ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Lời mở đầu 1
B- Nội Dung 3
I) Tổng quan về kinh tế hộ nông dân 3
1) Khái niệm và những đặc trưng cơ bản về kinh tế hộ nông dân 3
2) Sự phân loại kinh tế nông hộ 4
3. Vai trò và ý nghĩa của việc phát triển kinh tế hộ nông dân với ngành nông nghiệp – nông thôn Việt Nam 6
4) Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân : 7
5) Các nhân ố ảnh hưởng đến việc sản xuất của hộ nông dân ,để ngân hàng có hướng giải quyết hợp lý 9
5.1) Nhân tố về các yếu tố sản xuất . 9
5.2).Nhân tố về cơ sở hạ tầng . 10
5.3). Nhân tố về chính sách vĩ mô. 11
6) Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động của HND có thể phân biệt được các HND. 13
7) Hiệu quả tín dụng: 14
5) Phương thức phân phối và sử dụng nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân: 20
II) Hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp với hộ nông dân. 30
1) Ngân hàng nông nghiệp mỹ hào : 30
2) Hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với các hộ nông dân : 34
3) Thủ tục vay vốn của hộ nông dân tại ngân hàng 36
III) Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng của NHNN đối với hộ nông dân. 38
1) Giải pháp về huy động vốn: 38
2) Những biện pháp về cho vay đối với hộ nông dân nghèo. 41
2.1. Xác đinh đối tượng cho vay: 42
2.2. Xác đinh điều kiện cho vay: 42
2.3. Lãi suất cho vay đối với hộ nông dân: 43
2.4. Mức cho vay, loại và thời hạn cho vay: 44
2.5. Quy trình và thủ tục cho vay: 45
2.6. áp dụng các biện pháp tín chấp trong việc cho vay hộ nông dân nghèo: 45
2.7. Phương thức cho vay: 46
C- Kết luận: 54
Danh mục tài liêu tham khảo 55
Mục lục 56
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2757 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Việc tín dụng cho hộ nông dân ở ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Mỹ Hào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó liên quan được hỗ trợ kinh phí hoặc trợ giá một phần cho việc đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất nụng nghiệp.Khụng điều tiết thuế thu nhập trong những năm đầu đối với nguồn thu do ứng dụng thành công tiến bộ khoa học và công nghệ; miễn, giảm thuế cho các hoạt động ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; được đào tạo, bồi dưỡng miễn phí một phần hoặc toàn bộ. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý cấp xã về kiến thức khoa học và công nghệ để triển khai thực hiện các chương trình, dự án về ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ ở nông thôn, đặc biệt ở cỏc vựng khó khăn. Coi trọng việc chuyển giao tri thức để lực lượng lao động tại chỗ có thể chủ động lựa chọn, tiếp nhận tiến bộ khoa học và công nghệ; tạo điều kiện cho nông dân vay vốn tín dụng (phải trả lãi nhưng với lãi suất thấp) để có thể tự quyết định hình thức đầu tư phù hợp nhất cho kinh tế hộ hoặc trang trại của họ.
5) Phương thức phân phối và sử dụng nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân:
Quá trình sử dụng vốn xét về mặt bản chất chính là quá trình thực hiện chuyển vốn bằng tiền của các nông hộ thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất, kinh doanh hàng hoá nông nghiệp. Như vậy quá trình sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế hộ nông dân là duy trì tiềm lực sẵn có của đất đai hoặc tiềm lực lớn hơn cho diện tích đất đai cố định nhằm nâng cao sản lượng hàng hoá nông nghiệp phục vụ cho múc đích của hộ nông dân.
Với mục đích phân phối và sử dụng vốn có hiệu quả, hộ nông dân cần phải xác định rõ:
Đầu tư vốn vào cái gì?
Đầu tư vốn như thế nào?
Số lượng vốn là bao nhiêu?
Khi người nông dân vay vốn để phát triển kinh tế thì họ đã hình thành nên một mối quan hệ giữa:
người cho vay ( các tổ chức tài chính kinh doanh tiền tệ – chủ nợ ).
người đi vay ( hộ nông dân – người nợ).
Khi đã hình thành mối quan hệ này thì hộ nông dân không được phép tự mình quyết sử dụng nguồn vốn vay mà nó còn phụ thuộc vào chủ nợ. Bởi vì, khi hộ nông dân muốn vay vốn để phát triển kinh tế thì nguồn vốn cho vay lúc này có danh nghĩa là vốn vay để phát triển sản xuất, nó phân biệt với các loại vốn vay không dành cho mục đích này, hộ nông dân sẽ phải làm các thủ tục lập một dự án hay phương án sản xuất, kinh doanh cụ thể, nói một cách rõ ràng cách thức, kế hoạch sản xuất, số lượng vốn hoặc loại vốn dự tính cần vay,...sau khi lập xong phương án sản xuất hộ nông dân trình xin cấp vốn. Lúc này, trách nhiệm của người cho vay sau khi xác định rõ loại vốn vay họ sẽ tiến hành bước thẩm đinh dự án trên các yêu cầu:
+ tính khả thi của dự án
+ khả năng bảo toàn vốn của dự án
sau khi đã thẩm định xong thì các ngân hàng cho vay quyết định giải ngân theo dự án với người vay.
Còn về phía người vay, hộ nông dân thì có trách nhiệm :
phải tổ chức, triển khai, thực hiện dự án sản xuất đúng nh đơn xin vay vốn.
Trong quá trình thực hiện dự án nếu có gì thay đổi thì phải thông báo kịp thời tới ngân hàng.
Có trách nhiệm nộp lãi và hoàn trả vốn tuỳ theo thời hạn quy định của ngân hàng ( theo tháng, quý, năm hoặc hết chu kỳ vay... )
Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi của mình, các ngân hàng cho vay cùng cử người hướng dẫn cách thức phân phối sử dụng vốn đúng mục đích, kiểm tra việc tiến hành thực hiện dự án để đảm bảo đồng vốn mình cho vay được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Thông thường các ngân hàng phân phối nguồn vốn cho vay tới hộ nông dân dưới 3 dạng:
vốn ngắn hạn ( vốn vay dưới 1năm)
vốn trung hạn ( vốn vay dưới 3 năm)
vốn dài hạn ( vốn vay trên 3 năm)
ở đây các hộ nông dân sử dụng vốn tuỳ vào mức thu nhập của từng hộ:
Đối với loại hộ nghèo và hộ đói: nguồn vốn vay chủ yếu được dùng vào
cải thiện mức sống, thoát khỏi tình trạng hộ nghèo và đói, tạo điểm khởi đầu để phát triển sản xuất từ đó phát triển kinh tế. Họ không có những dự án lớn mà thường là những dự án quy mô nhỏ, đòi hỏi nguồn vốn không nhiều, quay vòng vốn nhanh. Đó thường là những hình thức sản xuất đơn giản đòi hỏi Ýt đầu tư: nuôi lợn, gia cầm, trồng cây ăn quả ngắn ngày..., bên cạnh đó họ có thể trích một phần nhỏ để ổn định cuộc sống đảm bảo cho nhu cầu sống của mỗi thành viên trong nông hộ. Những hình thức sử dụng vốn này có thể chưa có lãi cao, thu nhập chưa lớn song nó lại mang lại hiệu quả cao trong việc tạo nên một nguồn tích luỹ ban đầu, là cơ sở cho quá trình tái đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh tế cho những hộ này. Đồng thời nó đảm bảo cho quyền lợi của ngân hàng cho vay thu hồi được tiền vốn và đảm bảo lãi bởi vì đây thường là những nguồn vốn vay ngắn hạn.
Đối với loại hộ khá và hộ giàu: vốn được dùng nhằm mục đích mở rộng
sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hộ nông dân sang kinh tế trang trại vừa, lớn hoặc nhỏ tuỳ vào điều kiện hoàn cảnh của từng hộ. Do họ đã có tiềm lực kinh tế ban đầu khá vững chắc nên vốn này sẽ chỉ dành cho mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế. Có thể đầu tư vốn vào:
giống: tìm chọn những giống cây trồng, vật nuôi... mới có năng
suất cao, hiệu quả kinh tế lớn
áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi, trồng trọt, bảo quản
chế biến sau thu hoạch để nâng cao năng suất, đảm bảo chất lượng sản phẩm, đảm bảo giá trị của sản phẩm.
đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng một cách khoa học ( cải
tiến chuồng trại, đưa kỹ thuật hiện đại vào áp dụng một cách phù hợp...) nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
ngoài ra một số hộ nông dân còn sử dụng vốn để tự đầu tư thành
lập khâu bao tiêu sản phẩm sau thu hoạch, thiết lập những kênh phân phối, đại lý giới thiệu và bán sản phẩm với phạm vi rộng...
Để làm được điều nay, hộ nông dân đòi hỏi phải có một nguồn tài chính đủ lớn và mạnh, các ngân hàng cung cáp cho các hộ này nguồn vốn dài hạn hoặc trung hạn sau khi đã thẩm định và xét duyệt dự án, tính khả thi của dự án.
đối với hộ nông dân thuộc diện hé trung bình: mục đích sử dụng vốn
cũng nhằm mở rộng phát triển kinh tế nhưng quy mô chưa thật lớn như hộ giàu và khá do sự chênh lệch về kinh tế. Các hộ này cũng sử dụng vốn để cải tiến kỹ thuật sản xuất, chọn lựa tìm kiếm những giống mới cho năng suất chất lượng cao, một phần dành đầu tư vào cở sở hạ tầng, tiến tới loại hộ khá và giàu.
Các hộ nông dân muốn phát triển kinh tế có hiệu quả thì cần phải nhận thức được tầm quan trọng cuả vốn để từ đó có được phương thức phân phối và sử dụng đúng đắn và hợp lý.
Nguồn vốn và rủi ro lãi suất: Ngân hàng phải đương đầu với rủi ro trong mức chênh lệch lãi suất. Lãi suất thay đổi sẽ dẫn đến sự tăng hoặc giảm giá trị của tài sản hay những khoản thu nhập từ tài sản của ngân hàng.
Sù thay đổi trong lãi suất và cơ cấu nguồn vốn đều có thể làm tăng hoặc giảm đáng kể lợi nhuận cuả ngân hàng, tuy nhiên trong nhiều trường hợp đối với một số ngân hàng những thay đổi này đem lại cho họ một khoản thu nhập lớn nhưng số khác sẽ gặp rủi ro về lãi suất khi đó thu nhập tiền lãi ròng của ngân hàng bị thu hẹp thậm chí có thể là số âm nếu chi phí trả lãi tăng nhanh hơn thu nhập từ lãi. Như vậy, quản lý rủi ro lãi suất luôn gắn liền với quản lý nguồn vốn và sử dụng vốn.
Nguồn vốn của các ngân hàng ngày càng trở nên nhạy cảm hơn với lãi suất do sự biến động thường xuyên của lãi suất và sự phát triển của các công cụ nợ trên thị trường tiền tệ. Ngày nay, những người gửi tiền, nhà đầu tư có xu hướng sử dụng những tài sản tài chính ngắn hạn nhằm tránh rủi ro lãi suất thì các ngân hàng phải trả lãi suất hấp dẫn hơn nhằm khuyến khích những khoản tiền gửi có thời hạn dài hơn, hoặc phải xác định lại lãi suất một cách thường xuyên. Lãi suất trả cho nguồn vốn tuỳ theo sù thay đổi lãi suất trên thị trường.
Mặc dù trong thời gian gần đây ngân hàng đã tìm ra những phương pháp mới nhằm hạn chế rủi ro lãi suất (các hợp đồng tài chính kỳ hạn, các hợp đồng quyền, hợp đồng trao đổi lãi suất...) nhưng những rủi ro này vẫn chưa được và cũng không thể bị loại bỏ hoàn toàn. Hơn nữa, cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng ngày càng quyết liệt sẽ đẩy các ngân hàng lâm vào tình trạng phải đối mặt với nhiều rủi ro, nhất là rủi ro lãi suất vì cho vay và đầu tư chiếm phần lớn trong tổng tài sản.
Nguồn vốn và rủi ro thanh khoản:
Rủi ro về khả năng thanh toán luôn gắn chặt với cơ cấu, tính chất vận động của nguồn vốn. Để duy trì các mối quan hệ dài hạn với những người gửi tiền và quản lý các nguồn tiền gửi do những người gửi tiền luôn đòi hỏi những lợi Ých lớn hơn trên các khía cạnh lãi suất và dịch vụ mà ngân hàng cung ứng cho họ. Nếu không được đáp ứng thoả đáng, kịp thời những người này có thể rút tiền hoặc chuyển tiền đến gửi tại các ngân hàng khác. Do đó, yêu cầu quản lý rủi ro thanh khoản là sức Ðp rất lớn đối với các NHTM. Mặt khác, ngân hàng còn chịu rủi ro về việc nếu không đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và cho vay đối với những khách hàng chất lượng tốt, nếu không tăng nguồn tiền mặt kịp thời có thể sẽ mất nhiều khách hàng và dẫn tới sự sụt giảm về lợi nhuận. Tình trạng thiếu hụt tiền mặt cũng có thể dẫn đến người gửi tiền không ngừng rút vốn và cuối cùng là ngân hàng sụp đổ.
Cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa các trung gian tài chính một mặt tạo cơ hội chọn lựa cho khách hàng gửi tiền, mặt khác nó buộc các ngân hàng phải quản lý các thành phần nguồn vốn chặt chẽ hơn. Nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng rất nhậy cảm với lãi suất, khả năng xuất hiện các dòng tiền ra lớn nên rủi ro về thanh toán càng lớn, vì vậy các ngân hàng cạnh tranh với nhau để có được nguồn vốn có kỳ hạn dài và ổn định.
Vốn và độ an toàn của ngân hàng:
Vốn chủ sở hữu thường không lớn trong tổng nguồn vốn nhưng nó có vai trò nh cái đệm để chống đỡ sự sụt giảm giá trị tài sản- là điều có thể đưa ngân hàng đến tình trạng không trả được nợ.
Hệ số giữa nguồn vốn nợ so với vốn chủ hữu được gọi là hệ số đòn bẩy. Đó là một tiêu thức đánh giá độ an toàn, vì vậy luật pháp các nước quy định mức tổng tài sản tối đa ngân hàng có thể có so với vốn của chủ sở hữu, hoặc hạn chế khả năng huy động tiền gửi, khả năng hùn vốn, mua chứng khoán công ty của một ngân hàng trên cơ sở nguồn vốn tự có của nó.
Những thay đổi trong cơ cấu, chi phí nguồn vốn của ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận. Lợi nhuận sụt giảm dẫn đến tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu giảm từ đó hệ số đòn bẩy cũng nh chi phí nguồn vốn có thể tăng lên làm ảnh hưởng xấu đến độ an toàn của ngân hàng.
1.2.3. Các phương thức tạo lập vốn của NHTM
1.2.3.1 Huy động vốn
Các NHTM với tư cách là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính trung gian, nhận tiền gửi từ khách hàng có tiền nhàn rỗi, hoặc phát hành các công cụ tài chính nh các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu v.v..để thu hút vốn.
Thông qua việc làm trung gian thanh toán và chuyển hoá các phương tiện thanh toán ,các ngân hàng thu hút được số lượng lớn các tổ chức, cá nhân mở tài khoản tạo ra tiền gửi giao dịch . Đây là nguồn vốn có chi phí thấp nên các NHTM thường xuyên cải tiến các phương tiện, mở ra nhiều tiện Ých, nâng cao công nghệ thanh toán để thắng thế trong việc hấp dẫn khách hàng gửi tiền và bán các dịch vụ cho khách hàng. ở các nước phát triển loại tiền gửi này giữ một vị trí tương đối quan trọng trong kết cấu nguồn vốn của NHTM, chẳng hạn ở Mỹ số tiền trên các tài khoản thuộc loại này chiếm khoảng 30% tiền gửi ngân hàng.
ở Việt Nam mét trong các yêu cầu bắt buộc khi mét doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh là phải mở tài khoản tiền gửi giao dịch tại một NHTM. Tài khoản này vừa là nơi thu nhận tiền từ những người mua hàng hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp này cung ứng, vừa là nơi bảo quản tài sản tài chính an toàn, khi cần có thể được chi trả bất cứ lúc nào và trong nhiều trường hợp, số dư của nó được dùng để bảo lãnh hay đặt cọc cho các hợp đồng hoặc các thoả ước khác. Qua đó ngân hàng vừa là thủ quĩ, vừa cung cấp dịch vụ thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân thường mở tài khoản tiền gửi giao dịch tại một hoặc một số NHTM nhất định.
Trong khi thực hiện là trung gian thanh toán các ngân hàng thương mại còn nhận được tiền gửi các tổ chức tín dụng là một loại tiền gửi giao dịch.
Để thu hút được tiền gửi phi giao dịch của các tổ chức và cá nhân, ngân hàng sử dụng các tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn các tổ chức kinh tế xã hội hoặc phát hành các loại giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi.
Ngân hàng phát hành thẻ tiết kiệm không kỳ hạn để thu hút những món tiền nhỏ lẻ hoặc những khoản tiền có thời gian nhàn rỗi ngắn. Tài khoản này có thể gửi thêm hoặc rót ra bất cứ lúc nào nhưng không được phát hành séc (đây là điểm khác biệt với tiền gửi giao dịch).
Do nhu cầu gửi tiền của khách hàng rất đa dạng tuỳ theo kế hoạch sử dụng tiền của họ trong hiện tại cũng như tương lai nên ngân hàng qui định nhiều loại kỳ hạn gửi tiền cho khách hàng lựa chọn ,có thể kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng hoặc 12 tháng.v.v..để thu hút tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Để huy động khối lượng vốn lớn theo nhu cầu tài sản từng thời kỳ, NHTM phát hành kỳ phiếu, trái phiếu với lãi suất hấp dẫn hơn vì đối tượng khách hàng này rất quan tâm đến thu nhập từ tài sản của họ .
Ngoài ra các NHTM còn cung cấp các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn đối với các tổ chức kinh tế- xã hội. Khi việc sử dụng vốn được kế hoạch trong tương lai, các tổ chức này gửi tiền theo kỳ hạn phù hợp một mặt nhờ ngân hàng bảo quản, mặt khác họ thu thêm được một khoản tiền lời do ngân hàng trả.
Ngoại trừ một số khoản tiền gửi giao dịch để đảm bảo khả năng thanh toán nh ký quĩ, bảo lãnh dự thầu hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng . v.v được qui định mang tính bắt buộc, các hình thức gửi tiền khác mang tính tự nguyện. Khách hàng có thể lựa chọn ngân hàng để gửi tiền theo các kỳ hạn khác nhau, do đó cạnh tranh về huy động vốn diễn ra quyết liệt giữa các NHTM, các tổ chức tài chính.
1.2.3.2 Vay các tổ chức tín dụng khác
Các ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng khác. Đây là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ để bổ xung dự trữ bắt buộc, bù đắp thiếu hụt trong cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn với lãi suất thoả thuận, tuy nhiên đây là nguồn vốn thường có thời hạn ngắn và chi phí cao nên việc vay mượn có tính tạm thời ,về lâu dài các NHTM tìm cách khai thác nguồn vốn tiền gửi để trả khoản nợ này.
1.2.3.3 Vay chiết khấu hay tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương
Việc vay vốn từ Ngân hàng Trung ương nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của nguồn vốn do sự giảm sút số vốn hiện có so với tài sản của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, nhu cầu khoản vay này phải phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Trung ương. ở nhiều nước khoản vay này phải ký quĩ bằng thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác. Đặc điểm nguồn vốn này là thời hạn ngắn do đó các NHTM phải tăng cường huy động các nguồn vốn khác để trả nợ ngay khi đến hạn .
II) Hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp với hộ nông dân.
1) Ngân hàng nông nghiệp mỹ hào :
NHNN được thành lập gồm có Hội đồng quản trị đứng đầu là chủ tịch hội đồng quản trị và các thành viên của hội đồng, người đứng ra quản lý trực tiếp là tổng giám đốc NHNN và ban Tổng giám đốc, Tổng kiểm soát Hội đồng quản trị, NHNN được thành lập ở tất cả các tỉnh trong cả nước, ở mỗi tỉnh lại có nhiều chi nhánh ở các huyện, quận và người lãnh đạo ở các tỉnh là giám đốc NHNN cùng ban lãnh đạo ngân hàng. Cùng với mô hình đặc thù, có Hội đồng quản trịvà Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp, đã tập hợp được sức mạnh tổng hợp các ngành, các cấp, các đoàn thể chính trị xã hội và đông đảo cộng đồng dân cư từ mọi miền đất nước góp tiền, góp sức phát huy tinh thần tương thân tương ái của dân tộc ta.Tính đến nay NHNN được thành lập ở hầu hết các tỉnh trong cả nước và hoạt động có nhiều hiệu quả.
Từ ngày thành lập và hoạt động, NHNN vừa kiện toàn bộ máy hoạt động và xây dựng cơ chế nghiệp vụ, vừa triển khai các hoạt động huy động vốn và cho vay nhưng cũng đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc cung cấp vốn tín dụng tới những hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Kết quả đó thể hiện:
Kết quả nguồn vốn huy động 6 tháng đầu năm 2008 nh sau:
Ngoại tệ: 1.073.000 USD
- Nội tệ: 2.942.372 triệu
Về kết quả cho vay: Với tổng nguồn vốn nêu trên, NHNN đã thực hiện cung cấp tới phần lớn các hộ nghèo có nhu cầu vay vốn trên phạm vi toàn quốc. Tính đến ngày 30/9/2007, đã có hơn 5,3 triệu lượt hộ nông dân nhận được vốn vay tín dụng từ NHNN với tổng số tiÒn là 8.396 tỷ đồng.
NHNN-PTNT mỹ hào được đặt tại trung tâm của huyện, có đầy đủ các thành phần kinh tế. Trên địa bàn huyện, ngoài NHNN-PTNT còn có các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác nh: ngân hàng đầu tư, ngân hàng tài chính, các tổ chức tín dụng ở các xã. nhưng với nguyên tắc và thủ tục cho vay hợp lí đã làm cho hoạt động kinh doanh của NHNN-PTNT huyện mỹ hào ngày càng phát triển.
Tại khu công nghiệp xã DỊ SỬ do hoạt động kinh doanh phát triển, nhiều hộ gia đình có du cầu vay vốn nên NHNN-PTNT huyện mỹ hào đã phối hợp với cơ quan ban nghành ở xã đặt một điểm thu ngân tại xã, để tiến hành thu lãi cho vay. Các cán bộ thay nhau để trực và thực hiện công việc đó.
Kết quả cho vay năm 2007 của NHNN-PTNT huyện mỹ hào nh sau.
Doanh sè cho vay:7.324.000.000đ/2.472 lượt hộ.
Doanh sè thu nợ:4.746.000.000đ/1.432lượt hộ.
Dư nợ 11.763.000.000đ, tăng 5.962.000.000đ, số hộ dư nợ là 4.163 hô tăng 302 hé so với năm 2000.
Dư nợ cho vay nghành nghề và dịch vụ 1.323 hộ, số tiền là 4.023.000.000đ tăng 1.251.000.000đ so với năm 2000. Dư nợ bình quân / hộ vay đạt 2,4 triệu giảm 0,2 triệu nợ quá hạn còn 4 triệu giảm 4 triệu đ so với năm 2006.
Đầu năm 2008 tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn huyện có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được kết quả khả quan, hoạt dộng ngân hàng đi vào chiều sâu với chất lượng ngày càng tăng lên. Chính phủ, Ngân hàng nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy tạo điều kiện cho Ngân hàng nông nghiệp nói chung và NHNN-PTNT huyện mỹ hào nói riêng kinh doanh đạt kết quả khá trên các mặt công tác, luôn hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của ngành giao.
Sáu tháng đầu năm 2008, hoạt động của NHNN-PTNT mỹ hào được thực sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ngân hàng nông nghiệp tỉnh, UBND huyện được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp uỷ đảng, các ban ngành trong huyện nên kết quả kinh doanh đã mang lại nhiều thành quả đáng khích lệ.
Dư nợ đến ngày 31/8/2007 là 83.241.000.000 đồng tăng so với đầu năm 25.100.000.000 đồng.
Về đối tượng phục vụ: Là những hộ gia đình nghèo có sức lao động, có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn. Hộ nghèo được nhận diện theo chuẩn mực phân loại do Bé Lao động Thương Binh và Xã hội công bố từng thời kỳ, các đối tượng này chưa được vay vốn ở các toỏ chức tín dụng. Các hô gia đình nghèo thuộc diện chính sách xã hội như già cả neo đơn, tàn tật, không có sức lao động, hoặc các gia đình nghèo gặp rủi ro bệnh tật, thiên tai, thiếu ăn do Quỹ xã hội của Ngân sách Nhà nước tài trợ. Những hộ này không thuộc đối tượng được vay vốn của NHNN. Hộ nhèo vay vốn NHNN phải thực sự sản xuất kinh doanh dich vụ, không được sử dụng vốn vay vào mục đích tiêu dùng, sinh hoạt, chữa bệnh, cứu đói, tổ chức hội hè, chơi đề, nghiện hút...
Ưu đãi về lãi suất cho vay: Nhà nước có chính sách ưu đãi về lãi suất cho vay đối với người nghèo, NHNN cho hé nông dân vay vốn với lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, Quỹ tín dụng nhân dân. NHNN cho vay cung 1 mức lãi suất cho các loại cho vay khác nhau(ngắn hạn, trung hạn). Lãi suất cho vay hộ nghèo vùng 3(Theo quy định của Uỷ ban Dân tộc và miền núi) được giảm 0,1% so với lãi suất cho vay thông thường. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay ghi trên sổ vay vốn. (Thấp hơn so với lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng thương mại là bằng 150% lãi suất cho vay thông thường). Lãi suất cho vay được thay đổi theo tưng thời kỳ do chính phủ quy định căn cứ sự thay đổi mặt bằng lãi suất chung trên thị trường. Trong 5 năm qua, đã có 5 lần thây đổi theo hướng hạ lãi suất cho vay đối với hộ nghèo từ mức lãi suất 1,2%/tháng hạ xuống 1%/tháng; 0,8%/tháng và hiện nay đang áp dụng là 0,7%/tháng, riêng đối với hộ nghèo vùng III được vay lãi suất 0,6%/tháng và đều thấp hơn lãi suất cho vay hiện hành của các NHTM và Hợp tác xã tín dụng.
Về thời hạn cho vay: Việc xác định thời hạn cho vay căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và trả nợ của người vay nhưng tối đa không quá 60 tháng. Hộ nghèo được vay vốn nhiều lần cho đến khi thoát khỏi ngưỡng nghèo theo chuẩn mực phân loại của Bộ lao động thương binh xã hội. Thời hạn cho vay trung hạn tối đa 36 tháng, nay được nghiên cứu áp dụng thời hạn tối đa 60 tháng. Ngoài ra, NHNN còn áp dụng các hình thức cho vay lưu vụ, gia hạn nợ.
Về thủ tục cho vay: Thủ tục cho vay hộ nghèo đơn giản. Hộ nghèo vay vốn không phải thế chấp tài sản. Hộ nghèo chỉ phải điền vào đơn xin vay theo mẫu đã được ngân hàng in sẵn. Trong đơn nêu rõ mục đích vay tiền, số tiền xin vay và cam kết của hộ vay vốn đối với ngân hàng.
Các quy định khác:
Hộ nghèo vay vốn phải có trách nhiệm trả gốc và lãi đầy đủ theo đúng thời hạn đã cam kết với ngân hàng. Hộ nghèo vay vốn chỉ phải trả khoản lãi vay theo lãi suất vay vốn đước NHNN công bè theo từng thời điểm cụ thể, không phải trả thêm bất kỳ một khoản phí nào khác. Việc trả lãi có thể trả theo tháng hoặc quý tuỳ theo sự thoả thuận của ngân hàng với người vay vốn. NHNN không tính lãi chưa trả để nhập vào gốc. Nừu lãi chưa thu được của kỳ trước chuyển sang thu vào kỳ kế tiếp.
NHNN phát tiền vay trực tiếp cho những hộ nghèo nằm trong danh sách đã được tổ bình nghị và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Chính sách xử lý rủi ro: Nhà nước có chính sách xử lý rủi ro để hỗ trợ hộ nghèo vay vốn gặp rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dich bệnh... gây thiệt hại đến tài sản của hộ vay vốn trong đó có vốn vay ngân hàng. Những trường hợp rủi ro này dù xảy ra trên diện rộng hay trên diện hẹp, dù khoản vay đến hạn hoặc chưa đến hạn sẽ được NHNN xử lý tuỳ theo mức độ thiệt hại. Trường hợp hộ nghèo vay vốn chưa trả được nợ do nguyên nhân sản xuất ra chưa tiêu thụ được sản phẩm thì NHNN cho gia hạn nợ đến khi hộ nghèo bán được sản phẩm trả nợ ngân hàng. Nhưng tối đa không quá 60 ngày.
2) Hiệu quả tín dụng của ngân hàng nông nghiệp đối với các hộ nông dân :
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân.
NHNN được thành lập nhằm mục đích giúp các họ nghèo vượt lên khó khăn thoát ra khỏi cảnh đói nghèo hoà nhập với cuộc sống nhưng bên cạnh đó nó cũng hoạt động nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận nhưng với mức thấp. Chính vì vậy mà khi nãi đến hiệu quả tín dụng của NHNN chóng ta phải nói tới vấn đề sử dụng vốn và hiệu quả của việc sử dụng vốn đó nh thế nào thu được lợi nhuận cao hay thấp. Cho đến nay sau 5 năm được thành lập NHNNcó tổng số vốn ban đầu là 521 tỷ đồng và bây giờ là 5015 tỷ đồng như vây sau 5 năm được thành lập NHNN đã đưa tổng nguồn vốn của mình tăng thêm giúp ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn, tốt hơn. Thu lãi cho vay vẫn là khoản thu chính, duy nhất của NHNN nên vẫn được NHNN các cấp tích cực khai thác nhằm giảm bớt căng thẳng về kinh phí hoạt động cũng như tạo tiền đề cho việc sử lý một số vấn đề có liên quan đến khả năng tài chính của NHNN, tổng số lãi thu được trong năm 2008 là 3025 tỷ tăng 15,6% so với năm 2007, tỷ lệ thu lãi bình quân toàn quốc đạt 86,6% tăng 1,6% so với năm 2007. Thu lãi từ tiền gửi đây là khoản lãi phát sinh từ số vốn tạm thời nhàn rỗi đang trên tài khoản tiền gửi tại NHNN. Tổng thu lãi tiền gửi là 502 tỷ đồng năm 2007. Hệ số sử dụng vốn trong năm 2007 bình quân cả năm là 92,6%. Nói hiệu quả tín dụng cũng là nói đến vấn đề đã cho vay được bao nhiêu tiền trong 1 năm và nó đã có tác dụng gì giúp các hộ nghèo đói chính vì vậy mà khi đánh giá hiệu quả tín dụng của NHNg chóng ta thường nhìn vào kết quả này, thật kích lệ là cho đến nay sau 5 năm thành lập nói chung là trong thời gian ngắn nhưng với sự hoạt động có gắng và có hiệu quả NHNN hàng năm cho các đối tượng thuộc diện được vay vốn vay vốn với số tiền hàng tỷ đông mỗi năm như năm 2007 doanh sè cho vay là 2171 tỷ đồng trong đó doanh sè cho vay quý IV là 724 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33,4% doanh sè cho vay cả năm. Doanh sè thu nợ đạt 1364 tỷ đồng, trong đó doanh sè thu nợ quý IV là 452 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 33,1% doanh sè thu nợ cả năm. Đến ngày 31/12/2008, tổng dư nợ cho vay hộ nghèo đạt 4704 tỷ đồng, tăng 807 tỷ đông(20,7%) so với năm 2007, trong đó quý IV tăng 326 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 40,4% trong tổng số dư nợ cả năm và đạt 89,4% kế hoạch năm 2008. Hiện có gần 2,5 triệu hộ thuộc 208 ngàn tổ vay vốn còn dư nợ NHNN. Dư nợ bình quân một hộ là 1880 ngàn đồng, tăng so với năm đầu tiên hoạt động (1996) là 500 ngàn đồng/hộ và tăng so với năm 2007 là 200 ngàn đồng/ hộ. Tính đến ngày 30/9/2008, đã có hơn 5,3 triệu hộ nghèo nhận được vốn tín dụng từ NHNN với tổng số tiền là 8396 tỷ đồng. Với số vốn vay hộ nghèo đã đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chủ yếu là đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, thâm canh tăng vụ, mở rộng ngành nghề, cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập để trả nợ ngân hàng với doanh sè thu nợ đạt 4017 tỷ đồng. Hiện còn 2467 ngàn hộ dư nợ ngân hàng với
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111454.doc