Chuyên đề Xuất khẩu gạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp

I.Sự cần thiết phải thúc đẩu xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu gạo 5

I.1. Khái niệm và sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu 5

I.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu 8

I.2.1. Mục tiêu của hoạt động xuất khẩu 8

I.2.2. Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu 8

I.3. Nội dung của hoạt động xuất khẩu 9

I.4. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 15

I.5. Khái quát về tình hình thị trường lúa gạo thế giới 17

I.5.1. An ninh lương thực thế giới 17

I.5.2. Khái quát về tình hình thị trường lúa gạo thế giới 19

I.6. Vai trò của hoạt động xuất khẩu gạo 22

II. Đánh giá lợi thế so sánh trong việc xuất khẩu gạo của Việt Nam 24

II.1. Những lợi thế và bất lợi của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập vào khu vực và thế giới 24

II.2. Lợi thế so sánh của Việt Nam về xuất khẩu gạo 25

Chương II

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM

TRONG THỜI GIAN QUA

I. Tình hình sản xuất chế biến lúa gạo trong thời gian qua 28

I.1. Thực trạng sản xuất lương thực và lúa hàng hoá 28

I.1.1. Tình hình chung 28

I.1.2. Sản xuất lúa hàng hoá ở đồng bằng sông Cửu Long 30

I.2. Thực trạng chế biến lúa hiện nay 33

I.3. Cân đối lương thực 36

I.4. Lưu thông lương thực trong nước 37

 

 

doc73 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1385 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xuất khẩu gạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của cả nước (gồm lúa là chủ yếu), đạt 18, 37 triệu tấn thì đến năm 1988 giảm xuống còn17,5 triệu tấn (túc là sụt 80 vạn tấn) trong khi dân số lại tăng thêm 1,5 triệu người. Bình quân lương thực năm 1987 là 300,8 kg/người tụt xuống còn 280 kg/người vào năm 1988 (nếu chỉ tính riêng miền Bắc chỉ còn 238,6 kg/người). Sản xuất lương thực không đủ, mặc dù Nhà nước đã phải nhập khẩu 1.28 triệu tấn lương thực (gạo, mì, ngô) để đưa thêm vào cân đối nhưng vẫn thiếu. Hậu quả là năm 1989, ở 21 tỉnh thành phố có trên 9,3 triệu người thiếu ăn, chiếm 39,5% nhân khẩu trong đó có tới 3,6 triệu người đói trầm trọng. Ngày 5.4.1989 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý nông nghiệp. Nghị quyết thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân, và trong nông nghiệp thì có hộ gia đình là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ. Ruộng đất, trâu bò, nông cụ được giao lại cho hộ gia đình nông dân. Nông dân được quyền quyết định việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làm ra trên phần đất được giao lại của họ. Từ năm 1990 đến nay, sản xuất lương thực (vẫn chủ yếu là lúa), liên tục tăng bình quân hàng năm gần 1 triệu tấn. Như vậy, có thể nói từ 10 năm qua, Việt Nam đã thực sự có sản xuất lúa hàng hoá. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, tập quán canh tác, tập quán tiêu dùng...những yếu tố có tác động mạnh tới chất lượng và giá cả trong quá trình sản xuất, nên chỉ có khu vực đồng cbằng sông Cửu Long mới thực sự là khu vực sản xuất lúa hàng hoá của Việt Nam. I.1.2- Sản xuất lúa hàng hoá ở đồng bằng sông Cưủ Long. Đồng bằng sông Cửu Long hiện gồm 12 tỉnh, trong đó 10 tỉnh có sản xuất lúa hàng hoá. Cả khu vực có diện tích tự nhiên 3,9 triệu ha, trong đó đất nông nghiệp hiện đang sử dụng trên 2,6 triệu ha. Dân số toàn vùng trên 16 triệu người. Đây là vùng sản xuất lúa quan trọng nhất nước ta, hàng năm sản xuất khoảng 50% tổng sản lượng cả nước (50% sản lượng lúa Đông xuân, 29% sản lượng lúa mùa và trên 5,3 triệu tấn trong hơn 6,5 triệu tấn lúa Hè thu toàn quốc). Năng suất bình quân ở khu vực này cao hơn mức bình quân của cả nước từ 0,2 - 0,25 tấn/ha. Điều kiện đất đai khí hậu thời tiết đặc biệt thuận lợi đối với việc trồng lúa. Đất vùng đồng bằng sông Cửu Long với độ phì nhiêu cao, hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất cân đối và tỉ lệ các chất dễ tiêu cao. Nước tưới được xem như một thuận lợi cho việc trồng lúa, ngay cả mùa khô vẫn đủ nước tưới cho vụ Đông xuân. Khí hậu, đặc biệt là năng lượng bức xạ mặt trời cao, nhiệt độ chênh lệch giữa các mùa không cao, ít có bão, không có mùa lạnh ... là những điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi cho việc trồng lúa ở khu vực này phát triển. Những năm vừa qua Chính phủ đã có nhiều dự án lớn để phát triển kinh tế ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long đặc biệt là các dự án về thuỷ lợi. Hàng chục ngàn tỉ đồng đã được đầu tư để nạo vét các hệ thống kênh mương cũ, đào đắp hàng nghìn cây số kênh mương mới các loại, xây dựng các trạm bơm. Tới nay, toàn vùng có tới gần 60% diện tích cấy lúa được đảm bảo tưới tiêu chủ động. Chỉ tính đến năm 1998 diện tích làm 3 vụ lúa một năm ở khu vực này đã đạt tới 150 ngàn ha, gấp 35 lần so với năm 1986 và diện tích làm hai vụ đạt trên 1triệu ngàn ha, gấp 1,6 lần so với năm 1986. Có thể nói đầu tư cho khu vực nông nghiệp (trong đó có vùng đồngbằng sông Cửu Long) của Việt Nam, trong các năm từ 1999 -2000 là cao nhất thế giới. Nếu như những năm trước đó đầu tư cho nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 7% ngân sách thì những năm 1999 -2000 lên tới 20% so với tổng ngân sách (tăng khoảng 300%) và khi so với mức 30% đóng góp từ khối nông nghiệp vào GDP hàng năm hiện nay thì hệ số đầu tư lại cho nông nghiệp (20%/30%) là hệ số cao nhất (0,7). Đây là thuận lợi cơ bản góp phần ổn định và tăng trưởng kim xuất khẩu đặc biệt là nông sản, lúa gạo. Ngoài ra, còn phải kể đến những thuận lợi khác đối với sản xuất lúa ở khu vực này, đó là năng suất lúa cao, giá lao động thấp, đầu tư cho sản xuất không cao và khả năng hoàn vốn nhanh. Chất lượng một số mặt hàng nông sản trong đó có gạo đang từng bước được cải thiện, việc đầu tư cho sản xuất, chế biến gần đây được chú trọng đã góp phần giảm giá thành sản xuất, so đó đã phần nào tăng được khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận còn có những tồn tại, bất cập ở các khu vực sản xuất lúa hàng hoá này. Đó là mức độ giàu nghèo, trình độ canh tác còn chênh lệch giữa các tiểu vùngvà các nhóm hộ nông dân trong khu vực. Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho thâm canh lúa còn thiếu. Gía vật tư phục vụ sản xuất chưa được ổn định ở mức tương đối. Công tác khuyến nông còn yếu. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn chậm. Trình độ dân trí nói chung thấp, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra, vụ hè thu ở một số nơi trong khu vực này còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, những biến động về thời tiết, lũ lụt. Tình trạng "xâm mặn, xì phèn" ... vẫn chưa giải quyết hoàn toàn đã ảnh hưởng đến việc tăng vụ, tăng diện tích và năng suất. Mặc dù đã đạt được những thành tựu lớn, đặc biệt là về sản lượng, với mức tăng cao, có thể đảm bảo về mặt số lượng lúa hàng hoá dành cho xuất khẩu hàng năm, những tồn tại, bất cập vẫn còn và cần sớm được giải quyết đối với sản xuất lúa hàng hoá ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, cụ thể là: - Gía thành sản xuất lúa còn cao nên sức cạnh tranh yếu. - Tỉ lệ hao hụt sau thu thu hoạch vẫn ở mức hai con số (11 -13%). Đây cũng là nguyên nhân làm giá thành sản xuất và xuất khẩu gạo. - Chất lượng gạo, công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch chưa đáp ứng được yêu cầu đa dạng của thị trường tiêu thụ. Tập quán sản xuất nhỏ lẻ, manh mún vẫn chiếm ưu thế (mỗi tỉnh thường có từ 30 -40 loại giống lúa khác nhau) đã ảnh hưởng đến việc bảo quản, chế biến cũng như chất lượng gạo đạt yêu cẫu xuất khẩu. - Đầu tư cơ sở hạ tầng chưa theo kịp với yêu cầu và đòi hỏi thực tế tình hình cũng là nguyên nhân làm giá thành xuất khẩu cao, cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế. Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thực hiện kế hoạch phát triển các vùng lúa chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thị trường tiêu thụ còn chậm chạm, thậm chí giậm chân tại chỗ. I.2.Thực trạng chế biến lúa hiện nay: Xay xát chế biến, bảo quản lương thực có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng lương thực, làm gia tăng giá trị của hạt gạo, nâng cao hiệu quả của nghề nông. Tuy nhiên đây lại là khâu yếu nhất trong toàn bộ quá trình vận động của lương thực từ sản xuất tới tiêu thụ ở Việt Nam. Trong nền nông nghiệp Việt Nam, mỗi loại nông sản có sự thay đổi tỉ lệ giữa bộ phận sản phẩm dùng để tiêu dùng tại chỗ và sản phẩm hàng hoá. Do vậy việc tác động của khoa học và công nghệ đối với sản phẩm tiêu dùng hay hàng hoá xuất khẩu có yêu cầu khác nhau. Hiện nay, đối với thóc gạo xuất khẩu chúng ta đã áp dụng một số tiến bộ khoa học và công nghệ, nhưng chấtlượng gạo vẫn chưa cao, sức cạnh tranh yếu, nhất là so với gạo Thái Lan hay Mỹ. Vấn đề đặt ra là phải bằng cách áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ thích ứng ở công đoạn trước thu hoạchvà sau thu hoạch (phơi sấy, làm sạch, phân loại, bảo quản, xay xát, chế biến...) nâng cao chất lượng hạt gạo xuất khẩu cũng như tiêu dùng trong nướ nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho nông dân. Thực tế cho thấy mức độ tăng năng suất cây trồng trên đồng ruộng ngày càng khó khăn, đó là chưa kể tới hậu quả của thiên tai. Mất mùa ngoài đồng là hiện tượng dễ nhận thấy nhất và mọi cấp đang nỗ lực để hạn chế đến mức thấp nhất. Trong lúc đó tổn thất lương thực sau thu hoạch ( hiện tượng này được gọi là " mất mùa trong nhà " ) đã xảy ra trên tất cả các hệ thống sau thu hoạch: vận chuyển, tuốt hạt, phơi khô, làm sạch, phân loại, đến quá trình bảo quản, xay xát chế biến, thương mại và tiêu dùng. Theo thống kê của tổ chức lương thực và nông nghiệp thế giới (FAO) thì tuỳ theo yếu tố môi trường, mức độ mau hỏng của mỗi loại lương thực và tuỳ theo các kĩ thuật và công nghệ bảo quản mà mức độ hư hỏng khác nhau và có thể lên tới 100%. Tại nước ta thì mức tổn thất trung bình sau thu hoạch lúa là 10 - 16% sản lượng thu hoạch. Như vậy chỉ tính riêng ở đông bằng sông Hồng tổn thất hàng năm vào khoảng 470 -600 ngàn tấn gạo có giá trị từ 95 -115 triệu U S D. Đối với cả nước nếu suy ra từ tỉ lệ thất thoát này thì thấy tổn thất là rất lớn. Vì vậy việc áp dụng các tiến bộ của khoa học và công nghệ trong công đoạn sau thu hoạch sẽ hạn chế mức độ tổn thất một lượng lương thực rất lớn, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất, đồng thời giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân, góp phần quan trọng trong xây dựng nông thôn công nghiệp hoá. Hiện nay tình trnạng công nghệ ở một số khâu như sau: + Tuốt lúa: Hiện nay phần lớn lúa đã được tuốt bằng máy. Số lưọng máy tuốt đã tăng nhanh từ năm 1990, tới nay có khoảng 200.000 cái, trong đó DBSCL chiếm 35%, DBSH 26%. Máy móc đã làm tăng năng suất lao động, giảm nhẹ sự vất vả của nông dân. Tuy nhiên vẫn còn một số lượng nông dân phai tuốt lúa thủ công. + Phơi sấy: Phần lớn lúa được phơi nắng cho khô. Trong cả nước 90% nông hộ có sân phơi nhưng ở ĐBSCL chỉ có 76% nông hộ có sân phơi. Trong số đó có khoảng 71% có sân xi măng hoặc gạch. Chế độ phơi như vậy tiết kiệm năng lượng nhưng chất lượng thấp, không đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hoá nhất là vào vụ hè thu ở ĐBSCL. Hiện nay trong nước đã xuất hiện nhiều loại máy sấy chất lượng tốt. Tuy vậy giá thành còn cao, chỉ phù hợp nhiều hơn cho điều kiện sản xuất hàng hoá lớn nên chưa phát triển mạnh. + Bảo quản: Nông dân bảo quản lúa gạo tại nhà. Những vùng có nhiều lúa gạo như ĐBSH và ĐBSCL khoảng 55 -60 % nông hộ có phương tiện vbảo quản chuyê dùng, còn ở miền núi Bắc bộ chỉ có khoảng 30%. ở ĐBSCL các hộ có phương tiện lớn bình quân tới 10 tấn, còn ở ĐBSH chỉ khoảng 2.7 tấn/hộ. Phần lớn các cơ sở xay xát có kho chứa với qui mô từ 10 tấn ở ĐBSH tới chục ngàn tấn ở ĐBSCL, các cơ sở này thường trữ gạo từ 1 đến 3 tháng. Các doanh nghiệp có kho lớn hơn, với tổng công suất lên tới 3,9 triệu tấn trong đó 2.4 triệu tấn kho hiện có, 1,5 triệu tấn kho bán kiên cố.Tuy vậy mạng lưới kho đa số dược xây dựng từ lâu năm, một số không còn phù hợp về vị trí nên có tình trạng nơi thừa nơi thiếu. Nhìn chung, chất lượng kém, thiếu phương tiện bốc dỡ và hầu hết vẫn dùng lao động thủ công. + Xay xát, tái chế: Hiện nay cả nước có khoảng 14 - 15.5 tấn gạo /năm, trong đó quốc doanh có 5400 máy xay xát với công suất 27150 tấn gạo/ca hay quản lý 34%, ngoài quốc doanh là 66%. Năng lực thiết bị tái chế gạo xuất khẩu trong vài năm gần đây đã tăng nhanh nay đạt công suất khoảng 3,7 triệu tấn /năm. Biểu 4: Phân bổ năng lực chế biến ở các vùng Đơn vị tính: triệu tấn Xay xát Tái chế Cả nước 15,2 3,7 Miền Bắc 5,2 0,55 Miền Trung 1,4 0,15 Miền Nam 8,6 3,00 Nguồn: Bộ thương mại Trừ một số máy móc được trang bị thời gian gần đây, phần lớn máy xay xát đang sử dụng ở nước ta ( nhất là ở miền Bắc ) đều đã cũ, chất lượng và hiệu quả thấp, tỉ lệ thu hồi gạo chỉ đạt 65 -70%, gạo nguyên 45-50%, tỉ lệ gẫy 15-20%, trong khi các nhà máy mới có thể đạt tỉ lệ thu hồi 75-80%, tỉ lệ gạo nguyên 55-60%. Nói tóm lại, hệ thống cơ sở vật chất này vừa thiếu lại vừa yếu. Việc đầu tư còn mang tính tự phát riêng rẽ, thiếu đồng bộ, tập trung trong khu vực tư nhân là chính, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chưa đáng kể. Hơn thế nữa việc cải tiến kĩ thuật mới chỉ giới hạn ở khâu xay xát chứ chưa chú trọng đồng bộ ở các khâu liên hoàn khác ( như: phơi sấy làm sạch tạp chất căn bản trước khi xay, vận chuyển, bảo quản ) nên hiệu quả của hệ thống xay xát nói chung còn thấp thể hiện qua qui cách phẩm chất gạo xuất khẩu Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá xa so với Thái Lan. Hiện thực này đòi hỏi cần có những giải pháp hỗ trợ giúp đỡ đầu tư để giảm xuông ít nhất và tiến tới không còn phần trăm náo cho sự " mất mùa trong nhà ". I.3.Cân đối lương thực Sản xuất lương thực có nhiệm vụ trọng tâm là đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, tăng hiệu quả xuất khẩu, tăng cường lực lượng dự trữ,góp phần xoá đói giảm nghèo và phát triển chăn nuôi. Bảng cân đối lương thực hàng năm giữ vai trò quan trọng trong việc điều hành các quan hệ giữa sản xuất lưu thông lương thực, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng của nghành nông nghiệp. Xu hướng phổ biến của thế giới là mức lương thực bình quân đầu người dùng để ăn trực tiếp giảm khi dân chúng ngày càng giàu lên. Bên cạnh đó còn có xu hướng tăng nhanh nhu cầu lương thực dùng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, phát triển chăn nuôi và tăng dự trữ để đảm an ninh lương thực quốc gia. Ngoài ra nhu cầu lương thực tiêu dùng thay đổi theo mỗi vùng, mỗi miền tùy thuộc vào tập quán tiêu dùng, khả năng sản xuất hay mức độ tiếp cận nguồn lương thực. Cân đối lương thực giúp cho các nhà quản lý thấy được nhu cầu, phân bổ lương thực đảm bảo cho các nhu cầu đó và thấy được mức dư thừa hay thiếu hụt của mỗi vùng, mỗi miền cụ thể. Từ đó các nhà quản lý có thể đưa ra chính sách thích hợp nhằm điều hoà linh hoạt từ vùng thừa sang vùng thiếu và tổ chức việc lưu thông lương thực nhằm bảo đảm ổn định thị trường giá cả trong nứơc, nâng cao hiệu quả xuất khẩu lương thực. I.4.Lưu thông lương thực trong nước. Vào thời kì 76-80 do tập trung quá lớn mọi nguồn lực cho việc giải quyết hậu quả của chiến tranh và triển khai buức đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, đã gây nên những mất cân đối lớn ở tầm vĩ mô. Nhà nước duy trì chế độ quản lý bao cấp, trong đó vấn đề bao cấp lương thực là một gánh nặng đối với ngân sách quốc gia. Cũng với sự thiếu hụt lương thực nghiêm trọng làm bộc lộ những khuyết tật của cơ chế cũ, đòi hỏi bức xúc phải tiến hành cải cách kinh tế. Do nhu cầu cấp bách phải gia tăng sản xuất lương thực, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cảu xã hội, công cuộc cải cách đã được bắt đầu từ khu vực nông nghiệp. Chế độ khoán sản phẩm trong các hợp tác xã nông nghiệp cho phép hình thành một thị trường tự do về lương thực đối với sản phẩm vượt khoán, đó là bước đi đầu tiên trong việc xác lập cơ chế thị trường ở nước ta. . Khi nói đến thị trường lương thực chúng ta cần quan tâm đến đầu ra, đó chính là khả năng tiêu thụ lương thực hàng hoá trên thị trường. Trên thực tế nếu không giải quyết tốt đầu ra thì có đầu tư bao nhiêu cho " đầu vào " thì cũng không đạt được hiệu quả cao. Một cơ cấu sản xuất hay cơ cấu kinh tế dù có hoàn hảo đến đâu đi nữa nhưng thị trường không phát triển hoặc không đấp ứng đủ nhu cầu thị trường thì cơ cấu đó cũng không có hiệu quả. Trong nến sản xuất hàng hoá bản thân cơ chế vận đọng của thị trường luôn mang tính tự phát. Người sản xuất, các nhà đầu tư thường chạy theo tiếng gọi của thị trường thông qua tín hiệu giá cả. Trong sản xuất nông nghiệp Việt nam đã xảy ra hiện tượng nhiều người, nhiều vùng đổ xô vào trồng cây công nghiệp nông sản hoá lợi nhuận cao, nhưng không đánh giá hết mặt tiêu cực của thị trường hoặc không có thị trường tiêu thụ gây lên ứ đọng nông sản thực phẩm, thậm chí phải chặt phá đi để trồng cây loại khác. Kinh tế nông thôn nước ta hoạt động chủ yếu là nông nghiệp, với đặc thù là chu kì sản xuất kéo dài, thậm chí một số cây còn rất dài, lại phải đầu tư lớn, cho nên không dẽ dàng thay đổi phương hướng sản phẩm một khi thị trường có biến động tiêu cực. Đầu năm 1992 do mất mùa, cung cầu lương thực bị mất cân đối, giá lương thực tiếp tục tưng nhanh ơ cả thành thị và nông thôn , có hàng triệu ngưới bị thiếu đói, nhà nước phải cứu trợ. Nhưng từ đầu năm 1993 do nguồn cung lương thực trên thế giới dồi dào, giá lương thực liên tục bị giảm kéo dài đến cuối năm, lương thực bị ứ đọng không tiêu thụ được hàng loạt doanh nghiệp quốc doanh bị thua lỗ nặng nề. Phân tích trên cho thấy vai trò thị trường có tác động rất lớn tới giải quyết quan hệ cung cầu giữa các vùng. Vùng thừa lương thực trong thời gian thu hoạch, số nông dân cần bán lương thực để chi dùng lượng lương thực hàng hoá nhiều, nhà nước thiếu chính sách thích hợp đểmua hết số thóc hàng hoá cho dân, làm cho giá thóc bị hạ, ảnh hươỏng đến đời sống nông dân trồng lúa. Vùng thiếu lương thực do sản xuất phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, cơ chế thị trường đã tạo ra khoảng cách lớn giữa giàu, nghèo ở nông thôn dẫn đến tình trạng bên cạnh số đủ ăn, nhiều hộ sản xuất không đủ tiêu dùng. Giai đoạn trước năm 1990 ở mỗi huyện đều có công ty kinh doanh lương thực, hình thành mạng lưới rộng khắp trên cả nước. Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường hình thức tổ chức này không còn phù hợp nữa, theo đó hầu hết các công ty kinh doanh lương thực cấp huyện đều bị giải thể hoặc tổ chức lại theo yêu câù kinh doanh mới, các công ty cấp tỉnh cũng được tổ chức lại theo nghị định 388 ttg, vai trò của các công ty lương thực quốc doanh ngày càng bị thu hẹp. Các thành phần kinh tế khác lại mở rộng hoạt động kinh doanh lương thực trên thị trường. Các công ty lương thực quốc doanh địa phương, nghành dự trữ quốc gia và các thành phần kinh tế khác có vốn, phương tiện cùng tham gia kinh doanh lương thực. thị trường lương thực không còn bị chia cắt manh mún nữa mà đã được mở rộng thống nhất cả nước và gắn lliền với thị trường thế giới. Hiện nay đường đi của lúa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dủng theo hai hưóng chính: - Đại bộ phận lúa hàng hoá (90 - 95%) được lực lượng tiểu thương mua tận hộ nông dân, thông qua chế biến ở các cơ sở xay xát địa phương; sau đó gạo dược phân phối phần nhỏ cho nhu cầu tiêu dùng ỏ địa phương, số còn lại được cung ứng cho các chợ đầu mối dọc theo tuyến lưu thông lương thực; rồi từ đây gạo được tái chế cung cấp cho các tầng lớp tư thương bán lẻ, các công ty lớn đem xuất khẩu. - Các doanh ngiệp nhà nước chỉ trực tiếp thu mua khoảng 5 -10% lúa hàng hoá, phần lớn trong số này được cung ứng cho Cục dự trữ quốc gia đưa vào dự trữ bảo hiểm theo kế hoạch của Chính phủ. Cuối cùng được chế biến đưa vào thị trường những lúc đảo kho hoặc can thiệp bình ổn thị trường lương thực theo lệnh của Chính phủ. Hệ thống kinh doanh như hiện nay có ưu điểm là huy động cao vốn, lao động và kinh nghiệm của các thành phần kinh tế tao cho nô9ng dân nhiều khả năng lựa chọn để bán lúa đạt giá cao vừa tạo việc làm và thu nhập cho lực lượng lao động lớn góp phần điều hoà và ổn định của thị trường gạo trong nước. Tuy vậy, do thiếu vốn nên phần lớn các doanh nghiệp có quy mô hoạt động nhỏ mang tính khu vực. Cũng do thiếu vốn nên các doanh nghiệp ít đầu tư xây dựng kho tàngdự trữ nên không đóng vai trò tích cực trong việc giảm tính thời vụ của giá cả trong nước. II. xuất khẩu gạo của việt nam giai đoạn 1990 -2001. II.1. Vài nét về tình hình xuất khẩu: Xuất khẩu hàng hoá nói chung trong giai đoạn 10 năm trở lại đây đã đạt được mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Kim ngạch xuất khẩu thời kì 1992 -1996 gấp 2 - 2,5 lần so với 5 năm trước. Nhịp độ tăng trưởng bình quân 18,4%/năm, nhanh hơn tốc độ so với năm 1991. Cơ cấu xuất khẩu đã được cải thiện theo hướng "tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỉ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định". Nếu như năm 1992 mới có 4 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD (dầu thô, thuỷ sản, gạo và hàng dệt may) thì nay có thêm 8 mặt hàng khác (cà phê, điều, cao su, giầy dép, than đá, điện tử, hàng thủ công mĩ nghệ và hàng rau quả). Việc thực hiện chủ trương "phát triển nhiều hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, nhất là hoạt động du lịch" có nhiều tiến bộ. Việt Nam đã vượt qia được "cuộc khủng hoảng thị trường " vào đầu những năm 90 do chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu bị xoá bỏ; đẩy lùi được chính sách bao vây cấm vận của các thế lực thù địch; về cơ bản thực hiện được chủ trương "đa dạnh hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ kinh tế ... tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển quan hệ mới". Chính phủ đã đổi mới một cách cơ bản cơ chế quản lý theo hướng mở rộng quyền kih doanh xuất nhập khẩu, giảm dần hào rào phi thuế, hạn chế và xoá bỏ cơ chế "xin - cho", giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao vai trò của các công cụ vĩ mô như thuế, lãi suất, tỉ giá thông qua các chương trình hỗ trợ như trợ cấp, trợ giá, lập quỹ hỗ trợ, quỹ thưởng ... Chính phủ đã dành sự quan tâm đặc biệt cho xuất khẩu. Hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện: Luật thương mại đã được thông qua. Có được như như vậy là do công cuộc đổi mới của Đảng đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cơ cấu sản xuất chuyển dịch dần, từ đó thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cơ cấu xuất nhập khẩu. Mặt khác, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã góp phần đẩy lùi chính sách bao vây cấm vận, mở rộng thị trường xuất khẩu. Xuất khẩu được đặt thành một nhiệnm vụ trọng tâm kèm theo các cơ ché chính sách ngày càng phù hợp, thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nghành sản xuất trong đó có gạo, cho các địa phương và các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, tồn tại của xuất khẩu nói chung là quy mô xuất khẩu còn quá nhỏ so với các nước trong khu vực. Tăng trưởng xuất khẩu (kể cả gạo) chưa thật ổn định, bền vững. Tỷ trọng hàng thô và sơ chế trong có cấu xuất khẩu còn khá cao. Trong số sản phẩm chế biến, hàng gia công còn chiếm tỉ trọng lớn. Tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí tuệ cao còn rất nhỏ, khả năng cạnh tranh của phần lớn hàng hoá còn thấp. Thêm vào đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nó chung, trong lĩnh vực nghành hàng nói riêng chưa bám sát tín hiệu của thị trường thế giới nên nhiều sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Đầu tư vào khâu nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ chưa thoả đáng. Nhiều hình thức kinh doanh đã trở thành phổ biến trên thế giới nhưng ở nước ta lại chưa phát triển. Dịch vụ thu ngoại tệ chưa được đặt đúng vị trí cần có của nó. Sự hiểu biết về thị trường nước ngoài còn hạn chế. Nhà nước chưa cung cấp được thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp. Về phía mình, nhiều doanh nghiệp còn ỷ lại vào Nhà nước, thụ động chờ khách hàng. Đối với một số thị trường, hàng xuất khẩu vẫn còn phải bán qua trung gian. Việc hội nhập kinh tế thế giới và khu vực còn không ít lúng túng. Đến nay chưa hình thành được chiến lược tổng thể, chưa có lộ trình giảm thuế và hàng rào phi thuế quan dài hạn. Nhiều doanh nghiệp còn trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước. Công tác quản lý Nhà nước về thương mại tuy đã có nhiều cải tiến nhưng nhìn chung còn khá thụ động. Sự phối hợp giữa các ngành các Bộ, các địa phương đã có chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung vẫn chưa tạo được sức mạnh tổng hợp. Còn thiếu cán bộ quản lý có trình độ. Tất nhiên cónhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại này, nhưng phải kể đến những nguyên nhân cơ bản nhất, đó là trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, cơ cấu kinh tế nói chung còn lạc hậu; nước ta nằm trong cơ chế tập trung, bao cấp lại bị bao vây cô lập khá lâu, thực tế mới chuyển sang cơ chế thị trường và mới tiếp cận với thị trường toàn cầu tong khoảng 10 năm nay nênkhông thể tránh khỏi những bỡ ngỡ. Hơn nữa, trong việc đề ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện phương châm hướng mạnh ra xuất khẩu và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới còn lúng túng. Cùng với sự phát triển của sản xuất nói chung, sản xuất lúa hàng hoá ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và việc xuất khẩu gạo hơn 10 năm qua cũng đã đạt đuợc một số kết quả, nhưng cũng còn nhiều bất cập cần phải tháo gỡ. II.2.Đánh giá quá trình xuất khẩu gạo của nước ta từ năm 1990 đến nay: II.2.1- Về cơ chế điều hành: Xét cả quá trình hơn 10 năm qua, nếu tính từ năm 1989, năm đầu tiên nuớc ta tham gia thị trường buôn bán gạo thế giới với tư cách là nước xuất khẩu, có thể tóm lược trước hết về cơ chế điều hành đối với từng thời kì, cụ thể là:ư - Năm 1990: chưa có cơ chế rõ ràng. - Năm 1991 - 1992, với chủ trương là mở rộng để tiêu thụ hàng hoá nên có nhiều công ty tham gia xuất khẩu. Thời gian này sản xuất nông nghiệp ở các đồng tỉnh bằng sông Cửu Long phát triển mạnh, trong khi chúng ta thiếu bạn hàng và thị trường. - Năm 1993 - 1996, do tình hình giá gạo thị trường thế giới giảm mạnh, các công ty lương thực ở các địa phương kinh doanh xuất khẩu gạo bị lỗ, khônglàm được. Các tỉnh đề nghị chỉ lo khâu sản xuất và cung ứng, tạo chân hàng, tức là thu mua, xay xát, chế biến, vận chuyển nội địa; còn việc xuất khẩu chủ yếu do các doanh nghiệp khối các Bộ, ngành của Trung ương đảm nhiệm. Cơ chế này được thực hiện trong cả giai đoạn 1993 - 1996 là thời gian khá dài. - Đến năm 1997, tình hình tiêu thụ của thế giới trở lại thuận lợi, việc kinh doanh xuất khẩu gạo có lời. Tuy nhiên tình trạng mua ép giá người sản xuất là nông dân phát sinh, xuất hiện nhiều tiêu cực trong khâu kí kết hợp đồng với thương nhân nước ngoài như việc hoàn giá, độn giá ... Chính phủ đã chỉ đạo chấn chỉnh lại việc xuất khẩu gạo và huy động nguồn hàng bằng cách chỉ định các doanh nghiệp (kể cả các doanh nghiệp địa phương) thực sự kinh doanh gạo nghiêm túc và có hiệu quả làm đầu mối xuất khẩu gạo. Từ năm 1998 - 2001, ngoài quyết định điều hành xuất khẩu hàng hoá nói chung, riêng về mặt hàng gạo, Chính phủ đã có các quyết định riêng để điều hành xuất khẩu (năm 1998: Quyết định số 141- TTg; năm 1999: Quyết định số 12/1999/QĐ-TTg; nă

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0473.doc
Tài liệu liên quan