LỜI NÓI ĐẦU 52
CHƯƠNG I 54
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM. 54
1.Thi trường . 54
2. Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường . 59
II. Những vấn đề lý luận chung về hoạt động tiêu thụ 62
1. Khái niệm chung về hoạt động tiêu thụ : 62
2. Vai trò và nhiệm vụ của hoạt động tiêu thụ sản phẩm 63
2.1. Vai trò của hoạt động tiêu thụ sản phẩm 63
2.2. Nhiệm vụ của công tác tiêu thụ sản phẩm 64
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm 65
3.1. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp 65
3.1.1. Nhân tố chất lượng sản phẩm 65
3.1.2. Nhân tố giá cả sản phẩm 66
3.1.3. Phương thức thanh toán và tiêu thụ 67
3.1.4. Trình độ lao động và khả năng tổ chức hoạt động tiêu thụ 67
3.2. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 68
3.2.1. Khách hàng của doanh nghiệp 68
3.2.2. Số lượng doanh nghiệp trong nội bộ ngành 69
3.2.3. Vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế 70
3.2.4 Quan hệ thương mại quốc tế 71
3.2.5. Các trung gian Marketing 71
3.2.6. Những nhà cung ứng đầu vào 71
4.Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm. 72
4.1.Ngiên cứu thị trường. 72
4.2.Xây dựng và triển khai có hiệu quả chiến lược sản phẩm. 74
4.2.1.Nâng cao chất lượng sản phẩm. 74
4.2.2.Đa dạng hoá sản phẩm. 75
4.2.3.Phát triển sản phẩm mới. 75
4.3.Chính sách giá cả sản phẩm của doanh nghiệp. 76
4.4. Chính sách phân phối tiêu thụ hàng hóa. 77
4.5.Công tác hỗ trợ và xúc tiến bán hàng. 78
III. Mối quan hệ giữa thị trường với hoạt động tiêu thụ sản phẩm 79
CHƯƠNG II 81
HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ NGHIÊN CƯÚ TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY 81
1.Những yêu cầu chung xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê. 81
2.Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê. 82
II.Hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty 83
1.Chỉ tiêu phản ánh số lượng(hiện vật) 83
2.Chỉ tiêu phản ánh doanh thu(giá trị) 84
III. Một số phương pháp thông kê và phục vụ phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm : 86
1. Phương pháp đồ thị : 86
2. Phương pháp chỉ số : 86
3. Phương pháp dãy số thời gian : 87
4. Phương pháp dự báo thống kê : 88
CHƯƠNG III 90
VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNGKÊ ĐỂ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY DA GIẦY HN GIAI ĐOẠN (1996- 2001) VÀ DỰ BÁO NĂM 2002- 2003 90
I. Những vấn đề chung về công ty da giầy HN: 90
1. Giới thiệu khái quát về công ty. 90
2. Tóm tắt quá trình hình thành và các biến đổi của Hanshoes. 91
3. Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty Da- Giầy. 92
II.Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Da- Giầy Hà Nội: 93
1. Kết quả sản xuất kinh doanh: 93
4. Về tài chính 102
5.Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty. 104
1. Những kết quả đã đạt được và những khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. 105
2. Một số kiến nghị và giải pháp . 105
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Da Giầy HN giai đoạn (1996-2001) và dự báo năm 2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành đều tác động đến hoạt động tiêu thụ của công ty. Một sự thâm nhập mới hay rút khỏi thị trường của các doanh nghiệp khác đều làm ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ của công ty. Vì vậy những thông tin về các doanh nghiệp này công ty phải thường xuyên quan tâm để điều chỉnh hoạt động và làm chủ tình hình trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
3.2.3. Vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, đảm bảo cho năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, hàng hoá phong phú, dịch vụ được mở rộng, sản xuất năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ.
Song do tính tự phát vốn có của nền kinh tế thị trường có thể dẫn đến không chỉ tiến bộ mà cả suy thoái, khủng hoảng, xung đột xã hội, cho nên không thể không có sự can thiệp của Nhà nước.
* Vai trò của Nhà nước :
+ Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho kinh tế thị trường ra đời và phát triển.
+ Định hướng phát triển kinh tế xã hội
+ Bảo đảm dân chủ công bằng xã hội
+ Trực tiếp điều hành các doanh nghiệp Nhà nước.
Do vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường lớn như vậy nên nó cũng là một yêu tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ.
3.2.4 Quan hệ thương mại quốc tế
Để phát triển kinh doanh và sánh vai cùng với các cường quốc năm châu, việc quan hệ thương mại quốc tế đóng vai trò rất quan trọng. Thương mại quốc tế không chỉ cho chúng ta tiếp cận công nghệ mới, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa-dịch vụ mà còn tăng cường mối quan hệ tốt đẹp với các nước trên thế giới.
Để tạo được môi trường kinh doanh và những cơ hội lớn cho các nhà doanh nghiệp phát triển, ban lãnh đạo cấp cao của Nhà nước ta phải thiết lập các quan hệ ngoại giao và ký các hợp đồng thương mại với các nước khác trên thế giới và hướng tới việc gia nhập WTO (tổ chức thương mại thế giới).
3.2.5. Các trung gian Marketing
Đây là các tổ chức, dịch vụ, các doanh nghiệp và các cá nhân khác giúp cho công ty tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa-dịch vụ của mình đến người tiêu dùng cuối cùng. Đối với doanh nghiệp sản xuất , chỉ có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hóa nếu như các trung gian của họ bán được nhiều hàng hóa do doanh nghiệp cung cấp. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp sản xuất là phải lựa chọn và bố trí hợp lý các trung gian này sao cho sản phẩm đến với người tiêu dùng và phục vụ người tiêu dùng một cách tốt nhất.
3.2.6. Những nhà cung ứng đầu vào
Là các doanh nghiệp, cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố đầu vào cần thiết cho công ty và các đối thủ cạnh tranh để có thể sản xuất ra hàng hóa- dịch vụ cung ứng trên thị trường.
Bất kỳ một sự biến đổi nào từ phía người cung ứng thì sớm hay muộn trực tiếp hay gián tiếp cũng sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động của công ty.Vì vậy mà các nhà quản trị phải luôn luôn có đầy đủ thông tin chính xác về tình trạng số lượng, chất lượng, giá cả,... về các yếu tố nguồn lức cho sản xuất hàng hóa-dịch vụ để phục vụ tốt cho công tác tiêu thụ của doanh nghiệp.
4.Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
4.1.Ngiên cứu thị trường.
Trong cơ chế thị trường, thị trường là một môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng thích ứng với sự da dạng và động thái của thị trường thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển. Trên thị trường cso nhiều doanh nghiệp hoạt động , doanh nghiệp nào cũng muốn đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ của mình. Vì vậy, để đảm bảo khả năng cạnh tranh, tránh được rủi ro, doanh nghiệp phải nắm chắc thị trường. Muốn làm được điều đó, doanh nghiệp phải tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là quá trình điều tra, thu thập, xử lý và phân tích các thông tin thị trường nhằm phục vụ công tác sản xuất. Mục đích nghiên cứu thị trường là phục vụ việc ra quyết định kinh doanh. Tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh có thể có là:
+Giữ vững ở mức độ duy trì sản lượng sản xuất tiêu thụ.
+Tăng cường sản xuất tiêu thụ.
+Thâm nhập vào thị trường mới.
+Rời bỏ thị trường hay thay đổi sản phẩm.
Những quyết định cực kỳ quan trọng này có thể bảo đảm chính xác khi tổ chức công tác nghiên cứu thị trường một cách chu đáo. Nghiên cứu thị trường buộc doanh nghiệp phải phân tích cung, phân tích cầu và phân tích mạng lưới tiêu thụ. Muốn vây phải lựa chọn được phương án nghiên cứu cho phù hợp. Trong thực tiễn kinh doanh, người ta thường sử dụng các phương pháp Marketing để điều tra thị trường, chủ yếu là điều tra tại chỗ, điều tra tại hiện trường và phương pháp bán thử hàng hóa.
+Điều tra tại chỗ là phương pháp nghiên cứu thị trường thông qua tài liệu cóp sẵn như các tài liệu thống kê, báo, tạp chí và các phương tiện thông tin khác. bằng cách này thông tin thu được thường không chính xác nhưng gọn nhẹ, ít tốn kém nhưng đòi hỏi phải có chuyên gia giàu kinh nghiệm. Phương pháp này thường áp dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+Điều tra tại hiện trường là phương pháp nghiên cứu thị trường được tổ chức tại nơi cần nghiên cứu, được thực hiện bởi đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn. Bằng phương pháp này, các nhân viên dùng phiếu điều tra hoặc trực tiếp phỏng vấn đối tượng để thu thập thông tin sau đó tiến hành xử lý, phân tích. Phương pháp này phức tạp, chi phí tốn kém nhưng thông tin thu được có độ chính xác cao. Phương pháp thường áp dụng doanh nghiệp lớn và vừa.
+Phương pháp bán hàng thử là phương pháp nghiên cứu thị trường kết hợp với bán hàng hoá để đòi hỏi ý kiến khách hàng đối với các thông tin về sản phẩm.Phương pháp này thường được thực hiện dưới các hình thức chào hàng, tham gia hội chợ triển lãm, mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm,...
Phương pháp thường được áp dụng khi doanh nghiệp chuẩn bị tung sản phẩm mới vào thị trường hoặc thâm nhập thị trường.
Dù áp đụng phương pháp nào thì nghiên cứu thị trường phải đưa được các thông tin chủ yếu sau:
+Thị trường cần gì? chủng loại sản phẩm nào?
+Thị hiếu của người tiêu dùng ?
+Số lượng cần bao nhiêu? thời gian cung ứng?
+Quy cách phẩm chất sản phẩm?
+Giá cả có thể chấp nhận?
+Các thông tin về khả năng thanh toán của người tiêu dùng?
+Những người có khả năng cung ứng và năng lực của họ.
4.2.Xây dựng và triển khai có hiệu quả chiến lược sản phẩm.
Chiến lược sản phẩm là hệ thống các mục tiêu và biện pháp phát triển sản phẩm, làm cho sản phẩm luôn thích ứng với thị trường. Các mục tiêu về sản phẩm phải bao hàm cả về mặt chất và mặt lượng.
Mục tiêu và biện pháp phát triển sản phẩm phải đề cập đến 3 nội dung chủ yếu sau:
+Nâng cao chất lượng sản phẩm.
+Đa dạng hóa chủng loại sản phẩm.
+Phát triển sản phẩm mới.
4.2.1.Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Khi chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng, sản phẩm được chấp nhận. Nhờ đó doanh nghiệp tăng khả năng chiến thắng trong cạnh tranh, góp phần mở rộng thị trường. Tuy nhiên, chất lượng và gia thành sản phẩm luôn có chiều hướng mâu thuẫn. Giải quyết được mâu thuẫn này nghĩa là doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời hạ giá thành thì hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp được tiến hành một cách dễ dàng hơn. Dó đó, nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ có ý nghiã tăng khả năng cạnh tranh, tăng doanh số tiêu thụ mà còn tiết kiệm được chi phí, từ đó tăng lợi nhuận.
Chất lượng sản phẩm chịu tác động của rất nhiều yếu tố: Quy trình công nghệ, nguyên vật liệu, trình độ người lao động và người quản lý, hoạt động kiểm tra, giám sát và các yếu tố ngoại cảnh khác. Để dảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm cần có những biện pháp tác động vào các nhân tố này. Đối với Nhà nước, cần có những quy định chặt chẽ về chất lượng, đồng thời có chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm là yếu tố sống còn của doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp cần chủ động đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm. Các biện pháp đó là:
+Đảm bảo cung ứng nguyên vật liệu đúng quy cách, chủng loại, số lượng và chất lượng.
+Không ngừng áp dụng những tiến bộ khoa học- kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đảm bảo máy móc ổn định và chính xác.
+Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, lao động có tay nghề cao, đồng thời sử dụng các đòn bẩy kinh tế, khích lệ vật chất đối với người lao động
+Tăng cường tổ chức hoàn thiện bộ máy quản lý.
+Đầu tư hệ thống kho tàng bến bãi, đảm bảo duy trì chất lượng sản phẩm theo đúng quy trình kỹ thuật.
4.2.2.Đa dạng hoá sản phẩm.
Đa dạng hoá sản phẩm chủng loại sản phẩm đêtránh rủi ro là đòi hỏi khách quan của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Đa dạng hóa sản phẩm có thể thực hiện theo hai hướng: Phát triển đa dạng chủng loại sản phẩm trên cơ sở một mặt hàng chủ lực. Hình thức này thực chất là doanh nghiệp với những sản phẩm khác nhau hoàn toàn về gái trị sử dụng, nhưng thậm chí về ngành nghề kinh tế kỹ thuật nhưng có một vài sản phẩm được ưu tiên phát triển mạnh. Hình thức hai thực chất là việc cải tiến, thay đổi mẫu mã sản phẩm trên cơ sở một sản phẩm gốcnhằm khai thác các loại thị trường khác nhau. Trên thực tế, doanh nghiệp thường áp dụng cả hai hình thức này, vừa phát triển sản phẩm theo chiều rộng vừa phát triển theo chiều sâu.
Để tiến hành đa dạng hóa sản phẩm, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều biện pháp nghiên cứu thị trường, biện pháp khuyến khích người lao động có sáng kiến cải tiến kỹ thuật.
4.2.3.Phát triển sản phẩm mới.
Theo quan niệm Marketing về sản phẩm mới có thể là những sản phẩm có hoặc do kết quả nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm của công ty. Thiết kế sản phẩm mới là cần thiết cho doanh nghiệp. Sản phẩm mới có thể đạt được một sự tiến bộ đáng kể kỹ thuật song chưa hẵnđã đạt được một sự tiếnhà nước bộ về mặt kinh tế . Chẳng hạn như thời kỳ nghiên cứu thiết kế, chế thử sản phẩm quá dài, chi phí quá cao hoặc khi sử dụng phải có điều kiện bổ sung bắt buộc gây tốn kém. Vì vậy, sản phẩm mới phải nhất quán về phương diện: Tiến bộ về mặt kỹ thuật và tiến bộ về mặt kinh tế.
Để có sản phẩm mới phải trải qua các giai đoạn sau:
+Giai đoạn nghiên cứu sản phẩm.
+Giai đoạn thiết kế kỹ thuật, phát triển và hoàn thiện sản phẩm mới.
+Giai đoạn sản xuất và thử nghiệm sản phẩm.
+Giai đoạn sản xuất chính thưc sản phẩm.
4.3.Chính sách giá cả sản phẩm của doanh nghiệp.
Chính sách giá đối với mỗi sản phẩm của các đơn vị sản xuất kinh doanh là việc quy định mức giá bán. Mức giá có thể là giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng hoặc là cho các trung gian.
Chính sách giá của một sản phẩm không được quy định một cách dứt khoát khi tung sản phẩm ra thị trường mà nó được xem xét lại định kỳ trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm. Tuỳ theo mục tiêu của doanh nghiệp như: mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, mục tiêu dẫn đầu thị trường, mục tiêu dẫn đầu về chất lượng hay mục tiêu đảm bảo sống sót,... và cả tuỳ theo những thay đổi trong sự vận động của thị trường, chi phí sản xuất của doanh nghiệp, những chính sách cạnh tranh. Tất cả đều ảnh hưởng tới chính sách giá cả của doanh nghiệp.
Tuỳ theo khả năng của doanh nghiệp mà có cách xác định giá khác nhau:
+ Định giá thấp: cho phép doanh nghiệp thâm nhập và mở rộng thị trường nhanh chóng, sản lượng tiêu thụ lớn.
+ Định giá cao: kết qủa có khi ngược với định giá thấp và thường áp dụng khi sản phẩm cso tính ưu việt hơn hẵn sản phẩm khác.
+ Giá dẫn và tuân theo: khi doanh nghiệp kiểm soát được phần lớn thị trường, họ có thể ở vị trí dẫn giá, có khả năng áp đặt giá. Còn khi doanh nghiệp ở thị trường nhỏ bé, yếu thế trong cạnh tranh thì phải tuân theo giá của doanh nghiệp khác.
+ Giá linh hoạt: doanh nghiệp điều chỉnh giá theo biến động của thị trường phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp.
Như vậy, tuỳ theo mỗi doanh nghiệp mà có chính sách giá khác nhau. Với từng mức giá, doanh nghiệp phải xác định được lợi nhuận mà hàng đó đem lại và làm sao cho khách hàng thấy đựơc phần lợi ích của họ khi mua mặt hàng đó.
4.4. Chính sách phân phối tiêu thụ hàng hóa.
Hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp thực chất là hoạt động bán hàng cho người dùng hoặc thông qua các trung gian tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường, có các hình thức trung gian sau:
+ Người bán buôn: Là những trung gian hàng hoá- dịch vụ cho các trung gian khác, cho người bán lẻ hoặc cho nhà sử dụng công nghiệp khác.
+ Người bán lẻ: Là những người trung gian, bán hàng trực tiếp cho người tiêu đùng cuối cùng.
+Đại lý và môi giới: Là những người trung gian, có quyền hành động hợp pháp thay mặt cho nhà sản xuất.
Trong quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp và các trung gian cùng ký hợp đồng mua bán, quy định rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên trong quá trình tiêu thụ. Để đảm bảo quá trình tiêu thụ có hiệu quả, doanh nghiệp phải lựa chọn đúng đắn người làm trung gian cho mình, đồng thời phải thiết lập các kênh phối.
Các kênh phân phối:
+Người sản xuất đ người tiêu dùng.
+Người sản xuất đ người bán lẻ đ người tiêu dùng.
+Người sản xuất đ người bán buôn-người bán lẻ đ người tiêu dùng.
+Người sản xuất đ đại lý đ bán buôn đ bán lẻ đ người tiêu dùng.
4.5.Công tác hỗ trợ và xúc tiến bán hàng.
Hoạt động này trong nền kinh tế thị trường đã trở thành một công cụ cần thiết đảm bảo sự gắn chặt giữa sản xuất và tiêu dùng. Công tác xúc tiến bán hàng bao gồm nhiều hoạt động như:
+ Quản cáo: Bao gồm mọi hình thức giới thiệu một cách gián tiếp và đề cao những ý tưởng, đề cao những sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường.
+Xúc tiến bán: Là biện pháp tác động tức thời ngắn hạn để khuyến khích việc mua sản phẩm.
+Tuyên truyền: Là việc kích thích một cách gián tiếp nhằm tăng nhu cầu về hàng hoá-dịch vụ hay tăng uy tính của một đơn vị kinh doanh bằng cách đưa ra những cách có ý nghĩa thương mại về chúng trên các ấn phẩm, các phương tiện thông tin đại chúng một cách thuận lợi và miễn phí.
+Bán hàng các nhân: Là sự giới thiệu bằng miệng về hàng hoá-dịch vụ của người bán hàng qua cuộc đối thoại với một hoặc nhiều khách hàng tiềm năng nhằm mục đích bán hàng.
Trong mỗi loạ trên lại bao gồm một tập hợp các công cụ chuyên biệt để thực hiện truyền thông thích hợp trong những thị trường cụ thể như: Quảng cáo đặc biệt, chiến dịch quảng cáo, triển lãm, hội chợ, catalog, pano apphich, quà tặng, phiếu dự xổ số,...
Ngoài ra, cac doanh nghiệp có các hình thức hổ trợ khác nhau như: hổ trợ về phương tiện vận chuyển cho khách, về phương thức thanh toán (có thể thanh toán chậm, bán trả góp,...) để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ.
III. Mối quan hệ giữa thị trường với hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Thị trường sản phẩm và hoạt động tiêu thụ sản phẩm có mối quan hệ với nhau. Công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp gắn với thị trường, sản phẩm phải được tiêu thụ trên thị trường thì doanh nghiệp mới thuhồi được vốn và thực hiện được quá trình tái sản xuất.
Trước đây, trong kỳ bao cấp thì mối quan hệ này không quan trọng, bởi vì các sản phẩm sản xuất ra đã có nơi tiêu thụ, doanh nghiệp không cần tìm hiểu, nghiên cứu thị trường.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường thì mối quan hệ giữa thị trường và công tác tiêu thụ sản phẩm gắn bó chặt chẽ với nhau. Mỗi doanh nghiệp cần phải tìm hiểu thị trường cần những mặt hàng nà, số lượng bao nhiêu để xem khả năng của mình có sản xuất để đáp ứng nhu cầu này hay không?
Doanh nghiệp phải xem chất lượng sản phẩm, mẫu mã, chủng loại, giá cả hàng hóa mà doanh nghiệp dưa ra có phù hợp với thị trường hay không. Nếu sản phẩm được thị trường chấp nhận thì công tác tiêu thụ sẽ được thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và ngược lại.
Thị trường là nơi đánh giá thế và lực của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường là thị phần của doanh nghiệp, được tính bằng tỷ số và lượng cầu của doanh nghiệp với lượng cầu của thị trường về sản phẩm đó. Sức mạnh của doanh nghiệp là khả năng tác động vào thị trường làm thay đổi giá cả, hành vi mua hàng, có khi thôn tính cả đối thủ cạnh tranh. Người nắm được thị trường, phát triển được thị trường là người ở thế thắng. Thị trường càng mở rộng và ổn định, khả năng tiêu thụ càng tăng, sức cạnh tranh càng lớn. Mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động tiêu thụ, tăng doanh thu, tăng lơị nhuận tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp tục đầu tư hiện đại hoá sản xuất đa dạng hoá sản phẩm, tăng thêm khả năng chiếm lĩnh và cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, mở rộng thị trường còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm.
Chương II
hệ thống chỉ tiêu và các phương pháp thống kê nghiên cưú tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty
I.Những và nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu
1.Những yêu cầu chung xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê.
Không chỉ đơn thuần là nêu ra những chỉ tiêu nào đó trong hệ thống, mà quan trọng là phải đảm bảo có thể thu thập thông tin để tính toán được các chỉ tiêu một cách đầy đủ. Vì vậy để xây dựng hệ thống chỉ tiêu có khoa học và hợp lý, nội dung thông tin được phản ánh trong hệ thống, các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh danh của doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu sau đây:
-Phản ánh tính quy luật, xu thế phát triển và trình độ phổ biến của các hiện tượng kinh tế diễn ra trong quá trình hoạt đông sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể.
Về không gian là toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên quan đến doanh nghiệp.
Về thời gian thường là tháng,quý, năm hoặc thời kỳ nhiều năm để có thể phản ánh được quy luật, tín hệ thống của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
-Đáp ứng được nhu cầu thông tin phục vụ yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp ngày càng đổi mới cả về số lượng và chất lượng, yêu cầu so sánh thống kê và mở rộng hợp tác quốc tế, yêu cầu lưu trử số liệu thống kê.
Số liệu thu thập được hệ thống chỉ tiêu cho phép vận dụng được các phương pháp thống kê hiện đại và phương pháp toán học để nghiên cứu và phân ích toàn diện, sâu sát tình hình và quá trình phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, cho phép dự đoán xu thế phát triển hệ thống sản xuất kinh doanh.
Đảm bảo hiện đại hoá nhu cầu thông tin trong việc quản lý và xử lý thông tin phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê.
Hiện tượng được thống kê nghiên cứu thường được xác định bằng khái niệm cơ bản, trong đó các tiêu thức thiết yếu nhất của hiện tượng được phản ánh sắc nét và điển hình .
Chỉ cần nói đếm khái niệm cơ bản của hiện tượng, người ta đã hình dung được các đường nét cơ bản của hiện tượng đó. Tuy nhiên, chỉ những tiêu thức số lượng và chất lượng đơn giản của hiện tượng ta mới có ngay các chỉ tiêu thống (về cơ bản là các chỉ tiêu số lượng) lúc này ta có ngay sự mô tả trực tiếp cuả hiện tượng nghiên cứu. Còn các tiêu thức thuộc tính phức tạp hoặc trừu tượng thì phải trải qua cácbước cụ thể hoá dần dần mới đi đến các chỉ tiêu thống kê chẳng hạn như hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp sự hấp dẫn của tài nguyên du lịch trình độ thành thạo của lao động…các tiêu thức thuộc tính phức tạp hoặc trừu tượng thường được:trước hết bằng khái niệm cơ bản sau đó người ta chia nhỏ các khái niệm cơ bản thành các khái niệm thành phần. Mỗi khái niệm này lại chia thành các khái niệm cụ thể dần cho đến lúc chúng trở thành các chỉ tiêu đơn giản.
Quá trình này được gọi là tháo tác hoa khái niệm, trong đó các khái niệm được cụ thể hoá cho đến lúc thành các chỉ tiêu cụ thể.
Nhìn chung các hiện tượng chỉ tiêu nghiên thường rất phức tạp. Để phản ánh chính xác chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê với các chỉ tiêu sau:
-Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
-Hiện tượng càng phức tạp (nhất là các hiện tượng trừu tượng) số lượng chỉ tiêu cần nhiều hơn với các hiện tượng đơn giản.
-Để thực hiện thu thập thông tin chỉ cần điều tra các chỉ tiêu sẳn có ở cơ sở nhưng cần hình dung số chỉ tiêu sẻ phải tính toán nhằm phục vụ cho việc áp dụng các phương pháp phân tích, dự báo ở các bước sau.
-Để tiết kiệm chi phí, khồn thể không để một chi phí tiêu thức nào trong hệ thống.
*Do vậy khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo nhữngyêu cầu và nguyên tắc sau:
-Chỉ tiêu thống kê phải phản ánh mặt lượng gắn với mặt chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện, thời gian và địa điểm cụ thể.
-Các chỉ tiêu thông kê phải đảm bảo tính khả thi tức là phải đảm bảo khả năng nhân tài, vật lực cho phép tiến hành thu thập tổng hợp các chỉ tiêu.
-Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo tính hệ thống của việc xây dựng hệ thống hỉ tiêu thống kê.
-Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung phương pháp và phạm vi tính toán của các chỉ tiêu cùng loại.
-Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo yêu cầu so sánh quốc tế, tiếp cận với nội dung, phương pháp thống kê của các nước trên thế giới.
II.Hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty
1.Chỉ tiêu phản ánh số lượng(hiện vật)
Khái niệm: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ là toàn bộ sản phẩm hàng hóa, dich vụ được tiêu thụ trong kỳ. Các sản phẩm tiêu thụ ở đây là những sản phẩm đã được thanh toán hay được khách hàng chấp nhận thanh toán.
-Công thức tính: qTT =qđk + qsx - qck
Trong đó:
qTT: khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
qđk: khối lượng sản phẩm tồn kho đầu kỳ.
qsx: khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ.
qck: khối lượng sản phẩm tồn kho cuối kỳ.
2.Chỉ tiêu phản ánh doanh thu(giá trị)
a.Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm(G)
-Khái niệm: Tổng doanh thu bán hàng là tổng giá trị hàng hoá tiêu thụ của doanh nghiệp, toàn bộ gía trị hàng hóa mà doanh nghiệp đã bán và thu được tiền trong kỳ báo cáo.
- Nội dung kinh tế của tổng doanh thu (G)
+ Giá trị sản phẩm vật chất và doanh nghiệp hoàn thành; đã tiêu thụ ngay trong kỳ báo cáo.
+ Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành đã giao cho người mua trong các kỳ trước và nhận được thanh toán trong kỳ báo cáo.
+ Giá trị sản phẩm vất chất hoàn thành tong các kỳ trước tiêu thụ được trong kỳ báo cáo.
Nội dung trên được tính theo giá hiện hành.
- Phương pháp tính : G = S p.q
Trong đó :
p : giá bán đơn vị từng loại sản phẩm (giá thực tế)
q : số lượng từng loại sản phẩm doanh nghiệp đã tiêu thụ được trong kỳ.
b. Tổng doanh thu thuần :
Nó là tổng doanh thu bán hàng sau khi đã trừ đi thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu (nếu có), các khoản giảm trừ khác phát sinh trong kỳ báo cáo như : chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại, các khoản đền bù, sửa chữa hư hỏng còn trong thời gian bảo hành.
- Công thức tính :
Trong đó :
DT : tổng doanh thu thuần
Pi : giá đơn vị sản phẩm i
gti : khoản giảm trừ tính trên đơn vị sản phẩm tiêu thụ
gi : khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
* Các khoản giảm trừ bao gồm :
- Chiết khấu bán hàng : là số tiền tính trên tổng doanh thu trả lại cho khách hàng do khách hàng đã trả tiền hoặc trừ bớt nợ cho khách hàng mua chịu, bao gồm :
+ Chiết khấu thanh toán : là số tiền thưởng trên phần trăm doanh thu do khách hàng thanh toán tiền hàng trước thời hạn quy định.
+ Chiết khấu thương mại : là khoản giảm trừ cho khách hàng mua khối lượng lớn hoặc là khách hàng truyền thống.
- Giảm giá hàng bán : là số tiền giảm trừ mà doanh nghiệp phải chấp nhận một cách đặc biệt trên giá bán thoả thuận vì các lý do vi phạm các điều khoản của hợp đồng kinh tế nhưng chưa đến mức bị trả lại.
- Doanh thu hàng hoá bị trả lại : là doanh thu của số hàng đã tiêu thụ nhưng bị khách hàng trả lại hoặc từ chối thanh toán do không đúng yêu câù hoặc kém phẩm chất... như hợp đồng đăng ký.
- Thuế phải nộp liên quan đến hàng bán bao gồm : thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu (nếu có)
Tổng doanh thu thuần là chỉ tiêu được dùng để tính lỗ lãi trong kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo.
Chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ rất quan trọng; nó thể hiện kết quả thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này khuyến khích doanh nghiệp không những tăng nhanh khối lượng mà còn đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm đến khâu sản suất và tiêu thụ. Một doanh nghiệp, nếu tiêu thụ được nhanh và nhiều sản phẩm, tức là đẩy nhanh được tốc độ quay của vòng vốn và việc sử dụng vốn có hiệu quả.
III. Một số phương pháp thông kê và phục vụ phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm :
1. Phương pháp đồ thị :
Đồ thị thống kê là các hình vẽ hoặc đường nét hình học dùng để miêu tả có tính chất quy ước các tàI liệu thống kê. Đồ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với các hình vẽ, đường nét và màu sắc để trình bày số lượng và đặc đIúm của hiện tượng.
Đồ thị thống kê giúp ta dễ dàng nhanh chóng nhận thức được những đặc đIúm cơ bản của hiện tượng, kiểm tra độ chính xác của thông tin bằng hình ảnh. Nó biểu thị kết của hiện tượng theo tiêu thức nào đó, sự biến động của kết cấu, hay sự phát triển theo thời gian sự so sánh giữa các mức độ của hiện tượng…
Đồ thị hình trụ, hình cột hay đường gấp khúc có thể biểu thị sự tăng giảm của những chỉ tiêu chính về tàI chính như : tổng doanh thu kinh doanh, tổng tàI sản… qua các năm, đồng thời so sánh các chỉ tiêu giữa các năm.
2. Phương pháp chỉ số :
Trong thống kê nghiên cứu kết quả, phương pháp chỉ số cho thấy bản chất của sự biến động. Chỉ số là một số tương đối, có thể biểu hiện bằng số lần hoặc số %, được tính bằng cách so sánh và mức độ của hiện tượng.
Tác dụng cơ bản và chủ yếu nhất của phương pháp chỉ số là qua đó ta phân tích được vai trò
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29087.doc