Chuyên đề Xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ: Thực trạng và giải pháp phát triển

MỤC LỤC

 

Lời nói đầu 1

Chương I. Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu

 hàng dệt may 3

I. Khái niệm, vai trò 3

1. Khái niệm xuất khẩu 3

2. Vai trò của xuất khẩu đối với Việt Nam 3

II. Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam 5

1. Yếu tố chính trị 5

2. Yếu tố kinh tế 5

3. Yếu tố luật pháp 5

4. Yếu tố cạnh tranh 6

5. Yếu tố văn hoá 6

III. Vai trò của hàng dệt may xuất khẩu với nền kinh tế Việt Nam 6

IV. Lợi thế so sánh của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ 7

Chương II. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang

thị trường Hoa Kỳ 10

I. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 10

1. Môi trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ 10

2.Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và ảnh hưởng tới xuất khẩu

hàng dệt may 13

3. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ 16

4. Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ 20

III. Những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam

sang thị trường Mỹ 21

1. Những thuận lợi 21

2. Những khó khăn 23

Chương III. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam

sang thị trường Hoa Kỳ đến 2010 25

I. Phương hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam 25

II. Đề xuất giải pháp với các doanh nghiệp 27

2. Nghiên cứu thực hiện thị trường 27

3. Về sản xuất và xuất khẩu đáp ứng thị trường 27

4. Về Marketing nghiên cứu thị trường 28

5. Tổ chức mạng lưới tiêu thụ đáp ứng yêu cầu khách hàng 28

III. Đề xuất biện pháp quản lý của nhà nước và chính phủ 29

1. Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu 29

2. Chính sách ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp may 29

3. Đầu tư phát triển ngành dệt, có sự cân đối giữa ngành dệt và may 30

Kết luận 31

 

doc51 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 4941 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ: Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế tối huệ quốc cho nhau, mà quan trọng hơn là hàng hoá Việt Nam sẽ dễ dàng xâm nhập vào thị trường Mỹ nhiều hơn, làm tăng khả năng cạnh tranh với mức thuế suất chỉ còn trên 3%, trong khi trước ngày Hiệp định có hiệu lực 11/12/2001 phải từ 40% đến 80%. 3. HĐTM Việt - Mỹ sẽ mở ra một cơ hội làm ăn mới cho các nhà đầu tư Mỹ tại Việt Nam, họ sẽ nhận được sự trợ giúp nhiều hơn nữa của Chính phủ Mỹ thông qua các tổ chức tài chính tín dụng 4. HĐTM sẽ tạo điều kiện để Mỹ có thể nhập khẩu những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế như dầu thô, dệt may, giầy dép mà trước đây, Mỹ đã không mua được của Việt Nam bao nhiêu. 5. Để thực thi được HĐTM, hệ thống luật pháp của Việt Nam cần thay đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều đó sẽ làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam hấp dẫn hơn, chẳng những đối với nhà đầu tư Mỹ mà cả các nhà đầu tư nước ngoài khác. 6. HĐTM Việt - Mỹ tạo ra cơ hội lớn để Việt Nam gia nhập WTO vì các nguyên tắc của tổ chức này đã được hai bên lấy làm nền tảng trong quá trình đàm phán. 7. HĐTM được ký kết, góp phần nâng vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới vì giờ đây Việt Nam đã có đủ điều kiện để thâm nhập vào một nền kinh tế lớn nhất thế giới mà hệ thống luật lệ, cung cách làm ăn của nó là hết sức chặt chẽ, tinh vi. 8. HĐTM Việt - Mỹ mở ra một cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực phấn đấu không ngừng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, học tập một cách làm ăn bài bản, phù hợp với luật lệ kinh doanh quốc tế. 9. HĐTM có hiệu lực sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn từ đó, Việt Nam tiếp thu công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, góp phần thúc đẩy nhanh hơn tiến trình CNH-HĐH đất nước. 10. HĐTM sẽ tạo điều kiện để hoàn chỉnh hoá hệ thống lĩnh vực hoạt động dịch vụ như viễn thông, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng vì một trong những nội dung quan trọng của hiệp định là sau một số năm khi hiệp định có hiệu lực, các nhà đầu tư Mỹ sẽ khai thác tối đa hoạt động dịch vụ tại Việt Nam, một lĩnh vực được xem là yếu trong cơ cấu kinh tế. Trong khi đó ở Mỹ, dịch vụ chiếm 60 -70% GDP và phát triển rất mạnh. Nhờ đó, người dân Việt Nam sẽ được hưởng các dịch vụ tốt hơn do các nhà đầu tư Mỹ cung cấp. 11. Để có một lượng hàng lớn xuất khẩu vào thị trường Mỹ, nhất là những mặt hàng sử dụng nhiều lao động cũng như các nhà đầu tư Mỹ sẽ vào Việt Nam nhiều hơn, tất cả sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm mới khi HĐTM có hiệu lực, góp phần giải quyết vấn đề dân số và việc làm ở Việt Nam. 12. HĐTM mở ra một cơ hội để khai thác lực lượngViệt kiều đang làm ăn sinh sống ở Mỹ, phát huy những lợi thế và tiềm lực của họ nhằm góp phần xây dựng quê hương. 13. HĐTM có hiệu lực, mối quan hệ Việt - Mỹ theo đó sẽ có những bước phát triển toàn diện về mọi mặt: người Mỹ sẽ đến Việt Nam nhiều hơn, ngành du lịch nhờ đó mà phát triển. Trái lại, người Việt Nam cũng sẽ đến Mỹ nhiều hơn để quan sát, học tập, tiếp thu những tiến bộ mà Mỹ đã đạt được tất cả sẽ làm cho mối quan hệ hai nước phát triển lên một tầm cao mới. b. Tác động Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đến xuất khẩu dệt may sang Hoa Kỳ Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ từ năm 2001 đến năm 2002 đã tăng lên với tốc độ rất lớn 1.724% tương đương với 900 triệu USD trong khi thời gian trước đó, từ năm 1994 – 2001 thị trường Mỹ còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Lý do chính ở đây là Việt Nam chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc MFN và những ưu đãi khác. Từ 11/12/2001 khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ chính thức có hiệu lực xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ đã tăng lên đáng kể. Sau 2 năm có hiệu lực kim ngạch dệt may tăng mạnh 2002 là 900 triệu USD và 2003 đạt 2,3 tỷ USD. Kết quả này đạt được là do những thuận lợi mà Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ mang lại. Sau khi Hiệp định có hiệu lực hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ không phải áp dụng hạn ngạch trong một thời gian từ 1 – 2 năm. Hơn nữa kể từ đầu năm 2002 hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ đã được hưởng quy chế thương mại bình thường NTR và những ưu đãi khác. 3. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường hàng dệt may có tiềm năng của Việt Nam. Như đã phân tích về đặc điểm thị trường hàng dệt may của Mỹ ở trên, Mỹ là một thị trường tiêu thụ hàng dệt may hết sức khổng lồ (hàng năm Mỹ phải nhập khẩu khoảng 70 tỷ USD). Đây thực sự là điều hấp dẫn các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm của mình sang Mỹ. Sau khi Mỹ quyết định huỷ bỏ cấm vận với Việt Nam (03/2/1994), tiếp đó Bộ Thương mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, Cuba, Việt Nam) lên nhóm Y ít hạn chế về thương mại hơn (gồm Liên Xô cũ, các nước thuộc khối Vacsava cũ, Anbani, Mông Cổ, Lào, Campuchia và Việt Nam). Bộ Vận tải và Bộ Thương mại Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ của Việt Nam được vào cảng của Mỹ (nhưng còn phải hạn chế xin phép trước 3 ngày). Ngay từ khi chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ. Quyết định huỷ bỏ cấm vận này chính là tiền đề, là cơ sở cho sự khai thông quan hệ thương mại Việt - Mỹ. Hàng dệt may Việt Nam với ưu thế giá rẻ, chất lượng được đánh giá là cao và thời hạn giao hàng được xếp vào loại tốt nhất Châu á đã từng bước thâm nhập vào thị trường Mỹ đầy rẫy những khó khăn này. Hàng dệt may Việt Nam thâm nhập được vào thị trường Mỹ là cả một sự nỗ lực to lớn của không những bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà còn có sự giúp đỡ, hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành và các thành phần kinh tế có liên quan. Tuy còn rất nhiều trở ngại trên con đường thâm nhập vào thị trường Mỹ, nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ liên tục tăng qua các năm với một tốc độ tăng trưởng khá cao.Từ năm 1994, hàng dệt may Việt Nam mới bắt đầu đặt được bước chân nhỏ bé của mình vào thị trường khổng lồ này (xem bảng 9 ở phụ lục). Năm 1994, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này rất nhỏ bé: 2,56 triệu USD chỉ chiếm một phần không đáng kể trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ năm đó (khoảng 0,05%) và cũng không đóng vai trò gì đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm đó (khoảng 0,47%). Nhưng đây cũng thực sự là một kết quả đáng khích lệ. Vì Việt Nam mới bắt đầu quan hệ thương mại với Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có hiểu biết gì nhiều về thị trường này cả về hệ thống pháp luật, các chính sách quy định của Chính phủ Mỹ, cũng như đặc điểm của thị trường này. Nhưng chỉ một năm sau, năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ đã có tốc độ tăng trưởng rất cao 558,98% gấp 6,6 lần, đạt giá trị 16,87 triệu USD tăng 14,31 triệu USD ( xét về trị số tuyệt đối). kim ngạch xuất khẩu như vậy chưa phải thực sự là lớn, nhưng tốc độ tăng trưởng thì quả là không nhỏ. Lúc này tỷ trọng hàng dệt may của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ vẫn chưa đáng kể, nhưng trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam thì thị trường Mỹ đã chiếm 2%. Sở dĩ có mức tăng trưởng kỷ lục như vậy là do Việt Nam đã đi từ con số 0 đi lên. Hơn nữa quan hệ thương mại Việt - Mỹ ngày càng tiến triển tốt đẹp. Ngày 11/7/1995 Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố công nhận ngoại giao và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Trong năm 1995, Ngoại trưởng Mỹ W.Chirtopher đã thăm chính thức Việt Nam, và Chủ tịch Lê Đức Anh cũng có chuyến sang thăm Mỹ và tiếp xúc với nhiều quan chức cao cấp trong Hội nghị về bình thường hoá quan hệ - bước tiếp theo trong quan hệ Việt -Mỹ do hội đồng Mỹ tổ chức, mở ra một trang mới trong quan hệ hai nước. Năm 1996, kim ngạch đạt 23,60 triệu USD với tốc độ tăng trưởng là 38,89%. Sang năm 1997, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nhiều thị trường nhập khẩu hàng dệt may hạn ngạch cũng như phi hạn ngạch của Việt Nam bị giảm sút, thị trường Mỹ xem ra vẫn là thị trường khá ổn định, tuy tốc độ tăng trưởng cũng có giảm sút hơn so với các năm trước. Năm 1997 tốc độ tăng trưởng là 9,86% với kim ngạch xuất khẩu đạt 25,928 triệu USD, năm 1998 tốc độ tăng trưởng là 1,82%, kim ngạch xuất khẩu đạt 26,40 triệu USD. Kết quả giảm sút này là do: ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ kéo dài suốt từ năm 1997 đã làm cho giá cả của hàng dệt may Việt Nam vốn đã cao do chênh lệch thuế suất, nay lại càng cao hơn do đồng tiền của các nước chịu khủng hoảng mất giá. Nên các sản phẩm của họ trở lên rẻ hơn một cách tương đối so với hàng của Việt Nam, hàng dệt may của Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh không tương sức trên thị trường này. Năm 1999, tình hình đã được cải thiện sáng sủa hơn. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đã tăng lên đáng kể. kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ năm 1999: 30,00 triệu USD, đạt tốc độ tăng trưởng 13,65%. Theo dự đoán năm 1999 giữa Việt Nam và Mỹ sẽ đi đến ký một Hiệp định Thương mại song phương để Việt Nam có thể được hưởng quy chế đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ được thông thoáng hơn. Thực tế là trong năm 1999 mặc dù đã trải qua 8 vòng đàm phán, nhưng vẫn chưa đi đến một thoả thuận thống nhất của hai nước trong một số vấn đề (phải sang đến năm 2000 Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ mới được ký kết). Sang đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ là 49,87 triệu USD (tăng khoảng 65,23%). Tuy nhiên, năm 2001 kim ngạch xuất khẩu lại giảm: 49,34 triệu USD (tăng khoảng -1,06%), lý do của sự giảm sút này là do nền kinh tế thế giới suy thoái, nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may thế giới giảm sút nên nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ cũng bị giảm sút đáng kể. Khó khăn lớn nhất cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam khi xuất sang Mỹ là chịu thuế suất quá cao do Việt Nam chưa được hưởng MFN. Mức thuế suất quá cao này chính là rào cản trực tiếp ngăn không cho hàng dệt may của Việt Nam thâm nhập được vào thị trường Mỹ. Các sản phẩm may mặc của Việt Nam luôn được đánh giá là có chất lượng khá cao nhưng vẫn không thể cạnh tranh nổi với các sản phẩm dệt may được nhập khẩu từ các nước khác - những nước được hưởng các ưu đãi. Các sản phẩm dệt may của họ có giá rẻ hơn hẳn các sản phẩm của Việt Nam. Do vậy, Việt Nam mới chỉ xuất sang Mỹ một số các mặt hàng chính có mức chênh lệch về thuế suất không lớn lắm (có thể cạnh tranh được), thuộc các loại (category) sau đây (thứ tự theo kim ngạch từ cao đến thấp đối với những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 triệu USD (xem bảng 10 ở phụ lục). Việt Nam xuất khẩu một số mặt hàng dệt thoi như: găng tay, sơ mi trẻ em (chiếm khoảng 85% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ) và mặt hàng dệt kim như: sơ mi trẻ em; sơ mi nam, nữ; găng tay dệt kim, Hàng may mặc dệt thoi thường chiếm phần lớn trong giá trị xuất khẩu nhưng tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu hàng may mặc dệt kim lại cao hơn. thị trường Mỹ có nhu cầu rất lớn về hàng dệt kim, nhưng sở dĩ Việt Nam chưa xuất khẩu sang Mỹ được nhiều sản phẩm dệt kim trong những năm qua do mức chênh lệch thuế như đã nói ở trên là rất cao. Mặt khác, do có sự khác biệt trong tiêu chuẩn về sợi dệt và quy trình ráp sản phẩm như người tiêu dùng Mỹ thường ưa thích các sản phẩm áo pull liền tay (không ráp tay) nên yêu cầu khổ vải để sản xuất phải là khổ rộng (2,2 mét). Sang năm 2002 tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ đã tăng đột biến kim ngạch xuất khẩu 900 triệu USD tăng trưởng với tốc độ kinh ngạc 1.724% chiếm một tỷ trọng lớn trong tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ đã vươn lên vị trí dẫn đầu vượt kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU 570 triệu USD và Nhật Bản 500 triệu USD. Cơ cấu mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ cũng tăng lên và rất đa dạng (xem bảng 11 ở phụ lục). Qua bảng 11 ta thấy một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn áo sơ mi M/B knit cotton 252.450USD áo sơ mi / áo sơ mi nữ W/G khác đạt 415.538 USD. Quần, quần ngắn, quần soóc W/G cotton đạt giá trị 374.665USD. Ta thấy thị trường Mỹ rất ưa chuộng áo sơ mi, quần âu, quần soóc của Việt Nam đây cũng là những mặt hàng chiếm thị phần đáng kể trong số những mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. Sang 3 tháng đầu năm 2004 xuất khẩu dệt may của Việt Nam tiếp tục gia tăng mạnh mẽ đạt 500 triệu USD theo dự báo của Bộ thương mại xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ năm nay có thể đạt 2.6 tỷ USD (xem bảng 12 ở phụ lục). Tuy nhiên, hiện nay rất ít các doanh nghiệp Việt Nam có đủ khả năng xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Mỹ. Vì theo tập quán Thương mại của Mỹ, Mỹ thường giao dịch theo giá FOB trong khi Việt Nam chủ yếu lại gia công xuất khẩu. Chính phủ luôn có các chính sách hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp tìm cách xuất khẩu được sản phẩm của mình sang Mỹ. Nhưng do có quá nhiều khó khăn (điều này sẽ được phân tích kỹ ở phần hạn chế và thách thức trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ) nên các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chưa thể đẩy mạnh được hoạt động xuất khẩu trực tiếp. Hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ qua kênh 1 và 2 là rất ít mà chủ yếu là qua kênh 3, nước thứ 3 như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông. Ví dụ như: quần áo jean của Công ty may Thăng Long, quần áo dệt kim của Công ty dệt Thành Công, các loại găng tay của Công ty dệt Chiến Thắng theo sơ đồ (xem phần phụ lục). 4.Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ Đi cùng với sự thay đổi dần của máy móc, trang thiết bị thì các sản phẩm dệt may đã dần được đa dạng hoá. Trong khâu sản xuất sợi, tỷ trọng các mặt hàng Polyeste pha bông với nhiều tỷ lệ khác nhau tăng nhanh. Các loại sợi 100% polyeste cũng bắt đầu được sản xuất, các sản phẩm cotton/visco, cotton/acrylic .... đã bắt đầu được đưa ra thị trường. Trong khâu dệt vải, nhiều mặt hàng dệt thoi mới, chất lượng cao đã bắt đầu được sản xuất: đối với mặt hàng 100% sợi bông, các mặt hàng sợi đơn chải kỹ chỉ số cao phục vụ cho may xuất khẩu, mặt hàng sợi bông dày được tăng cường công nghệ làm bóng, phòng co cơ học.... đã xuất khẩu được sang EU và Nhật Bản là một thị trường phi hạn ngạch lớn của nước ta Đối với một số mặt hàng sợi pha, các mặt hàng katê đơn màu sợi 76/76 đều thay sợi dọc 76/2, các loại vải dày như gabadin, kaki, simili, ... tuy sản lượng chưa cao nhưng cũng bắt đầu được đưa vào sản xuất rộng rãi ở nhiều doanh nghiệp. Đối với mặt hàng 100% sợi tổng hợp, nhờ được trang bị thêm hệ thống xe săn sợi với độ săn cao, thiết bị comfit, thiết bị giảm trọng lượng đã tạo ra nhiều mặt hàng giả tơ tằm, giả len... thích hợp với khí hậu nhiệt đới, bước đầu giành được uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Đối với mặt hàng dệt kim 75 - 80% sản lượng hàng dệt kim từ sợi Pe/Co được xuất khẩu, tuy nhiên chủ yếu là các mặt hàng thuộc nhóm giá thấp và trung bình 2,5 - 3,5 USD/sản phẩm, tỷ trọng các mặt hàng chất lượng cao còn rất thấp. Điều này không có nghĩa là cơ cấu sản phẩm may không có sự thay đổi mà nó đã có sự thay đổi đáng kể, từ chỗ chỉ may được quần áo bảo hộ lao động, quần áo thường dùng ở nhà, đồng phục học sinh... đến nay ngành may đã có những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của những nhà nhập khẩu khó tính, quần áo thể thao, quần jean... Sản phẩm phụ liệu may cũng đã có những tiến bộ nhất định cả về chủng loại và chất lượng. Những sản phẩm khác như chỉ khâu Total Phong Phú, khoá kéo Nha Trang, Mex Việt Pháp,... đủ tiêu chuẩn chất lượng cho khâu may xuất khẩu tuy sản lượng còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu cho sự phát triển. III. những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường mỹ 1.Những thuận lợi a. Lợi thế về nguồn nhân lực Dân số Việt Nam trên 80 triệu người trong đó có 40-50 triệu người ở độ tuổi lao động. Đặc thù của ngành công nghiệp dệt may là cần nhiều lao động hơn nữa người lao động Việt Nam có truyền thống là cần cù, khéo léo ham học hỏi tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ mới có sáng kiến và nhiệt tình với công việc. Mức lương của công nhân dệt may Việt Nam hiện nay còn khá thấp so với các nước trong khu vực (xem bảng 13 ở phụ lục). Lao động dồi dào tiền lương thấp khoảng 40 USD/1tháng là thế mạnh cơ bản của Việt Nam trong giai đoạn này. Hơn nữa, Việt Nam có đội ngũ lao động trình độ văn hoá khá. Như vậy so với các nước trong khu vực thì tiền lương của công nhân Việt Nam rẻ hơn từ 2- 19 lần và nếu so với các nước Đức 25,56 USD/giờ, Nhật 19,2 USD/giờ, Mỹ 16,73 USD/giờ thì giá nhân công của Việt Nam rẻ hơn từ 100- 150 lần do đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có lợi thế so sánh rất lớn so với các nước khác về chi phí lao động. Hiện nay ngành công nghiệp dệt may của Mỹ cũng đang được thu hẹp chuyển dịch sang các nước đang phát triển do ngành dệt may của Mỹ có giá trị gia tăng thấp đó cũng là một điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu dệt may sang thị trường Mỹ b. Vị trí địa lý và điều kiện giao lưu hàng hoá Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á, khu vực trong những năm đầu thập kỷ 90 có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, với mức tăng trưởng kinh tế bình quân từ 6 –8%/ năm trong những năm qua và là khu vực có dân số đông nhất thế giới. Vị trí của Việt Nam cũng thuận tiện cho việc phát triển giao lưu hàng hoá quốc tế với các nước trên khu vực và trên thế giới với bờ biển dài có nhiều cảng nước sâu và khí hậu tốt cho phép tàu thuyền vào ra buôn bán thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá, là cửa ngõ thông thương của nhiều tuyến buôn bán thương mại quốc tế do đó có điều kiện tốt xuất khẩu hàng sang Mỹ. c. Các chính sách quản lý, hỗ trợ của Chính phủ Những kết quả đạt được của ngành dệt may trong những năm qua không những thể hiện sự nỗ lực của bản thân ngành mà còn phản ánh những tác động tích cực của chính sách thương mại và đầu tư của Đảng và nhà nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Ngành dệt may với đặc điểm có hàm lượng lao động lớn có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao được xếp vào lĩnh vực đẩu tư phát triển. Nhiều chính sách thương mại và đầu tư được ban hành trong thời gian qua đã có tác động thiết thực trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ các khó khăn của doanh nghiệp dệt may và thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này. Cơ chế chính sách quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Chính phủ ngày càng thông thoáng hơn từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Thực hiện chế độ thưởng xuất khẩu, thưởng hạn ngạch và hàng loạt các chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất, kinh doanh nhập khẩu khuyến khích qua chế độ thuế lập quỹ thưởng xuất khẩu hỗ trợ lãi suất xuất khẩu tín dụng Nhiều chính sách thương mại và đầu tư trong thời gian qua đã có tác động tích cực tới sự phát triển của ngành. Nhà nước hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm. Đầu tư các công trình xử lý nước thải, quy hoạch các cụm công nghiệp dệt, xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp mới, đào tạo và nghiên cứu của các Viện, trường và trung tâm nghiên cứu chuyên ngành dệt may. * Các dự án đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất: sợi, dệt, in nhuôm hoàn tất, nguyên liệu dệt phụ liệu may và cơ khí dệt may: + Được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó 50% vay với lãi suất bằng 50% mức lãi suất theo quy định hiện hành tại thời điểm rút vốn, thời gian vay 12 năm, có 3 năm ân hạn, 50% còn lại được vay theo quy định của quỹ hỗ trợ phát triển. + Được coi là lĩnh vực ưu đãi đầu tư và được hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Bộ Tài chính nghiên cứu trình Chính phủ để trình Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội cho phép áp dụng cơ chế đối với vải và phụ liệu may sản xuất trong nước nếu bán cho các đơn vị sản xuất gia công hàng xuất khẩu tại Việt Nam được hưởng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng như đối với hàng xuất khẩu. * Đối với các doanh nghiệp sản xuất sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt may: + Trong trường hợp cần thiết được Chính phủ bảo lãnh khi mua thiết bị trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc tổ chức tài chính trong và ngoài nước. + Được cấp lại tiền thu sử dụng vốn trong thời gian 5 năm để tái đầu tư. + Được ưu tiên cấp bổ sung một lần đủ 30% vốn lưu động đối với từng doanh nghiệp. Dành toàn bộ phần thu phí hạn ngạch và đấu thầu hạn ngạch dệt may cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức dệt may quốc tế, cho công tác xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may. Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ chính sách hỗ trợ thích hợp hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ. d. Các hoạt động xúc tiến thương mại Các hoạt động xúc tiến khuyếch trương. Thông tin thị trường cũng đã được chú trọng. Hiện nay chúng ta đã có các văn phòng đại diện tại Mỹ, Hồng Kông để xuất khẩu sang thị trường Mỹ tham tán thương mại của Việt Nam ở Mỹ đã cung cấp nhiều thông tin về thị trường này cho các doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu tìm hiểu thị trường mở rộng hoạt động xuất khẩu. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và tổng công ty dệt may Việt Nam (Vinatex) cũng thương xuyên tổ chức hội thảo, giao lưu, học tập, nghiên cứu tìm hiểu sâu về thị trường Mỹ và phong cách, thức làm ăn của công ty Mỹ. Sau khi đạt được thoả thuận Hiệp định thương mại Việt Nam –Hoa Kỳ thị trường Mỹ đã được khai thông rất nhiều nhưng các công ty cần đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa vì không lâu nữa đến 1/1/2005 Việt nam gia nhập WTO khi đó sẽ không còn hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt nam nữa, khi đó các doanh nghiệp phải cạnh tranh khốc liệt để giữ thị trường. 2. Những khó khăn Trình độ và quy mô ngành dệt Việt Nam còn rất nhỏ so với các nước trong khu vực. Hiện tại ngành dệt chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành may, do đó tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may xuất khẩu của Việt Nam còn rất thấp. Sản xuất bông trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu nguyên liệu như vậy các doanh nghiệp ngành dệt phải tiếp tục nhập từ nước ngoài mỗi năm khoảng từ 13000 - 14000 tấn bông và xơ/năm, sợi hiện đang nhập khẩu 100%. Khó khăn lớn với người trồng bông là trang thiết bị hạn chế, kỹ thuật chưa được chuyên sâu nên sản lượng thấp dẫn tới giá bông trong nước cao hơn 1/3 so với giá nhập khẩu từ nước ngoài về. Nói chung đối với dệt may các doanh nghiệp chưa được đầu tư đúng mức vào các khâu hoạt động của doanh nghiệp như: thiết kế mẫu mã, nhãn hiệu, thương hiệu, phương thức bán hàng. Nội lực của doanh nghiệp chưa đủ để cạnh tranh với các thương hiệu nước ngoài. Trong hơn 1000 doanh nghiệp chỉ có khoảng hơn 10% là có đủ tiềm lực để cạnh tranh ra thị trường nước ngoài, đặc biệt đối với thị trường còn ít hơn. Dệt may tuy đã là một ngành mũi nhọn xuất khẩu của nước ta nhưng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường khổng lồ Mỹ còn rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam. Trong khi thị trường Mỹ yêu cầu rất cao về mọi mặt thì các doanh nghiệp Việt Nam lại có trình độ công nghệ thấp, năng suất lao động thấp, mẫu mã hàng hoá nghèo nàn, giá cả hàng hoá cao hơn so với các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Thái LanNăng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam chỉ bằng 2/3 so với các nước trong khu vực. Hơn nữa, kỹ năng lao động của công nhân trong các công ty quốc doanh và ngoài quốc doanh cũng có những chênh lệch. Sản phẩm dệt may của Việt Nam chủ yếu ở dạng gia công, giá trị gia tăng khoảng từ 15 -20%. Do đó kim ngạch xuất khẩu tuy lớn nhưng thực tế thu được ngoại tệ thì nhỏ. Thị trường Mỹ thường ưa nhập khẩu hàng dệt may theo hình thức FOB. Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam lại thiên về phương thức gia công, nên khả năng thâm nhập thị trường Mỹ còn khó khăn. Bên cạnh đó việc thực hiện hợp đồng gia công lại không ổn định phụ thuộc vào giá nhân công tình hình cung cấp nguyên liệu phụ. Năng lực thiết kế thời trang trong nước còn quá yếu và chưa được chú trọng, còn nặng tư tưởng may gia công để tìm lợi nhuận. Chất lượng dịch vụ của ngành dệt may như hệ thống thông tin, giao dịch, chăm sóc khách hàng chưa được hoàn thiện. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung rất thiếu thông tin về thị trường Mỹ, chưa hiểu biết rõ về môi trường kinh doanh, hệ thống pháp luật của Mỹ, đặc biệt là thiếu kinh nghiệm kinh doanh trong môi trường quốc tế do đó thường bị ép giá, giao hàng không đúng thời hạn đó là một điều nhà nhập khẩu Mỹ không bao giờ chấp nhận. Chương III: giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ đến 2010 Nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với doanh nghiệp, đòi hỏi cả hai phía cùng phải nỗ lực. I. Phương hướng phát triển ngành dệt may việt nam Ngành dệt may Việt Nam hiện được đánh giá là ngành có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu do đầu tư thấp, giá nhân công rẻ và đang có thị trường để phát triển. Mặt khác ngành dệt may cũng là

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2410.doc
Tài liệu liên quan