song phải thừa nhận rằng sự đổi mới nói chung và trong hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra còn chậm chạp. - Kết quả hoạt động xuất khẩu giai đoạn 1986 - 1990: Theo số liệu thông tin kinh tế - xã hội của Hà Nội, tình hình xuất khẩu được thể hiện trong Bảng 2.1.Nếu lấy năm 1990 so với 1986, kim ngạch xuất khẩu đã tăng 69,80% . Về nhóm hàng.: Hàng nông sản xuất khẩu qua các năm đều tăng, nhất là năm 1989 và năm 1990. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Hà Nội trong thời kỳ này chưa có chuyển biến lớn so với thời kỳ 1981 -1985, chủ yếu vẫn là hàng nông lâm hải sản ở dạng thô và sơ chế(rau quả tươi, lạc, tỏi khô, nâm), hàng thủ công(thêu ren, mây tre, mỹ nghệ) và hàng tiêu dùng thuộc ngành công nghiệp nhẹ(may mặc, mũ, giày, khăn bông, dệt kim. .) Cơ cấu thị trường hàng xuất khẩu trong gia đoạn 1986 - 1990 chủ yếu tập trung vào thị trường các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên tỷ trọng thị trường xuất khẩu sang các nước XHCN giảm xuống và tỷ trọng thị trường xuất khẩu với các nước khác trong tổng kim ngạch tăng dần. Thời kỳ này, cùng với xu hướng chung của cả nước, Hà Nội đã bắt đầu mở rộng thị trường sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Biểu 2.2.xuất khẩu của thành phố hà Nội giai đoạn 1986 - 1990 Đơn vị tính: 1000 R-USD STT 1986 1987 1988 1989 1990 1 Tổng KNXK 48.100 52.880 60.524 78.570 81.677 Tính theo RUP 30.700 33.880 37.716 42.495 49.677 USD 17.400 19.000 22.808 36.075 32.000 2 Tốc độ tăngtrưởng(%) - 1.09 1.14 1.29 1.03 Nguồn : thông tin KT-XH (1985 - 1992) Hà Nội, xuất bản 1993 Nhìn chung, Hoạt động xuất khẩu của Thủ đô giai đoạn này đã đạt được tốc độ tăng trưởng đáng kể với sự đa dạng hoá các loại hình, đa phương hoá thị trường và đối tượng hợp tác, đồng thời đã thu hút được các thành phần kinh tế tham gia vào xuất khẩu. Như Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ Hà Nội khoá XI đã ghi nhận: “ Hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng, góp phần quan trọng vào việc cấu trúc lại cơ cấu ngành kinh tế và tăng tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện cán cân thương mại, mở cửa nền kinh tế.”(22) Tuy nhiên nếu nhìn nhận và phân tích một cách sâu hơn sẽ thấy, hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và xuất khẩu của Hà Nội còn bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế. Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của Thủ đô Hà Nội, với tư cách là trung tâm kinh tế của cả nước. Tốc độ tăng trưởng nhanh song không ổn định. Những yếu kém và hạn chế nói trên là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhất là nguyên nhân chủ quan sau đây: Về nguyên nhân khách quan : - Hà Nội chịu ảnh hưởng khá nặng nề của mô hình công nghiệp hoá cổ điển và cơ chế quản lý cứng nhắc của mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp trước đây. Do vậy, Hà nội phải trải qua một giai đoạn chuyển đổi để từng bước thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên xô(cũ) và Đông Âu, sự tan rã của Hội đồng tương trợ kinh tế và chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam đã đưa tới những trở ngaị không nhỏ. Nói cách khác, chính nguyên nhân này làm cho thị trường truyền thống bị thu hẹp, nếu không muốn nói là mất đi và thị trường mới với yêu cầu cao hơn thì Hà Nội chưa có đủ điều kiện để đi vào với quy mô lớn. Về nguyên nhân chủ quan: - Hà Nội chưa biết khai thác tiềm năng là vị trí trung tâm kinh tế của cả nước và Khu vực Phía Bắc, trước hết là đối với các Tỉnh lân cận của đồng bằng Bắc Bộ. Do đó còn chậm có những chủ trương, biện pháp, đòn bảy kinh tế hữu hiệu để thu hút và tận dụng tiềm năng đó, thu hút các nguồn nguyên liệu từ các Tỉnh để đưa vào tinh chế phục vụ xuất khẩu. Về điểm này, Thành phố Hồ Chí Minh có kinh nghiệm và đạt được thành công lớn hơn nhiều so với Hà Nội. - Các doanh nghiệp Trung ương và địa phương trên địa bàn Hà Nội còn chậm trong việc tạo ra cơ chế đổi mới kỹ thuật - công nghệ và nâng cấp cơ sở vật chất cho sản xuất, kinh doanh. Do vậy, Hà Nội chậm xây dựng những mặt hàng mũi nhọn có khả năng xuất khẩu, cạnh tranh được trên các thị trường, kể cả những “ thị trường khó tính”. - Sự yếu kém về năng lực của bộ máy cán bộ xuất nhập khẩu. đúng như Hội nghị đại biểu giữa kỳ của Đảng bộ Hà Nội khoá XI đã nhận định: “Cái đáng lo ngại nhất là trình độ của cán bộ về quản lý Nhà nước, quản lý sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong liên doanh với nước ngoài còn thấp so với yêu cầu. Bộ máy còn quá cồng kềnh, kém hiệu lực”. 2.2.2.2.Hoạt động xuất khẩu giai đoạn 1991 -2000 - Những chủ trương của Trung ương và Thành phố : + Chủ trương của Trung ương : Kể từ sau 1990, Trung ương đã ban hành một số chính sách khuyến khích hơn nữa hoạt động xuất khẩu. Một loạt các văn bản mới được ban hành nhằm tháo gỡ và đẩy mạnh hơn hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói tiêng. Nhưng chính sách này đã thúc đẩy rát lớn hoạt động xuất khẩu trên địa bàn. + Nghị định 114/HĐBT quy định các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu khi có đủ 4 điều kiện. Nghị định 114/HĐBT đã đánh dấu bước chuyển dần từ mô hình Nhà nước độc quyền ngoại thương sang tự do hoá ngoại thương. Nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Nghị định 57/CP của Chính phủ ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài Chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và có sự điều chỉnh của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Chính sách thuế xuất nhập khẩu : ngày 17/11/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 94/CP quy định chi tiết việc sửa đổi, bổ sung một số điều Luật thuế xuất nhập khẩu. Luật thuế XNK đã phù hợp với quy định quốc tế mà Việt Nam phải thực hiện (kê khai hải quan theo mã số HS, áp dụng Luật thuế VAT...) + Chủ trương của Thành phố Hà Nội: Đầu thập niên 1990, Thành phố đã cùng cả nước triển khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991 - 1995 với trọng tâm là tiếp tục đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trong 5 năm này, Hà Nội phải phấn đấu có bước chuyển trong cơ cấu kinh tế, trong đó xuất nhập khẩu có vai trò đòn bảy phát triển kinh tế xã hội. Có thể nói, bắt đầu từ giai đạn này, hoạt động xuất khẩu của Hà nội mới thất sự khởi sắc. Tuy thời kỳ này, Hà Nội lấy sản xuất thay thế nhập khẩu là chủ yếu song rất coi trọng đổi mới công nghệ để sản xuất hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thành phố đã tập trung vào một số chương trình sau: + Tập trung sản xuất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp hàng xuất khẩu, đổi mới công nghệ để tăng sản xuất xuất khẩu các sản phẩm tinh xảo và có hàm lượng kỹ thuật cao như: điện điện tử, cơ kim khí tiêu dùng, dệt may da, thực phẩm chế biến...Cần có chính sách ưu tiên, tập trung đầu tư phát triển các ngành xuất khẩu lớn +Đa phương hoá quan hệ thương mại, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tập trung phát triển thị trường đã có, thâm nhập và khai thác các thị trường mới. + Phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu theo hướng nâng cao chất lượng các mặt hàng truyền thống đi đôi với mở rộng các mặt hàng mới. Việc chuyển đổi trọng tâm trong chính sách công nghiệp sang sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã tạo chuyển biến lớn trong cơ cấu nội bộ của ngành công nghiệp chế biến. Xuất khẩu hàng hoá trên địa bàn Thành phố Hà Nội 10 năm qua đều tăng trưởng liên tục, đạt được những mục tiêu đặt ra và đóng góp một phần đáng kể vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trên địa bàn giai đoạn 1996-2000 tăng bình quân 16,6%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 6500 triệu USD. Riêng năm 2000, kim ngạch xuất khẩu đạt 1625 triệu USD, tăng 4,72 lần so với năm 1991 (344 triệu USD). Xuất khẩu của doanh nghiệp thuộc địa phương cũng tăng trưởng với mức cao. Tổng kim ngạch xuất khẩu địa phương thời kỳ 1991-1995 là 541,9 triệu USD; bình quân mỗi năm tăng 26%; thời kỳ 1996-2000 là 1.604 triệu USD, bình quân mỗi năm tăng 20%. Tuy nhiên, trong những năm 1996 - 2000, tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu Hà Nội có xu hướng giảm dần trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (trên địa bàn từ 16,85% năm 1991 xuống 14,3% năm 1996 và còn 11,04% năm 2000; của địa phương tương ứng là 3,8% - 3,4% và 2,7%). Điều này có thể giải thích bằng việc trong số các mặt hàng xuất khẩu trên địa bàn và của địa phương Hà Nội không có dầu thô và một số nông, lâm hải là những mặt hàng có kim ngạch lớn và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất của Việt Nam. Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của Thành phố Hà Nội giai đoạn 1991 - 2000 1991 1995 1996 1997 1998 1999 2000 KNXK của cả nước (triệu USD) 2042 5448,9 7255,9 9185 9360 11540 14308 KNXK địa bàn (triệu USD) 344 755 1037,5 1200,3 1256,2 1418 1625 Tỷ trọng (%) 16.85 13.85 14.3 13.1 13.4 12.3 11.04 Tốc độ phát triển liên hoàn (%) 137,42 115,7 104,7 112,9 111,4 KNXK địa phương (triệu USD) 63,6 161,3 247,5 300,3 306,5 349,5 400 Tỷ trọng (%) 3.08 2.96 3.4 3.3 3.3 3.01 2.7 Tốc độ phát triển liên hoàn (%) - - 153,4 121,3 102,1 114 111,5 Nguồn: Sở Thương mại Hà Nội * Mặt hàng xuất khẩu: Hà Nội đã hình thành được nhóm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực (có khối lượng tương đối lớn và thị trường khá ổn định): dệt - may, giày dép, điện - điện tử, thủ công mỹ nghệ, nông sản và thuỷ hải sản. Từ năm 1998, một số mặt hàng mới trong lĩnh vực cơ - kim khí và công nghệ phần mềm cũng đang dần hình thành và phát triển, xu hướng trong một vài năm tới có thể xuất khẩu với quy mô nhất định loại hàng hoá có hàm lượng công nghệ và chất xám cao này. Kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của địa phương tăng đều qua các năm ) Bảng 2.4. Kim ngạch một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của thành phố Hà Nội 1991- 2002 Đơn vị tính : Triệu USD Nhóm hàng Kim ngạch xuất khẩu So sánh (lần) 1991 1996 2000 2000/1991 2000/1996 May dệt 4.4 32 58 Tăng 13 lần 1.81 lần Giày dép 0.5 15 26.2 Tăng 52.4 lần 1.74,7lần Điện - điện tử 2.2 85 130 Tăng 59 lần 1.53 lần Nông lâm thuỷ sản 7.3 44.5 68.85 Tăng 5.79 lần 1.83 lần Cơ kim khí 1.3 3.5 6.8 Tăng 5.23 lần 1.94 lần Thủ công mỹ nghệ 3.6 10 9.7 Tăng 2.7 lần 2.69 lần Nguồn : Sở Thương mại Hà Nội Kim ngạch xuất khẩu nêu trên đã thể hiện bước đi bứt phá ban đầu của Hà Nội trong việc tạo nên mặt hàng xuất khẩu chủ lực, phù hợp với việc chuyển dịch cơ chế kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và tăng cường khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của Thủ đô.(Bảng 2.4) Bảng 2.5: thị trường xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Hà Nội 1991-2000 Đơn vị: triệu USD Nhóm hàng Thị trường chủ yếu Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 1991 1996 2000 Dệt may EU, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, ASEAN, Mỹ 6,7 32,0 58 Giày dép EU, Mỹ, Đông á,SNG 0,5 15 26,2 Nông lâm - thuỷ hải sản EU, Nhật Bản, Mỹ, ASEAN, SNG, Đông Âu... 14,5 46 84 Điện, điện tử Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, SNG,... 0 85 129,9 Hàng cơ kim khí Lào, Malaysia, Trung Quốc, ... 1,3 3,5 6,8 Thủ công mỹ nghệ Đài Loan, ASEAN, EU, Mỹ 3,6 10 9,7 Tổng số 26,6 191,5 314,6 Nguồn: Sở Thương mại Hà Nội. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu Hà Nội cũng được cải thiện theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô. Tỷ trọng kim ngạch hàng nông - lâm - thuỷ hải sản của địa phương Hà Nội giảm từ 25,2% năm 1995 xuống còn 21% năm 2000, của nhóm hàng công nghệ phẩm tăng tương ứng từ 61% lên 68,5%. Mặt hàng XK của Hà Nội tập trung chủ yếu ở các nhóm hàng: May-dệt, giày dép, điện-điện tử, thủ công mỹ nghệ, nông sản và thuỷ hải sản. Ngoài ra, những năm gần đây(1998), bắt đầu xuất hiện một số mặt hàng xuất khẩu mới trong lĩnh vực cơ kim khí và mặt hàng công nghệ phần mềm cũng đang dần hình thành và phát triển, xu hướng trong một vài năm tới có thể xuất khẩu được loại hàng hoá công nghệ cao này. + Hàng May-dệt: - Kim ngạch 1991-2000 : KNXK tăng qua các năm kể từ sau khi VN ký Hiệp định với EU năm 1992. Năm 1991 KN đạt 4.4 triệu R, USD, năm 1995 đạt 28.9 triệu USD, năm 1996 đạt 32 triệu USD và năm 2000 đạt 58 triệu USD, tăng 13 lần so với 1991 và tăng 81% so với 1996. - Năng lực SX: hiện nay trên địa bàn Hà Nội có khoảng trên 110 cơ sở sản xuất hàng dệt may, trong đó có khoảng 80 là DN, Địa phương HN có khoảng trên 80DN có cơ sở SX hàng dệt may, trong đó có 56 DN tham gia XK sang thị trường có hạn ngạch. với tổng số thiết bị may dệt các loại khoảng 10.000 chiếc, công suất SX khoảng 22.000SP (quy sơ mi)/năm, bằng khoảng 3% năng lực của toàn quốc. - Thị trường xuất khẩu chủ yếu là EU, Canada (thị trường có hạn ngạch) và Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Đài Loan, Hoa Kỳ (thị trường không hạn ngạch) cụ thể theo bảng dưới đây: Biểu 2.6. Thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Hà Nội (1996 - 2000) Đơn vị: 1000 USD Thị trường Năm 1996 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 EU 9.200 16.750 21.280 24.236 Nhật Bản 8.800 12.300 12.400 12.849 Hàn Quốc - 9.015 9.286 9.659 Canada 1.890 2.553 3.154 2.350 Đài Loan 578 2.101 908 2.402 ASEAN - 837 1.300 1.318 Hoa Kỳ 45 57 110 774 Nguồn: Sở Thương mại. Những hạn chế trong sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may: Quy mô sản xuất hàng dệt may nhìn chung còn nhỏ, vệ sinh công nghiệp kém, đầu tư còn không đồng bộ, chưa có quy hoạch ngành, bộ máy quản lý cồng kềnh (DNNN), năng suất lao động chưa cao. Xuất khẩu chủ yếu là gia công, giá rẻ và qua trung gian nên thị trường đầu ra không ổn định, năng lực cạnh tranh kém, hiệu quả thấp. Cũng như tình trạng chung của cả nước, sản xuất hàng dệt may của Hà Nội chủ yếu làm gia công cho các công ty nước ngoài, phần lớn nguyên, phụ liệu là do các công ty nước ngoài đưa vào, trong nước chưa sản xuất được hoặc chất lượng thấp. Ngành dệt chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành may hơn nữa các doanh nghiệp thường chuộng làm gia công cho nước ngoài hơn là mua nguyên liệu và bán thành phẩm (FOB) vì độ rủi ro thấp, việc phân phối, thiết kế đã có khách hàng lo. Bán FOB phải phụ thuộc nhiều yếu tố như: chất lượng nguyên liệu, thiết kế mẫu mã, tiếp thị sản phẩm và quan hệ với các kênh phân phối tại nước ngoài. Các doanh nghiệp còn yếu, kém về tạo mẫu và marketing còn trông chờ vào việc cấp hạn ngạch (đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh), chưa tích cực khai thác thâm nhập các thị trường phi hạn ngạch, bị cạnh tranh mạnh về hàng may mặc của Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, ... trên thị trường Quốc tế. Hàng giày dép: - Kim ngạch XK: Năm 1991, đạt 0,5 triệu R-USD, năm 1995 đạt 12 triệu USD, năm 1996 đạt 15 triệu USD và năm 2000 đạt 26,2 triệu USD, tăng 52 lần so 1991 và tăng 74,7% so với 1996. Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội có khoảng 16 doanh nghiệp chuyên sản xuất giầy, trong đó có 3 doanh nghiệp Trung ương, 5 doanh nghiệp quốc doanh Địa phương và 8 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngoài ra, còn có một số công ty khác có tham gia sản xuất giầy như công ty Barotex (Bộ thương mại). Địa phương Hà Nội quản lý gần 10 doanh nghiệp sản xuất giầy vải và giầy da các loại với công suất quy giầy vải khoảng trên 14 triệu đôi/năm.; SX giày vải chiếm 80%, chiếm khoảng 80%. Hiện nay, Hà Nội chưa có doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sản xuất giầy chủ yếu là do giá lao động của Hà Nội cao hơn các tỉnh thủ tục thuê đất còn nhiều bất cập, giá thuê đất cao hơn các nơi khác.... Trong thời gian qua, các doanh nghiệp quốc doanh địa phương Hà Nội tích cực đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, trang bị những máy móc thiết bị tiên tiến của Thế giới, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Các công ty TNHH hầu như có qui mô sản xuất nhỏ, vốn đầu tư thấp, lao động ít, thấp chủ yếu là sản xuất giầy dép phục vụ thị trường nội địa. Các doanh nghiệp nhà nước Trung ương có quy mô sản xuất lớn hơn các doanh nghiẹp địa phương, kim ngạch XK lớn hơn, thị trường XK cũng lớn hơn, vốn ổn định hơn. Thị trường xuất khẩu: chủ yếu là EU, Mỹ, Nhật, Đài loan, Hàn Quốc... Sản xuất và xuất khẩu giầy của Hà Nội còn có những tồn tại như sau: Mặt hàng giày vải SD nguyên liệu trong nước là chủ yếu nhưng thị trường đầu ra không ổn định dẫn đến kim ngạch XK không ổn định, năm thấp, năm cao. Giày thể thao và giày da chiếm khoảng 20% KNXK giày, sử dụng nguyên liệu NK là chủ yếu (80-90%), hiệu quả không cao, cạnh tranh gay gắt với hàng Trung quốc. Sản phẩm giầy- dép da cao cấp là mặt hàng có giá trị cao hơn giầy vải và là mặt hàng thế giới có hướng tiêu dùng lớn, song các doanh nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu Hà Nội chưa có sự quan tâm đầu tư vào thiết bị công nghệ chế biến da thuộc và sản xuất giầy da cao cấp để đáp ứng nhu cầu này. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng chưa chế tạo được khuôn mẫu và phụ tùng nên tất cả các sản phẩm đều được sản xuất theo mẫu có sẵn theo đơn đặt hàng và do vậy bị phụ thuộc rất lớn vào các nhà nhập khẩu, trong khi đó, mặt hàng giầy dép thuộc vào các loại hàng thường xuyên có sự thay đổi về mẫu mã, kiểu dáng và nhìn chung ta chưa đáp ứng được thị hiếu thẩm mỹ của người tiêu dùng. Toàn bộ ngành giầy dép vẫn chưa có Viện thiết kế mẫu mốt. Các phòng thiết kế ở các doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức độ triển khai các mẫu mốt mà bạn hàng đưa tới. Do vậy, vấn đề đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng giầy dép hiện nay là phải nắm bắt được thông tin về mẫu mốt, thị hiếu tiêu dùng, kiểu dáng được ưa chuộng để có kế hoạch sản xuất và cung ứng kịp thời. Hình thức xuất khẩu chủ yếu mà các doanh nghiệp sản xuất giầy dép Hà Nội đang áp dụng là hình thức gia công xuất khẩu (trừ công ty giầy Thượng Đình). Các doanh nghiệp Hà Nội chưa vượt qua được các rào cản mà các đối thủ cạnh tranh trực tiếp tạo nên như chất lượng mẫu mã và giá cả. Bên cạnh đó sự phụ thuộc vào nhà nhập khẩu, chưa tạo dựng được ấn tượng với người tiêu dùng cũng góp phần làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Hà Nội cũng chưa chú ý tới việc tuyên truyền, quảng cáo, cung cấp thông tin về sản phẩm cho người tiêu dùng dẫn tới tình trạng người tiêu dùng không phân biệt được đâu là sản phẩm giầy dép của Việt Nam đâu là sản phẩm của các nước Châu á khác. Các nước đang phát triển khác cùng có lợi thế như Việt Nam về giá lao động rẻ và trình độ khéo léo đã làm cho khả năng thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp Hà Nội càng kém hơn, đặc biệt tại các thị trường như Mỹ, Nhật Bản. Ví dụ: Năm 1996, thị phần của Trung Quốc trên thị trường Mỹ là 62% giầy thể thao, 56% giầy vải và 60% giầy da. Tại thị trường Nhật Bản hàng giầy dép của Trung Quốc chiếm 75,7% tổng số nhập khẩu, Inđônêsia chiếm 10,3%. Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế này là các doanh nghiệp sản xuất giầy dép xuất khẩu Hà Nội chưa quan tâm xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý đủ mạnh: có kiến thức về ngoại thương, nhanh nhạy trong nắm bắt các cơ hội, xu hướng biến động của thị trường, nguyên liệu không đồng bộ, ít khả năng đầu tư công nghệ cao và công suất thiết bị lớn. + Điện, điện tử: Kim ngạch xuất khẩu : Năm 1991 chưa xuất khẩu hàng điện-điện tử. Năm 1993 XK 2,2 triệu USD, năm 1996 XK 85 triệu USD, năm 2000 XK đã đạt xấp xỉ 130 triệu USD, tăng 59 lần so 1993 và tăng 53% so với 1996. Những năm trước (1993-1995), xuất khẩu hàng điện-điện tử do các công ty trong nước (Cty điện tử ánh sao, công ty Hanel) XK sang thị trường Đông Âu (Nga...) và Singapore. Từ năm 1996, chủ yếu do các Công ty có vốn đầu tư nước ngoài XK sang các công ty Mẹ (Hàn quốc, Nhật bản...). Mặt hàng XK chủ yếu là đèn hình, dây dẫn điện đồ điện dân dụng... Tuy nhiên, năm 1998, kim ngạch giảm mạnh do khủng hoảng tài chính trong khu vực (giảm 17% so với năm 1997). Có hai loại sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là hàng điện tử gia dụng (phần lớn là ti vi), có doanh số xuất khẩu không lớn và linh kiện đầu vào như đèn hình của Orion-Hanel. Ngoài các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xuất khẩu hàng điện tử do một số công ty trong nước nhập khẩu từ Trung quốc và Thái lan và xuất đi các nước khác. Khác với các nước láng giềng, ta không xuất khẩu các thiết bị bán dẫn, thiết bị viễn thông, đồ dân dụng và các sản phẩm điện tử tiêu dùng khác. Thị trường xuất khẩu gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN, Hoa Kỳ... Về sản xuất hàng điện tử của các doanh nghiệp Hà Nội chủ yếu là lắp ráp, phụ thuộc khá nặng nề vào linh kiện và đầu vào khác của nước ngoài. Hầu hết các sản phẩm đều mang nhãn hiệu nước ngoài, có thị trường tiêu thụ ổn định. Hiện nay, sản xuất hàng điện tử chủ yếu do các công ty liên doanh nước ngoài trên địa bàn thực hiện như Daewoo Hanel, Orion-Hanel ... + Hàng thủ công mỹ nghệ: Hàng thủ công mỹ nghệ là một trong các mặt hàng xuất khẩu chính của Hà Nội. Kim ngạch XK: Năm 1991 đạt 1,3 triệu R-USD, năm 1995 đạt 8 triệu USD, năm 1996 đạt 10 triệu USD và năm 2000 đạt 9,7 triệu USD tăng 7,46 lần so 1991 và gần bằng KNXK của năm 1996, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt khoảng 39 triệu USD. Nhìn chung, sản phẩm thủ công mỹ nghệ XK của Hà Nội chủ yếu là thu gom ở các tỉnh, các làng nghề truyền thống (mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, cói...). Tại Hà Nội chỉ có một số cơ sở thêu ren, sơn mài tập trung ở một số cơ sở SX nhỏ hoặc tại các gia đình. Vì phải đi thu gom nên chất lượng SP không đồng đều, không đáp ứng được các đơn hàng lớn của khách hàng nên thị trường đầu ra không ổn định, kim ngạch XK thấp. Riêng đối với hàng đồ gỗ TCMN, do năm 1997, Chính phủ có chính sách "Đóng cửa rừng" nên kim ngạch XK hàng này giảm nhiều, chỉ chiếm 5-10% KNXK hàng TCMN nhưng đến năm 1999, KNXK mặt hàng này dần được phục hồi do sử dụng gỗ rừng tự nhiên nhập khẩu. KNXK hàng mây, tre đan, cói...có xu hướng ngày càng tăng do nhu cầu nhập khẩu của các nước Châu Âu tăng. Hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm truyền thống nên chủ yếu được làm bằng tay, tỷ lệ làm bằng máy rất ít, do đó mà hàng của ta có tính độc đáo. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn tồn tại một số bất cập như sau: + Hàng thủ công mỹ nghệ Hà Nội còn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các nước có cùng mặt hàng xuất khẩu trong khu vực như Nhật Bản, Trung quốc, các nước ASEAN. Nói chung, khả năng cạnh tranh của hàng TCMN còn thấp (Chất lượng hàng hoá chưa cao, kiểu dáng mẫu mã chưa phong phú đa dạng, chi phí đầu vào cao làm tăng giá thành sản phẩm,quản lý tự phát, trong khi các nước họ đều phải có các chuyên gia cố vấn ,sản phẩm không đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng, không thực dụng như các hàng của các nước khác,không thực hiện được các đơn đặt hàng lớn, số lượng nhiều, đòi hỏi chất lượng đồng đều, thời hạn giao hàng nhanh,hàng TCMN của ta thường xuất thô, bao bì không hấp dẫn,các doanh nghiệp còn hạn chế và thấp kém trong việc tìm hiểu những nhu cầu, thị hiếu của từng thị trường, tìm được đối tác kinh doanh, xây dựng mối quan hệ bạn hàng lâu dài ổn định. - Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí chỉ là hộ gia đình sản xuất theo các đơn đặt hàng của doanh nghiệp nên nên khả năng tài chính, đầu tư về vốn và công nghệ còn hạn chế. Vấn đề vấn đề bồi dưỡng đội ngũ thợ, nghệ nhân làm hàng thủ công xuất khẩu chưa được quan tâm, nhiều doanh nghiệp còn thiếu địa điểm và khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng để triển khai các dự án đầu tư mở rộng. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp phải vay tư nhân, hiệu cầm đồ với lãi suất cao. - Taị Hà Nội, sản xuất phân tán, mua nguyên vật liệu nhỏ lẻ, vẫn vòn hiện tượng “tranh mua tranh bán” trong các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng TCMN dẫn đến hiện tượng phá giá, bán rẻ. Sản xuất hàng TCMN có thuận lợi là sử dụng chủ yếu nguồn nguyên liệu dồi dào trong nước nhưng việc tổ chức khai thác, cung ứng một số nguyên liệu cho sản xuất chưa tốt (gỗ, song, mây..) - Các ngành nghề thủ công phần lớn là sản xuất bằng tay, chưa áp dụng công nghệ, máymóc nên chất lượng không ổn định, tiêu chuẩn quy cách không đồng nhất. Đây chính là những hạn chế cho việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện đại và đảm bảo những hợp đồng xuất khẩu lớn. - Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, tì

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28642.doc