Năm 2001 các chỉ tiêu tài chính của Công ty được thực hiện tương đối tốt. Công ty đã thực hiện đầy đủ mọi chỉ tiêu của kế hoạch phát triển .Về doanh thu Công ty vượt mức kế hoạch khoảng 6,6% kế hoạch vượt khoảng 10000 USD. Theo mức kế hoạch Công ty phải đạt 150.000 USD nhưng ước thực hiện chỉ tiêu này khoảng 160.000 USD. Về chỉ tiêu giao nộp ngân sách năm 2001 Công ty cũng giao nộp đầy đủ 100% chỉ tiêu Nhà nước giao. Lợi nhuận cả năm của Công ty đạt khoảng 1.100 USD hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đặt ra. Số liệu dưới đây sẽ cho ta thấy rõ tình hình tài chính của Công ty.
54 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1812 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xây dựng chiến lược kinh doanh cho công ty xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Artexport Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thủ công mỹ nghệ càng lớn. Trong giao dịch quốc tế tuy hàng thủ công mỹ nghệ không chiếm tỷ trọng lớn song nó giao thương với tất cả các nước, không nước nào là không có danh mục hàng thủ công mỹ nghệ trong kim ngạch XNK. Chính vì vậy nên thị trường của Công ty xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT cũng khá phong phú và đa dạng.
Ta có thể phân chia thị trường xuất khẩu của Công ty như sau:
a/Nhóm thị trường Châu á Thái Bình Dương:
Đây là khu vực thị trường khá rộng lớn của Công ty, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của công ty sang thị trường này luôn là lớn nhất. Khu vực thị trường này nhìn chung khá gần gũi với các doanh nghiệp Việt Nam vì khu vực thị trường này rất rộng lớn lại có quan hệ khá chặt chẽ với các doanh nghiệp Việt Nam do nước ta cùng với các nước trong khu vực này có gia nhập tổ chức kinh tế Châu á - Thái Bình Dương OPEC chính điều này tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ta nói chung và công ty ARTEXPORT nói riêng tạo không ít thuận lợi cho hàng hoá của công ty gia nhập vào thị trường khu vực này dễ dàng hơn. Mặt khác nhóm thị trường này bao gồm các quốc gia không xa lạ gì với Việt Nam nên các hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam cũng dễ được chấp nhận hơn các nước khác. Đặc biệt hàng thủ công mỹ nghệ lại là mặt hàng có tính chất truyền thống của mỗi dân tộc nên việc tiêu thụ hàng hoá này sang các quốc gia trong khu vực có những phong tục tập quán có quan hệ với nhau thì cũng dễ được chấp nhận hơn. các mặt hàng của công ty xuất khẩu sang đây chủ yếu như: cói mây tre đan, gốm sứ, sơn mài…
b/Nhóm thị trường khu vực Tây Bắc Âu:
Nhìn chung nhóm nhóm thị trường này có sự phát triển kinh tế khá mạnh mẽ, hầu hết các bạn hàng của Công ty đều ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển như Anh, Pháp, Thuỵ Sỹ… Việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang khu vực này của Công ty có sự phát có sự phát triển nhảy vọt, rung bình mỗi năm tăng khoảng 0,5 triệu USD, năm1996 kim ngạch xuất khẩu sang khu vực này mới chỉ có hơn 2,5 triệu USD thì sang đến năm 2001 kim ngạch đã nên đến 5,3 triệu USD sự tăng nên nhanh chóng của kim ngạch xuất khẩu sang khu vực này một phần là nhờ Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam năm 1995, chính điều này đã mở đường cho mối quan hệ buôn bán của Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Nhóm thị trường này trước những năm 1990 hầu như chưa có quan hệ với công ty, nó chỉ phát triển kể từ sau 1991 khi LX tan rã thì Công ty mới tìm đến những thị trường này.
c/Nhóm thị trường Đông Âu – SNG (các nước thuộc LX cũ).
Khu vực thị trường này của Công ty là khu vực có nhiều biến động thất thường nhất. Trước những năm 1990 khi LX chưa tan rã thì đây là thị trường tiêu thụ hàng hoá chính của Công ty. Các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá của Công ty sang khu vực này hầu hết được thực hiện qua quá trình ký kết các hiệp định giữa hai quốc gia Việt Nam và Liên Xô cũ. Đến 1991 khi Liên Xô tan rã thì khu vực thị trường này của Công ty có kim ngạch xuất khẩu hầu như bằng không. Tuy nhiên hiện nay khu vực thị trường này đang dần được khôi phục, một số mặt hàng của Công ty đã bắt đầu trở lại thị trường Nga, như hàng Dệt may, Gốm sứ…Sự khôi phục lại thị trường Nga một phần nhờ các chính sách khuyến khích của Chính Phủ cũng như nỗ lực của Công ty. Đặc biệt với mặt hàng dệt may,hàng dệt may sang Nga đã dần được khôi phục và Nga đã trở thành 1 trong 10 thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 60 triệu USD trong năm 1998, tăng gần 56% so với năm 1993. Sự tăng lên nhanh chóng của hàng dệt may sang Nga được thể hiện qua bảng sau:
Biểu 4: Kim nghạch XK hàng Dệt may sang Nga thời kỳ 1993-1998.
Đơn vị triệu USD
1993
1994
1995
1996
1997
1998
38,39
48,77
44,69
45,83
46,4
60
Sự phát triển nhanh chóng của thị trường Nga phải kể đến những cố găng của cả các Công ty và của Chính Phủ như chuyến đi thăm Nga của Chủ tịch nước Trần Đức Lương(24-29/8/1998) hay như mới đây chuyến thăm nước ta của Thủ tướng Nga V.Putin đã mở ra triển vọng mới trong quan hệ buôn bán giữa hai nước.
d/Nhóm thị trường khác:
Đây là nhóm Thị trường mới của Công ty như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Braxin…trước khi Mỹ xoá bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam năm 1995 thì hàng xuất khẩu của các Doanh Nghiệp Việt Nam nói chung, của Công ty ARTEXPORT nói riêng sang thị trường này hầu như không có. Nhưng sau 1995 đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết thì thị trường này phát triển rất nhanh chóng. Hầu hết những nước trong thị trường này là những nước Công nghiệp phát triển cho nên việc chiếm lĩnh được thị trường này có một ý nghĩa rất lớn cho sự phát triển của Công ty trong tương lai. Tuy nhiên hiện nay kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang khu vực thị trường này chưa lớn,năm 1999 kim ngạch mới chỉ đạt 468.614 USD, đến năm 2000 mới tăng lên 500.000 USD.(theo nguồn tài chính kế hoạch). Dưới đây là những số liệu về tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty những năm 1990.
Biểu 5: Tình hình kinh doanh XNK của ARTEXPORT theo thị trường
Đơn vị USD
Thị trường
1996
1997
1998
1999
2000
KNXK
7493362
10718703
12090999
10404128
11254171
Châu á -TBD
3856753
4980759
4215594
4703364
5099894
Tây Bắc Âu
2486617
3439475
4682962
5921783
5398227
ĐôngÂu-SNG
853211
2037097
2495064
160940
168517
Thịtrường khác
296781
261372
703379
468614
334499
4.4/ Hoạt động quản lý kinh doanh.
Mặc dù kinh doanh ngày càng gặp khó khăn song Công ty đã có chủ trương, biện pháp chỉ đạo đúng đắn, định hướng kinh doanh xuất nhập khẩu dần từng bước đưa công tác kinh doanhXNK đi vào ổn định, phát triển vững chắc, tập trung chỉ đạo, dùng mọi biện pháp tăng nhanh kim ngạch XK hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, tăng cường quản lý chất lượng hàng hoá để đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận và quyền lợi của người nhập khẩu. Mặt khác tăng cường đẩy mạnh XK các mặt hàng tổng hợp, đảm bảo nộp ngân sách đầy đủ, đáp ứng được yêu càu phát triển của ngành. Quản lý hoạt động XNK được thực hiện chặt chẽ, tránh đổ vỡ, chậm trễ đảm bảo giao nộp hàng đúng tiến độ và đạt yêu cầu. Từ lâu Công ty không nhận được khiếu lại của khách hàng. Đội ngũ cán bộ công nhân viên năng nổ, nhiệt tình, có trình độ và kiến thức, được phân bổ, tổ chức phù hợp để có thể phát huy được năng lực của mình, đóng góp tích cực cho sự phát triển lớn mạnh của Công ty.
4.5/Phương thức sản xuất kinh doanh và Công tác quản lý thị trường trong và ngoài nước của ARTEXPORT.
Từ cơ cấu tổ chức của Công ty ta thấy Công ty không có phòng hay ban Marketing mà trên thực tế Công ty chỉ có mỗi một cán bộ đảm nhận cương vị này như một người tự do, Công ty cũng không có ban quản lý thị trường chính vì vậy mà cách phát triển thị trường của Công ty vẫn chưa thật hiệu quả. Điểm yếu trong công tác thị trường này được thể hiện rõ nét trong phương thức kinh doanh của Công ty. Về phương thức kinh doanh của công ty là không phải là Công ty sản xuất mà Công ty có phương thức kinh doanh như một công ty thương mại.
+ Về xuất khẩu: Thực tế mà xét thì Công ty không có xưởng sản xuất kinh doanh mà mặt hàng xuất khẩu của Công ty được Công ty đặt hàng ở các làng nghề truyền thống, tất nhiên các làng nghề này sản xuất theo đơn đặt hàng và chịu sự giám sát của Công ty. Các làng nghề thường được tổ chức như một hợp tác xã, đơn đặt hàng của Công ty được đặt cho người quản lý chịu trách nhiệm của hợp tác xã này. Khi công ty nhận được đơn đặt hàng từ phía đối tác với một giá thoả thuận sau đó công ty đi chào hàng lại cho các làng nghề với một giá thấp hơn, sự chên lệch giá đó chính là lợi nhuận của công ty.
+ Về nhập khẩu: Thường hàng nhập khẩu của Công ty là các hàng hoá mang tính nguyên liệu sản xuất chứ hàng có tính chất thủ Công mỹ nghệ thì hầu như Công ty ít nhập. Các máy móc thiết bị này Công ty được các nhà sản xuất trực tiếp đặt hàng qua Công ty bởi vì Công ty có những điều kiện xuất nhập khẩu hàng hoá qua hải quan thuận lợi hơn.
Từ phương thức sản xuất kinh doanh đó nên trách nhiệm vạch ra một chiến lược có tính chất Marketing không thuộc vào trách nhiệm của cán bộ quản lý thị trường mà thông thường nó do lãnh đạo của Công ty phụ trách. Cán bộ quản lý thị trường của Công ty có trách nhiệm tìm khách hàng tiêu thụ sản phẩm mới cho Công ty để từ đó gia tăng lợi nhuận cho Công ty.
II/ Đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
1/Đánh giá một số thành tựu của Công ty.
Theo báo cáo của phòng Tài Chính và Kế Hoạch thì kết quả hoạt đông sản xuất kinh doanh của công ty được thể hiện qua những thống kê sau. Theo báo cáo của phòng tài chính kế hoạch về việc kiểm điểm việc thực hiện kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu năm 2001 của công ty ta thấy nổi nên một số vấn đề cơ bản sau.
Năm 2001 là năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm 2001- 2005 trong khi cơ cấu của nền kinh tế nước ta biến đổi, vận động trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, tình hình kinh tế, chính trị, ngoại giao được mở rộng hoà nhập chung vào thị trường khu vực và thế giới. Trong tình hình thế giới phức tạp và biến đổi như vậy Công ty đã đã gặp không ít thuận lợi cũng như khó khăn :
Về khó khăn : Tuy đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong những năm vừa qua song công ty cũng đã và đang gặp phải một số những khó khăn nhất định. Khó khăn lớn nhất trong các hoạt động XNK của công ty là do tình hình chính trị trên thế giới có nhiều biến động sau sự kiện 11/9 xảy ra tại Mỹ đã kéo theo sự suy giảm kinh tế toàn cầu do đó đã gây ảnh hưởng rất lớn trong việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang Mỹ và các nước khác. Mặt khác do tác động của cơ chế thị trường tự do cạnh tranh nên công ty gặp phải sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước ngày càng trở nên gay gắt dẫn đến thị phần của công ty ngày càng trở nên bị thu hẹp. Trong khi đó thì bộ máy quản lý cán bộ của Công ty đã quá đông do cơ chế cũ để lại, chưa phù hợp với cơ chế thị trường chưa sáng tạo trong kinh doanh dẫn đến những yếu kém trong công tác quản lý và phát triển thị trường. Mặc dù Công ty đã có nhiều cố gắng xử lý các tồn tại do lịch sử để lại nhưng lượng hàng tồn kho và công nợ khó đòi hoặc không có khả năng thu hồi còn lớn. Bên cạnh đó do đời sống CBCNV đòi hỏi ngày càng được nâng cao trong khi thu nhập thực tế của Công ty lại không cho phép Công ty trả lương cao hơn, điều này gây ra sự chán nản trong công việc của cán bộ công nhân viên của công ty ảnh hưởng đến hiệu quả của công việc.
Về thuận lợi: Công ty luôn được sự hỗ trợ kịp thời của Bộ cùng với nỗ lực của toàn bộ CBCNV nên Công ty phần nào hạn chế bớt được khó khăn. Công ty đã phần nào giải quyết được những khó khăn về thị trường tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, tăng cường đầu tư phát triển mặt hàng mới, đẩy mạnh nhập khẩu để phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Số liệu dưới đây sẽ cho biết tình hình thực tế của Công ty ARTEXPORT trong năm 2001:
Biểu 6: Tình hình thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của công ty năm 2001( số liệu của phòng tài chính - kế hoạch)
1.1/ Chỉ tiêu kim ngạch XNK:
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Chỉ tiêu bộ giao năm 2001
ước thực hiện 2001
Tỷ lệ % so
với chỉ tiêu kế hoạch
1/Tổng kim ngạch XNK
1000USD
25.000
25.300
101.2%
Tổng kim ngạch XK
-
10.500
10.600
101%
Trong đó: XK trực tiếp
-
5000
5.000
Xk uỷ thác
-
5.500
5..600
2/Kim ngạch NK
1000 USD
14.500
14.700
101.4%
Trong đó: NK trực tiếp
-
5.150
5.150
NK uỷ thác
-
9.000
9.200
ODA
-
350
350
1.2/Chỉ tiêu tài chính.
Năm 2001 các chỉ tiêu tài chính của Công ty được thực hiện tương đối tốt. Công ty đã thực hiện đầy đủ mọi chỉ tiêu của kế hoạch phát triển .Về doanh thu Công ty vượt mức kế hoạch khoảng 6,6% kế hoạch vượt khoảng 10000 USD. Theo mức kế hoạch Công ty phải đạt 150.000 USD nhưng ước thực hiện chỉ tiêu này khoảng 160.000 USD. Về chỉ tiêu giao nộp ngân sách năm 2001 Công ty cũng giao nộp đầy đủ 100% chỉ tiêu Nhà nước giao. Lợi nhuận cả năm của Công ty đạt khoảng 1.100 USD hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đặt ra. Số liệu dưới đây sẽ cho ta thấy rõ tình hình tài chính của Công ty.
Biểu 7: Các chỉ tiêu tài chính của công ty năm 2001.
(Số liệu phòng tài chính kế hoạch)
Chỉ tiêu
đơn vị tính
KH Bộ giao
ước thực hiện
Tỉ lệ % so với
Chỉ tiêu KH
1.Chỉ tiêu DT
Tr.đồng
150.000
160.000
106,6%
2.Chỉ tiêu nộp NS
Tr. đồng
4.550
4.550
100%
3.Chỉ tiêu LĐTL
Tr. đồng
5.KH đầu tư XDCB
Tr. đồng
480
480
1.3/Chỉ tiêu về thị trường:
Các chỉ tiêu chủ yếu về thị trường của công ty được thể hiện qua biểu sau.
Biểu 8: Chỉ tiêu về thị trường của công ty.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
ước thực hiện XNK
Tổng giá trị XNK
1.000 USD
25.300
- Xuất khẩu
-
10.600
- Nhập khẩu
-
14.700
Khu vực Châu á -TBD
-
15.600
- Xuất khẩu
-
4.600
- Nhập khẩu
-
11.000
Tây Bắc Âu
-
7.300
- Xuất khẩu
-
5.300
- Nhập khẩu
-
2.000
Đông Âu – SNG
-
300
- Xuất khẩu
-
200
- Nhập khẩu
-
100
Thị trường khác
-
2.100
- Xuất khẩu
-
500
- Nhập khẩu
-
1.600
Để thực hiện được các chỉ tiêu nói trên là do có sự cố gắng không ngừng của toàn bộ cán bộ công nhân viên của Công ty từ khi chuyển sang cơ chế thị trường thể hiện qua các mặt sau:
- Chỉ tiêu kim ngạch XNK: Dự kiến thực hiện kim ngạch xuất khẩu đạt 101.2% chỉ tiêu kế hoạch.
+ Trong đó xuất khẩu đạt khoảng 101%( xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của cả nước năm 2001 giảm khoảng 10,7%).
+ Nhập khẩu nguyên liệu thiết bị, máy móc đạt 100% so với chỉ tiêu kế hoạch(11,2 triệu/11,2 triệu).
- Về thị trường XNK:
+ Về thị trường xuất khẩu: Công ty đã mở thêm quan hệ với nhiều thương nhân mới đặc biệt là các thương nhân khu vực Châu á - Thái Bình Dương và Tây Bắc Âu tăng so với năm 2000 là 03 thị trường. Riêng khu vực Đông Âu – SNG(Liên Xô cũ), Công ty đã cố gắng khôi phục lại thị trường truyền thống xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ , đã xuất khẩu được hàng cói, mây, thêu, gốm, dệt, may cho các nước Đức, Ba Lan, CZECH, và đặc biệt là đã mở rộng ra được thị trường Mỹ và bước đầu đã được thị trường này chấp nhận.
+ Về thị trường nhập khẩu: Công ty đã một mặt duy trì được các khách hàng tiêu thụ trong nước là những doanh nghiệp quốc doanh có cơ sở sản xuất, màng lưới phân phối tiêu thụ ổn định như nhập khẩu các nguyên liệu như: Thép, INOX,MALL, BIA, Dây đồng… cho các nhà máy nhập khẩu các loại máy móc thiết bị như cho Nhà máy vật liệu Bưu điện Đông Anh, hoá chất, vải, nguyên liệu thêu cho các cơ sở sản xuất trong nước, do đó hàng về không bị ứ đọng. Đồng thời mở rộng nhập khẩu cho các khách hàng mới để đáp ứng nhu cầu ngày một cao cho nền kinh tế đang ngày càng phát triển như hiệ nay.
- Về công tác quản lý kinh doanh:
Mặc dù các hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng gặp nhiều khó khăn song năm 2001 Công ty đã có chủ trương, biện pháp chỉ đạo đúng đắn, định hướng được công tác kinh doanhXNK và từng bước đưa công tác kinh doanh XNK ổn định và phát triển vững chắc. Tập trung chỉ đạo và dùng mọi biện pháp để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, tăng cường quản lý chất lượng hàng hoá để đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận của người nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ . Mặt khác để đạt được kim ngạch XNK mà Bộ đã giao Công ty đã đẩy mạnh xuất nhập khẩu các mặt hàng tổng hợp, nên năm 2001 đảm bảo nộp đầy đủ chỉ tiêu Ngân sách Nhà nước đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành.
Công tác quản lý tài chính đã đi vào nề nếp, thúc đẩy được kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, tạo ra lợi nhuận để đầu tư phát triển ngành hàng, bảo toàn được vốn do nhà nước giao.
2. Một số hạn chế của Công ty.
a/Hạn chế.
Thực tế trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty tuy đã đạt được một số thành tựu soang cũng không tránh khỏi những hạn chế. Hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh còn chưa cao, chưa ổn định, chưa thực sự phát huy được tính chủ động sáng tạo. Công ty còn quá trông chờ vào đơn đặt hàng của nước ngoài mà chưa tích cực tìm kiếm bạn hàng mới, chưa tạo dựng được những hợp đồng lớn và dài hạn mà chủ yếu là những hợp đồng có giá trị nhỏ. Mặt khác Công ty không tận dụng được những ưu thế về sản xuất lớn để sử dụng chính sách giá như một công cụ cạnh tranh để bảo vệ thị phần. Do chưa nắm vững được những biến động giá quốc tế nên trong các hoạt động kinh doanh Công ty thường bị các khách hàng ép giá làm ảnh hưởng đến hiệu quả của kinh doanh. Sự phối hợp trong các hoạt động XNK không được nhịp nhàng. Thị trường và khách hàng của Công ty chưa thực sự ổn định. Mặc dù đã có nhiều cố gắng để sử lý những tồn tại do lịch sử để lại nhưng lượng hàng tồn kho và công nợ khó hoặc không có khả năng thu hồi còn lớn. Các thủ tục hành chính còn nhiêu khê, rườm rà, phức tạp chưa tạo thuận lợi cho những người tới làm việc.
b/ Nguyên nhân.
Nguyên nhân chính của những hạn chế này là do bộ máyquản lý của Công ty còn chịu nhiều ảnh hưởng của cơ chế cũ để lại không phù hợp với sự biến động của cơ chế thị trường, còn quá ỷ lại trông chờ vào một số chỉ tiêu hạn ngạch do nhà nước cấp nên chưa chủ động sáng tạo trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác trong khi nhu cầu đòi hỏi về đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng cao trong khi tình hình sản xuất kinh doanh ngày càng khó khăn phức tạp nên thu nhập thực tế lại không cho phép. Việc nghiên cứu thị trường còn chưa được tiến hành thường xuyên liên tục, Công ty chưa có một ban, phòng thị trường chuyên quản lý và xây dựng thị trường mà mới chỉ có một Cán bộ chuyên quản lý thị trường nên các hoạt động về thị trường của Công ty chưa thật hiệu quả, các hoạt động còn mang tính thương vụ đơn lẻ, chưa đánh giá đúng dung lượng thị trường, nhu cầu khách hàng và khả năng thanh toán… Các hoạt động nghiên cứu thị trường mới chỉ dừng lại ở mức khái quát chung chưa đi sâu vào nghiên cứu ở từng khu vực thị trường cụ thể. Công ty còn chưa quan tâm đúng đắn đến yếu tố cạnh tranh giá cả ở trong và ngoài nước, cạnh tranh mở rộng thị phần. Chính sách giá chỉ được sử dụng đơn thuần để hoà nhập và thị trường trong nước và quốc tế mà chưa sử dụng nó như một công cụ để cạnh tranh. Ngoài ra công tác hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm còn tỏ ra khá dè dặt, thiếu tính thống nhất chung, các cửa hàng giới thiệu sản phẩm chưa thực sự phát huy hết khả năng nên chưa kích thích gợi mở nhu cầu, chưa thu hút được sự quan tâm của khách hàng. Khả năng tiếp thị thị trường ở nước ngoài còn thấp do thiếu đội ngũ nhân viên Marketing có trình độ, nên việc tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu, sở thích của khách hàng nước ngoài còn yếu ảnh hưởng không tốt đến xuất khẩu hàng hoá.
3/ Đánh giá các áp lực cạnh tranh do nhà kinh tế học Porter đề cập tác động đến công ty.
3.1/ Sự cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn:
Đối thủ tiềm ẩn của Công ty là những Công ty không trong ngành có khả năng tham gia vào ngành trong tương lai nên những đối thủ này thường rất khó xác định để có biện pháp hạn chế ảnh hưởng đến những mục tiêu của Công ty trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn của công ty ARTEXPORT có thể là những Công ty đang hoạt động ở những lĩnh vực khác nhảy vào cạnh tranh cùng Công ty hoặc có thể là những Công ty tư nhân mà sự tồn tại của nó là không bền vững. Nó có thể tồn tại trong một thời gian thuận lợi sau đó giải thể, khi nào thấy có điều kiện thuận lợi nó lại hình thành và chiếm lĩnh thị trường của Công ty. Những Công ty loại này thường không có nhiều nhân viên, họ không phải lo lắng đến chế độ cho nhân viên khi Công ty khó khăn… chính điều này là một thuận lợi khá lớn cho họ trong việc cạnh tranh giá cả cùng các Công ty trong ngành. Mặt khác các đối thủ tiềm ẩn của công ty còn có thể là các tổ chức thương mại quốc tế có khả năng nhập khẩu hàng hoá về kinh doanh trong nước, họ có thể sẽ chiếm thị phần trong nước của Công ty.
Tuy nhiên một thực tế là các Công ty trong ngành hàng thủ công mỹ nghệ thường có quan hệ với các làng nghề truyền thống có tính chất lâu dài nên các đối thủ mới vào ngành không có được mối quan hệ này nên đầu vào của họ thực sự gặp khó khăn. Mặt khác Công ty có mối quan hệ với các bạn hàng trong nước cũng như quốc tế lâu dài nên Công ty có được niềm tin của khách hàng, điều này các đối thủ tiềm ẩn khác không có. Ngoài ra Công ty còn có ưu thế về chi phí thấp do Công ty có thể được ưu đãi hơn về thuế nộp cho Ngân sách Nhà nước … đây chính những thuận lợi mà Công ty có thể sử dụng để thắng thế khi cạnh tranh với các đối thủ tiềm ẩn.
3.2/ Sự cạnh tranh của sản phẩm thay thế:
Hàng nhập khẩu của công ty thường là máy móc trang thiết bị sản xuất nông, công nghiệp và các nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất khác nên những mặt hàng này sản phẩm thay thế thường khó cạnh tranh nên những mặt hàng nhập khẩu Công ty thường ít phải cạnh tranh với sản phẩm thay thế. Sự cạnh tranh của sản phẩm thay đối với các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thường diễn ra tương đối gay gắt. Sản phẩm thay thế thường là những sản phẩm được sản xuất ra dưới tác dụng của khoa học cong nghệ hiện đại: ví dụ như các bình gốm sứ mỹ nghệ được thay bằng các bình thuỷ tinh, pha lê,những chiếu cói, chiếu tre được thay bằng chiếu nhựa… mà những mặt hàng được sản xuất bằng kỹ thuật khoa học công nghệ thường có giá thấp hơn giá của những hàng thủ công mỹ nghệ nên nó có lợi thế khá lớn. Tuy nhiên khi đời sống càng cao thì nhu cầu về thẩm mỹ, mỹ thuật cũng tăng nên, về mặt này thì hàng thủ công mỹ nghệ lại có ưu thế lớn hơn hẳn hàng công nghiệp khác. Vì vậy trên thị trường cạnh tranh phức tạp như hiện nay để có thể đứng vững và phát triển công ty ARTEXPORT cần phải có biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng như có biện pháp để giảm giá tành sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của mình để có thể cạnh tranh được với những mặt hàng được sản xuất dưới tác động của khoa học công nghệ.
3.3/Sức ép về giá của người mua:
Hiện nay không phải chỉ Việt Nam mới sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ mà trên thế giới hầu hết các nước đều có tên hàng thủ công mỹ nghệ trong kim ngạch XNK vì vậy có thể noi nguồn cung cấp mặt hàng này rất rộng lớn. Các công ty sản xuất và xuẩt khẩu mặt hàng này thường phải chịu sức ép rất lớn về giá của người mua. Một thực tế ở ngành hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nói chung và của công ty XNK hàng thủ công mỹ nghệ –ARTEXPORT nói riêng thì khả năng cạnh tranh về giá so với các mặt hàng của các nước khác là rất khó khăn, như Trung Quốc họ luôn có những mặt hàng có mẫu mã đẹp, chất lượng khá, mà giá lại rất thấp…tất nhiên là do mặt hàng thủ công mỹ nghệ mang đậm nét bản sắc văn hoá dân tộc của các quốc gia sản xuất nên nó có sự khác nhau về đường nét, kỹ xảo…nên sự cạnh tranh về giá cả so với mặt hàng này của các quốc gia khác cũng đỡ gay gắt. Tuy nhiên trong nước cũng có rất nhiều công ty kinh doanh các hàng thủ công mỹ nghệ nên khách hàng trong nước và quốc tế có thể tự do lựa chọn công ty để đặt hàng. Đây chính là thách thức lớn nhất về phía khách hàng đối với công ty. Các nhà quản trị chiến lược của công ty cần có những biện pháp để nâng cao uy tín của mình đối với khách hàng trong nước cũng như quốc tế để duy trì lượng khách hàng ổn định .
3.4/Sức ép về giá của nhà cung cấp:
Người cung cấp của công ty là những làng nghề truyền thống có mặt ở hầu hết các làng quê Việt Nam, những làng nghề này có tồn tại hay không là tuỳ thuộc vào khách hàng tiêu thụ của họ - các Công ty như Công ty xuất nhập khẩu hàng thủ Công mỹ nghệ như Công ty ARTEXPORT là một ví dụ. Họ không thể tự sản xuất rồi đem ra thị trường thế giới bán với số lượng lớn bởi họ thường sản xuất theo phương pháp thủ công nên mất khá nhiều thời gian, mặt khác họ không có một tổ chức bảo hộ mà họ chỉ tự tập hợp nhau thành một làng nghề để chung nhau sản xuất. Lượng hàng mà các làng nghề này bán trực tiếp ra thị trường không qua một Công ty trung gian là rât ít. Họ không thể có khả năng tự mang ra thị trường thế giới bán, bởi họ vấp phải những chính sách thuế quan, hải quan…
Vì vậy mà sức ép của nhà cung cấp đối với Công ty thường là do có nhiều Công ty đến đặt hàng tại một làng nghề với những giá khác nhau nên những người sản xuất có thể lựa chọn những mức giá khác nhau để ép giá các Công ty thu mua với mức giá cao hơn. Nếu các Công ty có sự thống nhất với nhau về mức giá khi thu mua tại các làng nghề để tránh tình trạng không đồng nhất về giá cả thì có thể họ sẽ giảm được sức ép giá của các nhà cung cấp. Nhưng nếu các Công ty cùng thống nhất ép giá quá thấp đối với người cung cấp dẫn đến không đảm bảo được mức thu nhập của họ qua việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thì họ sẽ từ bỏ việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ để làm một công việc khác như vậy công ty sẽ mất dần nhà cung cấp. Vấn đề đặt ra là Công ty phải tạo cho uy tín cho mình ở các làng nghề để họ không vì một mức giá cao hơn của một đơn đặt hàng khác mà bỏ việc sản xuất cho công ty. Công ty có thể bảo trợ hoặc đầu tư vốn sản xuất cho các làng nghề để tạo ra sự ràng buộc.
3.5/Sự cạnh tranh của các Công ty trong ngành:
Đây thực sự là mối đe doạ đối với sự tồn tại và phát triển của công ty trong tương lai. Cùng tồn tại và kinh doanh trong ngành hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta có rất nhiều các Công ty khác nhau nên sức cạnh tranh của các Công ty trong cùng ngành là rất lớn. Họ có thể thu hẹp thị phần trong nước và cả quốc tế của Công ty. Các công ty trong ngành có sức cạnh tranh như ARTEXPORT Nam Định, ARTEXPORT Hả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24290.DOC