MỤC LỤC
Lời mở đầu .1
Chương 1: Vai trò của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh Hòa Bình . 2
1. Cơ sở lý luận về đói nghèo và xóa đói giảm nghèo . 2
1.1 Khái niệm về đói nghèo .2
1.2 Các chỉ tiêu đánh giá .7
1.3 Chuẩn đói nghèo sử dụng trong đánh giá .11
1.4. Xóa đói giảm nghèo . .16
2. Những tác động của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế xã hội 18
2.1. Tác động của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế 18
2.2. Tác động của đói nghèo đến sự phát triển xã hội .20
3. Tổng quan về dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” tại tỉnh Hòa Bình . 24
3.1. Giới thiệu chung về GTZ .24
3.2. Dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” . 25
3.3. Vai trò của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” đối với tỉnh Hòa Bình .28
Chương 2: Thực trạng hoạt động xóa đói giảm nghèo của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” tại tỉnh Hòa Bình . .33
1. Tình hình kinh tế xã hội huyện Tân Lạc và Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình .33
1.1. Huyện Lạc Thuỷ .33
1.2. Huyện Tân Lạc .36
2. Đánh giá thục trạng đói nghèo tại hai huyện Tân Lạc và Lạc Thuỷ tỉnh Hòa Bình . . 39
2.1. Thực trạng đói nghèo . 39
2.2. Các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. .43
3. Đánh giá chung về hoạt động của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” tại tỉnh Hòa Bình .46
3.1. Các hoạt động đã triển khai .46
3.2. Kết quả đạt được . .58
3.3. Những khó khăn tồn tại và nguyên nhân .60
3.4. Bài học kinh nghiệm .61
Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” đối với xóa đói giảm nghèo tỉnh Hòa Bình .63
1. Bối cảnh về kinh tế xã hội đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo tỉnh và của dự án . .63
1.1 Bối cảnh khách quan .63
1.2 Bối cảnh chủ quan .67
2. Định hướng và mục tiêu phát triển của dự án . 76
2.1 Định hướng . 76
2.2 Mục tiêu . .79
3. Giải pháp 80
Kết luận . .81
Tài liệu tham khảo . 82
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2415 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xóa đói giảm nghèo thông qua dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” tại hai Huyện Tân Lạc và Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vì dự án được thực hiện ở cấp vi mô là chủ yếu, ở các cấp huyện và cấp xã. Do dó, tại 2 huyện Tân Lạc và Lạc Thủy của tỉnh Hòa Bình, các mô hình phát triển kinh tế địa phương, mô hình quỹ cộng đồng, quỹ an sinh xã hội, và hệ thống theo dõi, giám sát đói nghèo sẽ được nghiên cứu và thử nghiệm. Bên cạnh đó dự án còn nâng cao năng lực cho cán bộ cấp tỉnh và tại 2 huyện để xây dựng chính sách thông qua hoạt động tư vấn và đào tạo. Dự án tập trung vào những phương thức tiếp cận khuyến khích sự tham gia của người dân nghèo vào quá trình phát triển kinh tế địa phương và tăng cường mạng lưới an sinh xã hội.
Chương 2: Thực trạng hoạt động xóa đói giảm nghèo của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” tại tỉnh Hòa Bình
Tình hình kinh tế xã hội huyện Tân Lạc và Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình
Huyện Lạc Thủy
Đặc điểm tự nhiên
Vị trí địa lý: Huyện Lạc Thủy thuộc tỉnh Hòa Bình là một huyện miền núi gồm 12 xã và 1 thị trấn. Huyện có diện tích tự nhiên là 293 km2, chiếm 6,28% diện tích toàn tỉnh. Đường giao thông từ quốc lộ 21 đi từ thị trấn Xuân Mai tỉnh Hà Tây qua huyện Lạc Thuỷ nối với quốc lộ 12B tại huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình.
Khí hậu: Mưa, bão tập trung từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm với lượng mưa trung bình hàng năm là 1800 - 2200 mm. Các hiện tượng gió lốc, mưa đá thường xuyên xảy ra. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 24,70C; cao nhất 41,20C; thấp nhất 1,9oC. Tháng nóng nhất là tháng 7, nhiệt độ trung bình từ 27-290C; tháng lạnh nhất là tháng 1, nhiệt độ trung bình 15,5-16,50C. Tần suất sương muối xảy ra: 0,9 ngày/năm.
Dân số: Theo kết quả điều tra thì cho tới tháng 1/2004 toàn huyện có 49.967 người trong đó tỷ lệ nam là 49,76%. Tốc độ tăng dân số khoảng 1,36 %. Mật độ dân số năm 2000 là 164 người/km2 và năm 2004 là 171 người/km2. Lao động đang làm việc trong nền kinh tế năm 2004 là 25.538 người, chiếm 51,1% dân số huyện.
Dân trí: Tính đến thời điểm 31/12/2003 toàn huyện có 1879 học sinh mẫu giáo với số giáo viên mẫu giáo là 156 người. Số học sinh phổ thông là 11136 em, và số giáo viên phổ thông là 720 người.
Cán bộ ngành Y có 113 người bao gồm 18 bác sỹ, 61 y sỹ, 20 y tá kỹ thuật viên và 14 nữ hộ sinh. Bình quân y bác sỹ trên trên một trăm dân là 6,32 người. Trong ngành dược có 13 người, trong đó có dược sỹ trung cấp là 2 người và dược tá là 11 người. Toàn huyện có 17 cơ sở khám, chữa bệnh và số giường bệnh là 130 giường.
Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên đất: diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt là 4315 ha, trong đó trồng lúa chiếm 68%, trồng ngô chiếm 32%. Diện tích trồng lúa cả năm là 2933 ha, trong đó vụ đông xuân là 1240 ha, vụ mùa là 1639 ha. Diện tích gieo trồng cây chất bột lấy củ bao gồm trồng khoai lang chiếm 597 ha, trồng sắn là 359 ha. Diện tích đất trồng cây công nghiệp hàng năm là 993 ha, trong đó trồng mía là 169 ha, trồng lạc là 672 ha, trồng cây đậu tương là 152 ha.
Tài nguyên rừng: Tính đến năm 2003, diện tích rừng trồng tập trung là 521 ha, diện tích rừng khoanh nuôi là 14770 ha, sản lượng gỗ khai thác là 1890 m3
Tài nguyên, khoáng sản:
Huyện Lạc Thủy có khoáng sản than đang được khai thác, có nhiều vỉa lộ thiên với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn.
Kết cấu hạ tầng, dịch vụ của xã, phường tính đến năm 2003:
Bảng 6: Kết cấu hạ tầng, dịch vụ của Huyện Lạc Thủy
Số xã phường có điện
13
Số xã, phường có đường ô tô đến trung tâm
13
Số UBND xã phường có điện thoại
13
Số xã, phường có trường tiểu học
13
Số xã phường có trường trung học cơ sở
13
Số xã, phường có trạm y tế
13
Số xã, phường có trạm truyền thanh
2
Nguồn: Tổng cục thống kê
Đặc điểm về kinh tế - xã hội.
* Về kinh tế:
Sản lượng lương thực có hạt là 15499 tấn, trong đó sản lượng lúa đạt 10612 tấn( sản lượng vụ lúa đông xuân là 5661 tấn, vụ lúa mùa đạt 4951 tấn), sản lượng ngô là 4887 tấn.
Sản lượng cây chất bột lấy củ là 5784 tấn, trong đó sản lượng khoai lang là 2930 tấn, sắn là 2854 tấn
Sản lượng cây công nghiệp hàng năm đạt 5685 tấn gồm sản lượng mía là 4771 tấn, sản lượng lạc là 790 tấn, sản lượng đậu tương là 124 tấn
Số lượng gia súc gia cầm đáng kể. Số lượng trâu, bò, lợn năm 2002 là 28935 con, và năm 2003 là 31713 ( trâu là 6215 con, bò là 4750 con, lợn là 20838 con). Số lượng gia cầm tăng từ 195.500 con năm 2002 lên 241.500 con năm 2003.
Sản lượng thủy sản là 133,2 tấn năm 2003, trong đó khai thác được 32,2 tấn, nuôi trồng là 101 tấn.
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế năm 2003 là 9942 triệu đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh năm 1994 là 7954 triệu đồng.
Vốn đầu tư xây dựng trên địa bàn theo giá thực tế năm 2003 là 32073 triệu đồng.
* Về văn hóa- xã hội
Phát triển kinh tế gắn với thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, trong giai đoạn trước mắt và lâu dài, cải thiện từng bước đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần cho nhân dân các xã đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc, tiến tới xóa hộ đói nghèo sớm nhất.
Đến 2005 hoàn thành phổ cập trung học cơ sở đúng độ tuổi và huy động 100% học sinh vào lớp 1 đúng độ tuổi.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2004: 1,36%;
Số hộ có vô tuyến: 75-80% tổng số hộ.
Số máy điện thoại/100 dân đạt 2.1 máy.
Số bác sỹ trên 1 trăm dân đạt 6,3 bác sỹ.
Huyện Tân Lạc
Đặc điểm tự nhiên
Vị trí địa lý: Huyện Tân Lạc có 23 xã và 1 thị trấn. Huyện có diện tích tự nhiên khoảng 523 km2, chiếm 11,22% diện tích toàn tỉnh. Đường giao thông từ quốc lộ số 6 đi qua huyện Tân Lạc; quốc lộ 12B đi qua huyện đến tỉnh Ninh Bình. Hệ thống sông ngòi có sông Bưởi bắt nguồn từ xã Phú Cường, huyện Tân Lạc dài 55 km.
Dân số: Theo kết quả điều tra thì cho tới tháng 1/2004 toàn huyện có 78010 người trong đó nam là 38799 người và nữ là 39211 người. Tốc độ tăng dân số khoảng 1,22 %. Mật độ dân số năm 2004 là 149 người/km2. Lao động đang làm việc trong nền kinh tế năm 2000 là 31980 người và tới năm 2004 là 34081 người, chiếm 43,69% dân số huyện.
Dân trí: Tính đến thời điểm 31/12/2003 toàn huyện có 2773 học sinh mẫu giáo với số giáo viên mẫu giáo là 219 người. Giáo dục phổ thông có 49 trường và 676 phòng học. Số học sinh phổ thông là 17692 em, và số giáo viên phổ thông là 1054 người.
Cán bộ ngành Y năm 2003 có 170 người bao gồm 18 bác sỹ, 88 y sỹ, 50 y tá kỹ thuật viên và 14 nữ hộ sinh. Bình quân y bác sỹ trên trên một trăm dân là 4.6 người. Trong ngành dược có 36 người, trong đó dược sỹ cao cấp là 1 người, dược sỹ trung cấp là 8 người và dược tá là 27 người. Toàn huyện có 26 cơ sở khám, chữa bệnh và số giường bệnh là 152 giường.
Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên đất: diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt là 8533 ha, trong đó trồng lúa chiếm 65%, còn lại là trồng ngô. Diện tích trồng lúa cả năm là 5558 ha, trong đó vụ đông xuân là 2077 ha, vụ mùa là 3481 ha. Diện tích gieo trồng cây chất bột lấy củ bao gồm trồng khoai lang chiếm 160 ha, trồng sắn là 1135 ha. Diện tích đất trồng cây công nghiệp hàng năm là 1458 ha, trong đó trồng mía là 1194 ha, trồng lạc là 264 ha
Tài nguyên rừng: Tính đến năm 2003, diện tích rừng trồng tập trung là 430 ha, diện tích rừng khoanh nuôi là 7967 ha, sản lượng gỗ khai thác là 2950 m3
Kết cấu hạ tầng, dịch vụ của xã, phường tính đến năm 2003:Bảng 7: Kết cấu hạ tầng, dịch vụ của huyện Tân Lạc
Số xã phường có điện
24
Số xã, phường có đường ô tô đến trung tâm
24
Số UBND xã phường có điện thoại
13
Số xã, phường có trường tiểu học
24
Số xã phường có trường trung học cơ sở
22
Số xã, phường có trạm y tế
24
Số xã, phường có trạm truyền thanh
5
Nguồn: Tổng cục thống kê
Đặc điểm về kinh tế - xã hội.
* Về kinh tế:
Năm 2004 Sản lượng lương thực có hạt là 34092 tấn, trong đó sản lượng lúa đạt 25485 tấn( sản lượng vụ lúa đông xuân là 10077 tấn, vụ lúa mùa đạt 15408 tấn), sản lượng ngô là 6607 tấn.
Sản lượng cây chất bột lấy củ là 8754 tấn, trong đó sản lượng khoai lang là 695 tấn, sắn là 8059 tấn
Sản lượng cây công nghiệp hàng năm đạt 71213 tấn gồm sản lượng mía là 70959 tấn, và sản lượng lạc là 254 tấn.
Trong năm 2004, số lượng gia súc là 55893 con trong đó trâu là 16431 con, bò là 6910 con, và lợn là 30552 con. Số lượng gia cầm tăng từ 288100 con năm 2002 lên 256600 con năm 2004.
Sản lượng thủy sản là 160 tấn năm 2003, trong đó khai thác được 65 tấn, nuôi trồng là 95 tấn.
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế năm 2003 là 11070 triệu đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh năm 1994là 9783 triệu đồng.
Các sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp như đá, gạch, vôi, nông cụ cầm tay.
Vốn đầu tư xây dựng trên địa bàn theo giá thực tế năm 2003 là 67863 triệu đồng. Số người kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ cá thể năm 2004 là 941 người. Số cơ sở sản xuất công nghiệp là 476 cơ sở.
* Về văn hóa- xã hội
Trong những năm vừa qua Huyện Tân Lạc đã có những cố gắng đáng kể trong việc nâng cao mức sống dân cư, và trình độ dân trí.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2004: 1,22%;
Số máy điện thoại/100 dân đạt 1.7 máy.
Số bác sỹ trên 1 trăm dân đạt 4.6 bác sỹ.
Đánh giá thục trạng đói nghèo tại hai huyện Tân Lạc và Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình
Thực trạng đói nghèo.
2.1.1. Thục trạng đói nghèo huyện Lạc Thủy
Với những điều kiện về tự nhiên, về kinh tế xã hội như ở trên cho thấy đời sống nhân dân tại Huyện Lạc Thủy còn gặp nhiều khó khăn. Thu nhập chủ yếu là từ nông nghiệp, các sản phẩm nông nghiệp mang lại giá trị thấp. Mặt khác, số lao động đang làm việc trong nền kinh tế năm 2004 là 25.538 người, chiếm 51,1% dân số huyện. Con số này nói lên thực trạng về số người sống phụ thuộc. Thất nghiệp ở đây còn cao và rõ rệt, do nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan như: thiếu đất đai, thiếu tư liệu sản xuất, trình độ thấp...
Hiện nay, đời sống nhân dân tại Lạc Thuỷ đã khấm khá hơn trước do sự quan tâm của chính phủ từ các chương trình 134,135. Đây là tiền đề quan trọng trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hạ tầng cơ sở, nâng cao dân trí để xóa đói giảm nghèo và vươn lên xây dựng nông thôn mới. Tỷ lệ đói nghèo trên toàn huyện năm 2006 là 35%, đến nay còn 21%. Nghèo đói giảm là do kinh tế phát triển, nông dân yên tâm gắn bó với đồng ruộng, sản xuất ra nhiều nông sản có giá trị hàng hoá cao, nhiều hộ có thu nhập đạt từ 70-80 triệu đồng/năm. Chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp, nâng cao trình độ thâm canh, tiếp thu khoa học kỹ thuật cho nông dân mà còn góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển ổn định, bền vững, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế nông thôn miền núi.
Năm 2007, huyện Lạc Thuỷ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sát sao và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đảm bảo công khai, dân chủ, với tinh thần “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Vì vậy, các dự án nằm trong chương trình đều được triển khai đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng và phát huy hiệu quả. Ngoài việc hướng dẫn UBND các xã, đội ngũ trưởng thôn, trưởng bản vận động anh em dòng họ, các đoàn thể ở cơ sở tham gia đóng góp ngày công, vật liệu, bằng nguồn vốn Chương trình 134, từ đầu năm đến nay, huyện đã hỗ trợ 2.352.000.000 đồng cho 392 hộ dân tộc thiểu số nghèo xây dựng nhà ở. Đến nay đã có 51 hộ hoàn thành và đưa vào sử dụng, 341 hộ đang trong gia đoạn hoàn thiện.
Phòng Dân tộc và Tôn giáo huyện đã phối hợp với các xã Lạc Long, Cố Nghĩa, An Bình để tiến hành khảo sát và thống nhất về vị trí mặt bằng, duyệt chọn phương án thiết kế lập báo cáo kinh tế kỹ thuật để xây dựng các công trình cấp nước tập trung; chương trình hỗ trợ các hộ nghèo trâu, bò sinh sản cũng được giám sát chặt chẽ và đạt hiệu quả cao. Sau hơn 2 năm, 266 hộ được hỗ trợ không chỉ nâng cao kiến thức về chăm sóc, phòng chống dịch bệnh mà còn sinh sản được 55 con bê, nghé mới.
Ngoài việc phối hợp với các ngành và chính quyền các xã trong kiểm tra, giám sát, quản lý các công trình thuộc Chương trình 135 chuyển tiếp từ năm 2006 để đảm bảo chất lượng và đưa vào sử dụng đúng tiến độ, Phòng DT&TG huyện còn phối hợp với các cấp, ngành làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân trong thực hiện giải phóng mặt bằng, hoàn thiện các thủ tục thu hồi đất, đảm bảo có mặt bằng và sớm hoàn tất các thủ tục cho các công trình xây dựng trong năm 2007. Đến nay, 2 công trình nhà lớp học trường THCS xã Hưng Thi và công trình điện 0,4 Kv thôn Liên Phú 2, Tân Thành, Minh Hải (xã An Lạc), giá trị gần 2 tỷ đồng đã được phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật và chuẩn bị khởi công. Các công trình trường mầm non B xã An Bình, nhà sinh hoạt cộng đồng xóm Cú, Đừng, Vôn (xã Đồng Môn) đã hoàn thành thiết kế, dự toán trình UBND huyện phê duyệt. Việc giám sát, kiểm tra chất lượng, giá bán tại các đơn vị cung ứng các mặt hàng trợ cước, trợ giá được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc.
Nhờ triển khai đồng bộ, chặt chẽ, nghiêm túc, Chương trình 134, 135 đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ phát triển KT-XH chung của huyện. 6 tháng đầu năm nay, tổng giá trị sản xuất trên địa bàn đạt 124.443 triệu đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2006. Trong đó, nông - lâm - ngư nghiệp tăng 4%, công nghiệp xây dựng tăng 27% và dịch vụ tăng 17%.
Tuy vậy, đói nghèo ở mức 21% dân số toàn huyện cho thấy đó là một tỷ lệ còn cao. Trong những năm sắp tới, ngoài nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội chung của huyện còn phải đề ra những biện pháp và giải pháp tốt hơn nhằm giảm tỷ lệ đói nghèo toàn huyện theo mục tiêu đã đề ra.
2.1.2 Thực trạng đói nghèo huyện Tân Lạc
Huyện Tân Lạc cũng là một trong những huyện có tỷ lệ nghèo đói cao nhất tại tỉnh Hòa Bình. Là một huyện miền núi lại có phương thức sản xuất còn lại hậu nên số người dân sống trong cảnh nghèo đói cao, đặc biệt là dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, điều kiện cơ sở hạ tầng và dân trí của huyện còn thấp, đường xá đi lại gặp nhiều khó khăn, các cháu học sinh phải đi học xa và học trong điều kiện tranh tre nứa lá. Mấy năm gần đây, được sự đầu tư của Nhà nước đến nay diện mạo các xã vùng khó khăn của huyện đã có những thay đổi căn bản. Mặt khác, chính quyền địa phương và các ban ngành lãnh đạo đã tổ chức thực hiện tốt các chương trình phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn của huyện Tân Lạc. Phần lớn các hạng mục đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ sản xuất đã phát huy tác dụng. Tân Lạc có 8 xã thụ hưởng dự án đầu tư chương trình 135, đến nay 100% số xã có được điện lưới đến trung tâm, 100% xã có trạm y tế, các chợ trung tâm cụm xã có hiệu quả, Tính đến cuối năm 2006, huyện Tân lạc đã hoàn thành được 43/52 gói thầu của hợp phần xây lắp và mô hình nông nghiệp và thanh toán cho 3 chu kỳ của hợp phần ngân sách phát triển xã, với số vốn được giải ngân trên 27 tỉ đồng cho việc sửa chữa, nâng cấp, làm mới 28,9 km đường giao thông nông thôn; làm mới 3 công trình chợ và cầu; ổn định nước tưới cho 119 ha lúa và phục vụ đủ nước sinh hoạt cho 1.410 hộ dân; xây 3.339 m2 công trình nhà lớp học cắm bản; 750 m2 trạm xá xã và cấp trang thiết bị cho 7 trạm xá xã; nâng cao năng lực xây dựng và quản lý dự án, tập huấn phương pháp thâm canh đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho cán bộ nhân dân các xã, góp phần hạ thấp tỷ lệ hộ đói nghèo của toàn huyện.
Cuộc sống nhân dân các xã vùng cao tuy đã được cải thiện hơn trước. Nhưng người dân các xã vùng cao này vẫn mang nặng phương thức sản xuất theo tập quán cũ, năng suất các cây trồng chính đạt thấp như ngô địa phương chỉ đạt 7-8 tạ/ha, lúa đạt 15-18 tạ/ha, cây sắn thì phải 2-3 năm mới cho thu hoạch. Mức thu nhập bình quân đầu người các xã vùng cao tuy đã được cải thiện trông thấy, nhưng tỷ lệ đói nghèo vẫn còn ở mức cao (35,5% năm 2000 và 10% năm 2005 tiêu chí cũ).
Các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo
Do trình độ sản xuất
Hai huyện trên vẫn còn trình độ sản xuất kinh tế tự nhiên, du canh, du cư ở một số đồng bào dân tộc dẫn tới tình trạng đói (đói kinh niên, đói gay gắt) về lương thực, thực phẩm tất yếu xảy ra.
Trình độ sản xuất của người tiểu nông, tự cung tự cấp vẫn còn ở thế bấp bênh, mong manh.
Trình độ sản xuất của những người sản xuất và kinh doanh nhỏ
Là các huyện miền núi, dân tộc ít người nên vẫn chưa thoát khỏi kinh tế sinh tồn. Do đó nghèo dai dẳng, nghèo truyền kiếp, thiếu đói, đói gay gắt vẫn còn tồn tại.
Do bản thân người nghèo
Thiếu các điều kiện cơ bản sản xuất kinh doanh như thiếu vốn, thiếu ruộng đất, thiếu công cụ có chất lượng.
Sinh đẻ nhiều dẫn tới đông con, mức thu nhập không đủ cho hộ gia đình. Thiếu lao động hay ít lao động, nguồn thu nhập không đủ đáp ứng được nhu cầu hàng ngày của số động người trong gia đình nên họ dễ rơi vào tình cảnh nghèo đói. Mặt khác, thiếu lao động trong các gia đình có hoàn cảnh khó khăn như các gia đình thuộc diện chính sách: gia đình thương binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có người tàn tật…
Nghề chính không có hiệu quả, thu nhập thấp trong khi đó lại không có nghề phụ
Kém hiểu biết, thiếu kinh nghiệm làm ăn
Ốm đau, bệnh tật, tai nạn rủi ro. Đây là một nguyên nhân khách quan, thường không lường trước được, làm cho một bộ phận dân cư trước đó không nghèo nhưng lại rơi vào diện nghèo
Khả năng tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật còn hạn chế dẫn đến trình độ sản xuất còn lạc hậu, năng suất thấp.
Thời gian lao động chưa được sử dụng còn cao, bên cạnh đó còn xảy ra tình trạng lao động nông nghiệp thiếu đất đai, thiết bị, thiếu vốn….
Do điều kiện tự nhiên và môi trường
Sự bất lợi về địa lý là nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo tại 2 huyện Tân Lạc và Lạc Thủy. Mặt khác, sự thiếu hụt các công trình cơ sở hạ tầng (đường giao thông, điện, y tế, trường học…) làm cho người dân không có điều kiện trao đổi thông tin và sản phẩm, không có điều kiện trau dồi kiến thức, năng lực sản xuất, có ít điều kiện tiếp cận với các phúc lợi xã hội trong chăm sóc sức khỏe. Nền kinh tế chủ yếu là tự cung tự cấp, phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên.
Bên cạnh đó, phong tục tập quán ở nhiều xã còn lạc hậu, nhiều hộ sống theo lối du canh du cư nên khó thay đổi phương thưc truyền thống, năng suất và hiệu quả sản xuất thấp.
Đất canh tác ít và xấu, thời tiết không thuận lợi dẫn đến các thiên tai như hạn hán, lụt lội… Làm cho năng suất cây trồng, vật nuôi thấp, mất mùa. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn đặc biệt là đối với vùng nông nghiệp thuần nông, thu nhập của người nông dân thấp, việc tích lũy và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc hầu như không có.
Do cơ chế chính sách
Các chương trình quốc gia hướng vào người nghèo như chương trình quốc gia về XĐGN và việc làm (143) và chương trình phát triển vùng sâu, vùng xa (135) đã thúc đẩy quá trình giảm nghèo của đất nước, tạo điều kiện cho người nghèo, vùng nghèo vươn lên thoát nghèo và phát triển kinh tế. Tuy nhiên đến nay chương trình mới dừng lại ở cấp quốc gia. Các chính sách vĩ mô của chính phủ còn cứng nhắc và không thực tiễn
Do thiếu thị trường để trao đổi thông tin và sản phẩm.
Do địa hình hiểm trở, nhiều xã ở các vùng cao, nên rất khó khăn trong việc trao đổi thông tin và sản phẩm. Các sản phẩm sản xuất ra thường được trao đổi với giá trị thấp. Đặc biệt, đối với các xã vùng xa xôi hẻo lánh, chưa có đường giao thông hoặc giao thông đi lại khó khăn thì hầu như chưa có thị trường hoặc thị trường hoạt động yếu ớt. Điều này có nghĩa họ bị đặt ra ngoài quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Muốn thị trường phát triển, bên cạnh việc thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế thì việc phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng có ý nghĩa lớn góp phần nối các thị trường trong nước lại với nhau, thúc đẩy thị trường phát triển tạo tiền đề cho việc hòa nhập vào nền kinh tế thế giới.
Mặt khác, môi trường xã hội không thuận lợi đó là các vấn đề về y tế, văn hóa, giáo dục phát triển yếu kém. Đây là những yếu tố giúp cho người lao động có sức khỏe, được trang bị tri thức, những hiểu biết để hòa nhập vào nền kinh tế đang phát triển một cách tốt nhất
Đánh giá hoạt động xóa đói giảm nghèo của dự án “Hỗ trợ giảm nghèo – GTZ” tại tỉnh Hòa Bình.
Các hoạt động đã triển khai
Hợp phần 1: Phát triển kinh tế địa phương.
Dự án hợp tác giữa Việt Nam và Đức “Hỗ trợ giảm nghèo” đã đặt ra mục tiêu cải thiện đời sống cho các hộ gia đình ở những vùng thí điểm của dự án và giới thiệu các phương pháp tiếp cận có hiệu quả trên khắp cả nước trong các chương trình giảm nghèo của quốc gia. Huyện Tân Lạc và Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình là một trong những vùng thí điểm của dự án. Trong năm 2007, dự án đã thực hiện những hoạt động ban đầu nhằm xác định tiềm năng và giải pháp giảm nghèo có hiệu quả nhất tại 2 huyện trên.
3.1.1.1. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội có sự tham gia của người dân.
Tại Việt Nam việc lập kế hoạch là một quá trình từ trên xuống dưới, điều này đã đặt ra thách thức đối với tính khả thi trong quá trình thực hiện. Ý kiến của các địa phương rất hiếm khi được lắng nghe và đưa vào quá trình lập kế hoạch. Kết quả là kế hoạch đã được xây dựng phản ánh rất ít nhu cầu và tình hình thực tế của các địa phương. Do nhận thức được tầm quan trọng của việc lập kế hoạch từ dưới lên, dự án Hỗ trợ giảm nghèo đã phối hợp cùng các đối tác của dự án tại tỉnh Hòa Bình và Sở Lao động, thương binh và xã hội thực hiện các khóa tập huấn về lập kế hoạch phát triển thôn/xã để bản kế hoạch phát triển kinh tế xã hội tại địa phương được khả thi hơn.
Do đó, dự án đã hỗ trợ các khoá tập huấn cho các cán bộ về lập “kế hoạch phát triển thôn/xã” nhằm trang bị cho các cán bộ nòng cốt ở các cấp địa phương những kỹ năng cần thiết về quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội theo cách mới. Tất cả các khoá tập huấn được triển khai tại các vùng thí điểm của dự án. Sau khi hoàn thành các khoá tập huấn về lý thuyết, những người đã qua đào tạo quay trở về địa phương mình để hỗ trợ xây dựng kế hoạch và hiện nay tất cả các kế hoạch đã được nộp cho các xã để tổng hợp. Dự án cũng đã yêu cầu các đơn vị viết 3 đề xuất dự án trình văn phòng dự án tại Hà Nội và đang chờ phê duyệt. Năm 2007, dự án đã tổ chức các khóa tập huấn về kinh tế hộ như: “Viết đề xuất dự án”, “đào tạo giảng viên về kinh tế hộ”, “ Phát triển kinh tế cho các hộ nông dân nghèo”.
Từ ngày 10 – 13 tháng 7, dự án tổ chức khóa tập huấn về đào tạo giảng viên nguồn về kinh tế hộ nhằm cung cấp cho những tiểu giáo viên tại địa phương kiến thức về phát triển thị trường ở khu vực nông thôn về phương thức tính toán kinh tế hộ gia đình và kỹ năng học tập dành cho người lớn. Khóa tập huấn đã thu được các kết quả sau: 31 học viên của đơn vị liên quan (cấp tỉnh, huyện và xã) đã được đào tạo kiến thức về kinh tế hộ và kỹ năng tập huấn có sự tham gia. Tìm được những giảng viên tiềm năng cấp huyện và xã để triển khai các khóa tập huấn kinh tế hộ cho nông dân các xã dự án.
Dự án cũng đã tổ chức 12 khóa đào tạo về phát triển kinh tế cho các hộ nông dân nghèo. Đã có 360 hộ nông dân nghèo của hai huyện đã được đào tạo 18 công cụ để họ có thể lập kế hoạch và phát triển sản xuất kinh doanh của hộ. Sau khi đào tạo các hộ đã áp dụng các công cụ lập kế hoạch phát triển kinh tế (tăng hoạt động sản xuất nông nghiệp hoặc mở rộng quy mô sản xuất) như nuôi gà và dê, trồng rau và khoai lang…
3.1.1.2. Phương pháp để xác định tiềm năng kinh tế cho 2 huyện của dự án.
* Chuỗi giá trị vì người nghèo.
Tại 2 huyện Tân Lạc và Lạc Thủy tỉnh Hòa Bình việc sản xuất nông nghiệp vẫn là hoạt động tạo thu nhập chính của người dân. Vì vậy hỗ trợ nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thêm thu nhập cho người dân nông thôn trong vùng của dự án.
Dự án tiếp tục thử nghiệm phương pháp phân tích chuỗi giá trị sản phẩm bằng cách xác định các sản phẩm tiềm năng có giá trị gia tăng tại hai huyện thí điểm của tỉnh Hòa Bình. Hoạt động này nhằm mục đích tìm hiểu và xác định các sản phẩm du lịch và các sản phẩm nông nghiệp tiềm năng, qua đó người nghèo có thể tăng thêm cơ hội tham gia vào thị trường và tạo thêm thu nhập. Nhiệm vụ này do công ty tư vấn tại địa phương đảm nhận, với sự hợp tác chặt chẽ với các đối tác dự án ở địa phương ở Lạc Thủy và Tân Lạc thông qua việc áp dụng các phương pháp để thu thập dữ liệu sơ cấp và thứ cấp với sự tham gia tích cực của các bên có liên quan. Với những thông tin hiện có về tình hình kinh tế xã hội hiện nay của khu vực dự án và thông tin liên quan ở các cấp khác nhau, nhóm công tác đã hỗ trợ các nhóm đối tượng sử dụng các công cụ thực hành, như phân tích những điểm yếu- điểm mạnh, tiêu chí lựa chọn chuỗi giá trị để đánh giá và xếp loại sản phẩm.
Việc đánh giá có sự tham gia của người dân đã xác định được 8 sản phẩm tiềm năng trong số 20 sản phẩm được đưa vào đánh giá, những sản phẩm sẽ được hỗ trợ sau này. 8 sản phẩm đã được lựa chọn được phân bố như sau:
Ở huyện Tân Lạc, đã lựa chọn được 5 sản phẩm: Ngô, mía , trâu bò (bao gồm cả việc tổ chức chợ mua bán trâu) và gia cầm.
Ở huyện Lạc Thủy, đã lựa chọn được 6 sản phẩm: cây keo, gia cầm, trâu, bò, cam và mật ong.
Nghiên cứu đã khuyến cáo nên chọn 1 sản phẩm chính để hỗ trợ trong các xã thuộc dự án trong 6 tháng cuối năm 2007 ở tỉnh Hòa Bình là mật ong. Các bước tiếp theo sẽ được triển khai như sau:
Tiến hành phân tích chuỗi giá trị để xác định thị trường tiêu thụ, phân đoạn thị trường và xu hướng của thị trường, các yếu tố khác nhau của chuỗi giá trị, vai trò và các mối liên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33037.doc