MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 5
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU LẠC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 7
I: Xuất khẩu 7
1. Khái niệm và các hình thức xuất khẩu 7
1.2 Các hình thức xuất khẩu 7
1.2.1 Xuất khẩu trực tiếp 7
1.2.2 Xuất khẩu gián tiếp 8
2. Quy trình chung của hoạt động xuất khẩu 9
2.1 Giai đoạn nghiên cứu thị trường và lựa chọn đối tác 9
2.2 Giai đoạn đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu 10
2.3 Giai đoạn tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu 11
3. Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp 15
II. Vai trò xuất khẩu lạc đối với nền kinh tế Việt Nam 16
1. Tiềm năng và ưu thế của trồng và sản xuất lạc tại Việt Nam 16
2. Vai trò của xuất khẩu lạc đối với nền kinh tế Việt Nam 18
III. Những quy định, cam kết, ràng buộc liên quan tới xuất khẩu nông sản của WTO. 19
IV. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO 32
CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LẠC NHÂN CỦA CÔNG TY VILEXIM 38
I. Giới thiệu khái quát về Công ty cổ phần XNK và hợp tác đầu tư VILEXIM 38
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty VILEXIM 38
2.Chức năng và cơ cấu tổ chức quản lý của công ty 39
2.1 Chức năng của công ty 39
2.2 Cơ cấu tổ chức quản lí của công ty 40
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lạc nhân tại công ty 44
1. Năng lực xuất khẩu 44
2. Ảnh hưởng thị trường trong và ngoài nước 46
3. Đối thủ cạnh tranh trong nước 46
III. Tình hình hoạt động của xuất khẩu lạc nhân tại Công ty VILEXIM 47
1. Thực trạng xuất khẩu lạc nhân tại công ty VILEXIM 47
2. Đánh giá tình hình xuất khẩu lạc nhân tại Công ty VILEXIM 54
2.1 Thành công trong hoạt động xuất khẩu lạc nhân của VILEXIM 55
2.2 Nguyên nhân của thành công 55
2.3 Hạn chế của xuất khẩu lạc nhân tại công ty VILEXIM 56
2.4 Nguyên nhân của các hạn chế 56
CHƯƠNG III: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA XUẤT KHẨU LẠC NHÂN TẠI CÔNG TY VILEXIM KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO 58
I. Phương hướng và mục tiêu xuất khẩu lạc nhân của Công ty trong thời gian tới 58
II. Những cơ hội và thách thức cho hoạt động xuất khẩu lạc nhân của Công ty VILEXIM khi Việt Nam gia nhập WTO 59
1. Cơ hội 59
2. Thách thức 60
III. Giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy xuất khẩu lạc nhân của công ty VILEXIM khi Việt Nam gia nhập WTO 61
1. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp 61
1.1 Các giải pháp về thị trường 61
1.2 Các giải pháp về thu mua 63
2. Các kiến nghị đối với nhà nước nhằm đầy mạnh hoạt động xuất khẩu lạc nhân 64
KẾT LUẬN 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
NHẬN XÉT CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP 69
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 70
70 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2745 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xuất khẩu lạc nhân của Công ty VILEXIM - Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế và cấm xuất khẩu
1. Khi một Thành viên đưa và áp dụng bất kỳ một biện pháp hạn chế và cấm xuất khẩu thực phẩm phù hợp với khoản 2(a), Điều XI của GATT 1994, Thành viên đó phải tuân thủ các quy định sau đây:
(a) Thành viên áp dụng cấm hoặc hạn chế xuất khẩu cần phải quan tâm đầy đủ đến tác động của các biện pháp cấm hoặc hạn chế đó đến an ninh lương thực của các Thành viên nhập khẩu.
(b) Trước khi một Thành viên áp dụng một biện pháp cấm hoặc hạn chế xuất khẩu, phải có thông báo trước càng sớm càng tốt bằng văn bản cho Uỷ ban Nông nghiệp về bản chất và khoảng thời gian áp dụng biện pháp đó, và tham vấn, khi được đề nghị, với bất kỳ một Thành viên nào có lợi ích đáng kể với tư cách là nước nhập khẩu về bất kỳ vấn đề nào liên quan tới các biện pháp đó. Ngay khi yêu cầu, Thành viên áp dụng biện pháp cấm hoặc hạn chế xuất khẩu sẽ cung cấp, cho Thành viên nhập khẩu đó các thông tin cần thiết.
2. Các quy định tại Điều này không áp dụng đối với các Thành viên đang phát triển, trừ khi biện pháp đó do một Thành viên đang phát triển là nước xuất khẩu lương thực, thực phẩm chủ yếu có liên quan.
Hiệp định về nông nghiệp quy định rằng các thành viên của WTO phải giảm dần lượng hàng hoá xuất khẩu được trợ cấp. Tuy vậy, một số nước nhập khẩu vẫn đang bị lệ thuộc vào lương thực nhập khẩu giá rẻ và được trợ cấp của các nước công nghiệp chủ chốt. Trong số đó có một vài nước thuộc nhóm nghèo nhất thế giới. Tuy giá cả tăng, nhờ cắt giảm trợ cấp xuất khẩu, có thể có tác động tốt tới ngành sản xuất nông nghiệp của họ nhưng các nước này có thể vẫn cần được giúp đỡ tạm thời để có thể tiến hành những điều chỉnh cần thiết giúp họ thanh toán hàng hoá nhập khẩu đắt đỏ và nếu được thì tiến tới xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của mình.
+ Các mục tiêu cụ thể đối với nông nghiệp :
Tại vòng đàm phán Uruguay, các nước đã thoả thuận được về mức độ giảm trợ cấp và bảo hộ đối với sản phẩm nông nghiệp như sau (Hiệp định về nông nghiệp chỉ nêu các con số cụ thể về giảm trợ cấp xuất khẩu):
Bảng số 3 : Mức độ giảm trợ cấp và bảo hộ đối với sản phẩm nông nghiệp của
WTO
Danh mục phải cắt giảm
Các nước phát triển 6 năm (1995-2000)
Các nước đang phát triển 10 năm (1995-2004)
Thuế quan
Mức giảm trung bình đối với tất cả các sản phẩm nông nghiệp
-36%
-24%
Mức giảm tối thiểu đối với mỗi sản phẩm
-15%
-10%
Hỗ trợ trong nước
Giảm tổng mức hỗ trợ đối với toàn bộ lĩnh vực (giai đoạn được tính làm cơ sở: 1986-1990)
-20%
-13%
Xuất khẩu
Giá trị trợ cấp
-36%
-24%
Khối lượng được trợ cấp (giai đoạn được tính làm cơ sở: 1986-1990)
-21%
-14%
Nguồn: Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế
Nước ta đang trong quá trình đàm phán nước rút để gia nhập WTO. Qua 9 phiên đàm phán, bên cạnh các phiên đa phương, nước ta đã kết thúc đàm phán song phương với 6 đối tác quan trọng. Đây là bước tiến lớn của ta. Như chúng ta đã biết, đàm phán thương mại hàng nông sản trong WTO là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm. Chúng ta đàm phán vừa phải dựa theo các quy tắc hiện hành của WTO vừa phải theo xu thế của vòng đàm phán mới (vòng Doha) mà nông nghiệp là một nội dung đàm phán rất khó khăn và phức tạp. Theo Hiệp định Nông nghiệp, mỗi nước gia nhập đều phải đàm phán theo cả ba nội dung: Mở cửa thị trường (cam kết thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế); hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu.
Về các chính sách hỗ trợ trong nước, do trình độ phát triển kinh tế của nước ta thấp, khả năng tài chính hạn hẹp nên đa số chính sách hỗ trợ trong nước của Chính phủ cho nông nghiệp nằm trong nhóm chính sách “Hộp xanh” và “Chương trình phát triển” không phải cam kết cắt giảm. Các chính sách thuộc nhóm “hộp đỏ” của nước ta còn nằm dưới mức tối thiểu cho phép, nên cũng không phải cam kết cắt giảm. Như vậy, không cần thiết phải thay đổi nhiều, thậm chí còn có thể tăng hỗ trợ cho nông nghiệp thông qua nhóm chính sách này trong tương lai khi nước ta gia nhập WTO. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thay đổi quy trình xây dựng các chính sách này để tăng thêm tính minh bạch và công bằng cho mọi đối tượng được hưởng lợi, nhất là cho người nông dân trực tiếp sản xuất và nông dân ở các vùng khó khăn.
Về trợ cấp xuất khẩu, do khủng hoảng tài chính tại các nước châu Á (Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc…) và Nga từ những năm 1998 - 1999, nước ta đã có một số hình thức trợ cấp để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo đầu ra cho nông sản. Tuy mức độ trợ cấp xuất khẩu của nước ta rất nhỏ, không có tác động xấu đến thương mại quốc tế, nhưng do đây là vấn đề có sự đấu tranh quyết liệt giữa các nước đang phát triển đòi các nước phát triển xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu nên hầu hết các nước yêu cầu Việt Nam cam kết không trợ cấp xuất khẩu nông sản ngay khi gia nhập WTO. Tại Phiên 9, ta đã tuyên bố bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản và thực hiện đầy đủ hiệp định SPS ngay khi gia nhập. Cam kết này được các nước đánh giá cao và tháo gỡ rất nhiều khó khăn cho quá trình đàm phán.
Đàm phán mở cửa thị trường bao gồm cam kết thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế. Hiện nay, do công nghiệp chế biến chậm phát triển, tỷ lệ nông sản qua chế biến của nhiều ngành còn thấp nên chính sách thuế của nước ta đang được xây dựng theo tinh thần bảo hộ cao cho nông sản chế biến, bảo hộ thấp cho nông sản thô, nhất là những mặt hàng xuất khẩu hoặc là nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế biến. Thực hiện Quyết định 46 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá giai đoạn 2001 - 2005, hàng rào phi thuế đối với hàng nông sản đã có sự chuyển đổi theo hướng phù hợp hơn với WTO: Giảm tối đa giấy phép nhập khẩu; áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với một số mặt hàng. Nhìn chung trong quá trình đàm phán, những mặt hàng nông sản chế biến có thuế suất cao đang bị các nước yêu cầu giảm nhiều hơn so với các mặt hàng khác.
Trong quá trình đàm phán, đều có sự chỉ đạo sát sao của Đảng và Chính phủ trên tinh thần cân đối chung tổng thể cả nước, có cân nhắn đến khả năng cạnh tranh và yếu tố xã hội của các ngành, nhất là nông nghiệp. Chiến lược phát triển của Ngành nông nghiệp trong 10 năm tới là hướng mạnh ra xuất khẩu. Tuy còn nhiều khó khăn do trình độ phát triển của ngành nông nghiệp còn thấp, nhưng việc gia nhập WTO sẽ là cơ hội tốt để thực hiện mục tiêu kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản đạt 7 tỷ USD vào năm 2010.
IV. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO
Cho dù có đến gần 30.000 trang văn bản, bao gồm rất nhiều văn bản pháp lý quy định nhiều lĩnh vực kinh tế - thương mại khác nhau như: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, viễn thông, các biện pháp kiểm dịch động - thực vật, sở hữu trí tuệ... song thực chất, tất cả các văn bản đó đều được xây dựng và chuyển tải các nguyên tắc cơ bản của WTO, hay nói cách khác, WTO hoạt động dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới là:
1) Thương mại không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia);
2) Thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán);
3) Dễ dự đoán (tức có thể dự đoán trước được) nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch;
4) Tạo ra (nhằm thúc đẩy) môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn;
5) Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế (bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển nhất).
1). Thương mại không phân biệt đối xử:
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):
"Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước (được) ưu đãi nhất", "nước (được) ưu tiên nhất".
Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc WTO quy định rằng, các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: mỗi thành viên của WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được "ưu tiên nhất". Và như vậy, kết quả là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác thương mại nào.
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT):
"Ðối xử quốc gia" nghĩa là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa.
Nội dung của nguyên tắc này là hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc nêu trên như sau: Nếu nguyên tắc "tối huệ quốc" nhằm mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhà xuất khẩu hàng hoá, cung cấp dịch vụ... của các nước A, B, C...khi xuất khẩu vào một nước X nào đó thì nguyên tắc "đãi ngộ quốc gia" nhằm tới mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước X trên thị trường nước X, sau khi hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A đã thâm nhập (qua hải quan, đã trả thuế và các chi phí khác tại cửa khẩu) vào thị trường nước X.
2). Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm phán):
Ðể thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế, hạn ngạch, giấy phép...). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO đã cho thấy đó chính là lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan, rồi bao trùm cả đàm phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, rồi dần dần mở rộng sang đàm phán cả những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền kinh tế trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị trường là khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị trường không chỉ có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước. Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với quy định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.
3). Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch:
Ðây là nguyên tắc quan trọng của WTO. Mục tiêu của nguyên tắc này là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của họ. Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Ðây là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên của WTO tạo ra một môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán.
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm các công việc như sau:
Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan:
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một bản danh mục thuế quan. Ðây gọi là các mức thuế suất ràng buộc. Nói cách khác, ràng buộc là việc đưa ra danh mục ấn định các mức thuế ở mức tối đa nào đó và không được phép tăng hay thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài. Một nước có thể sửa đổi, thay đổi mức thuế đã cam kết, ràng buộc chỉ sau khi đã đàm phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do việc tăng thuế đó gây ra.
Về các biện pháp phi thuế quan:
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự do thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này sẽ bị buộc phải loại bỏ hoặc chấm dứt.
Ðể có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu cầu chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai ("minh bạch") các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình. Ðồng thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên thông qua Cơ chế rà soát chính sách thương mại.
4). Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn:
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp...hoặc các biện pháp bảo hộ khác.
Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là cạnh tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó được phép hay không được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán phá giá...
5). Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển nhất:
Các nước thành viên, trong đó có các nước đang phát triển, thừa nhận rằng tự do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa biên trong khuôn khổ của WTO đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Song các thành viên cũng thừa nhận rằng, các nước đang phát triển phải thi hành những nghĩa vụ của các nước phát triển. Nói cách khác, "sân chơi" chỉ là một, "luật chơi" chỉ là một, song trình độ "cầu thủ" thì không hề ngang nhau. Trong khi đó, hiện số thành viên của WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế chiếm hơn 3/ 4 số nước thành viên của WTO. Do đó, WTO đã đưa ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi bằng cách dành cho những nước này những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của các nước này vào hệ thống thương mại đa biên.
Ðể thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong việc thực hiện các hiệp định của WTO. Chẳng hạn, WTO cho phép các nước này một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng như một số nghĩa vụ hoặc cho phép các nước này một thời gian linh động hơn trong việc thực hiện các hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian quá độ thực hiện dài hơn để các nước này điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra, WTO cũng quyết định các nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật ngày một nhiều hơn.
CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LẠC NHÂN CỦA CÔNG TY VILEXIM
I. Giới thiệu khái quát về Công ty cổ phần XNK và hợp tác đầu tư VILEXIM
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty VILEXIM
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM tiền thân là Công ty xuất nhập khẩu với Lào (trước đây thuộc tổng công ty xuất nhập khẩu biên giới) được thành lập căn cứ quyết định số 82/VNT-TCCB ngày 24/2/1987 của Bộ Ngoại Thương (nay là Bộ Thương Mại). Công ty được Bộ giao cho tiến hành các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu với CHDCND Lào. Nhưng từ năm 1993 đến nay theo xu thế khách quan của kinh tế thị trường và sự đổi mới của đất nước công ty không chỉ thực hiện kinh doanh với Lào mà đã mở rộng thị trường với nhiều nước như: Ðài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều tổ chức kinh tế. Công ty thông qua hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu để đẩy mạnh quan hệ thương mại và các hoạt động khác có liên quan.
Tháng 10-2003 Công ty xuất nhập khẩu với Lào đã đổi tên thành Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM.
Do tính tất yếu khách quan của việc Cổ phần hoá doanh nghiệp nên ngày 23-8-2004 thực hiện quyết định số 1188/QÐ-BTM của Bộ trưởng Bộ Thương Mại, Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM chính thức đổi tên thành Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM từ ngày 07-01-2005.
Hiện nay công ty có tên giao dịch tiếng Việt là: Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư VILEXIM
Tên giao dịch tiếng Anh: VILEXIM Import Export and Co-operation Investment Joint Stock Company.
Tên viết tắt là: VILEXIM.
Công ty có trụ sở chính tại địa chỉ: 170 Ðường Giải Phóng, Thanh Xuân, Hà Nội.
Các chi nhánh và văn phòng đại diện của công ty:
-Chi nhánh tại TPHCM: VILEXIM HCM
Ðịa chỉ: 36/22 Ðường D2-Phường 25 Q.Bình Thạnh-Tp Hồ Chí Minh
-Chi nhánh tại Hải Phòng: VILEXIM Hải Phòng
Ðịa chỉ: 138 Lê Lai-Q. Ngô Quyền-TP Hải Phòng
-Chi nhánh tại Hà Tây:
Ðịa chỉ: 570 Quang Trung-Thị xã Hà Ðông-Hà Tây
-Trung tâm XK lao động
Ðịa chỉ: 139 Lò Ðúc-Hai bà Trưng-Hà Nội
-Văn phòng đại diện là Công ty liên doanh thép VILASTEEL tại Viên Chăn nước CHDCND Lào.
Ðịa chỉ: Bản Thongpong-Vientiane-Lao
2.Chức năng và cơ cấu tổ chức quản lý của công ty
2.1 Chức năng của công ty
Công ty Cổ phần và hợp tác đầu tư VILEXIM có các chức năng cụ thể sau
* Trực tiếp xuất nhập khẩu theo giấy phép của bộ thương mại với CHDCND Lào, các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
* Kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá trực tiếp, xuất nhập khẩu uỷ thác các mặt hàng nông lâm sản, hoá chất (trừ những loại hoá chất Nhà nước cấm), dược liệu, bông vải sợi, điện máy, vật liệu xây dựng, thủ công mỹ nghệ, thiết bị dùng cho giáo dục.
* Xuất khẩu lao động đi nước ngoài, đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng và nghề nghiệp cho lao động di làm việc ở nước ngoài.
* Ðại lý tiêu thụ hàng hoá.
* Kinh doanh hàng ăn uống.
* Kinh doanh vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất cho các ngành công, nông, lâm, ngư nghiệp; Kinh doanh thuỷ hải sản, lương thực thực phẩm, phương tiện vận tải, vận tải quá cảnh, dịch vụ và hàng tiêu dùng;
* Lắp ráp, bảo hành, sửa chữa xe máy;
* Cho thuê văn phòng, nhà xưởng, kho bãi
2.2 Cơ cấu tổ chức quản lí của công ty
TỔ CHỨC BỘ MÁY
- Đại hội đồng cổ đông
- Hội đồng Quản trị: Chủ tịch Hội đồng Quản trị và 4 thành viên
- Ban Giám đốc: Giám đốc Điều hành và các Phó Giám đốc
- Các đơn vị trực thuộc: Các Phòng, Ban, Chi nhánh, Đại diện…
Phòng Tổng hợp & Marketing
Phòng Tổ chức Hành chính
Phòng Tài chính Kế toán
Phòng Xuất – Nhập khẩu 1, 2, 3, 4,5…
Trung tâm Xuất khẩu lao động 139 Lò Đúc
Chi nhánh Công ty XNK và Hợp tác Đầu tư VILEXIM tại Hải Phòng
Chi nhánh Công ty XNK và Hợp tác Đầu tư VILEXIM tại TP. Hồ Chí Minh
Chi nhánh Công ty XNK và Hợp tác Đầu tư VILEXIM tại Hà Tây
Đại diện Công ty tại Viêng Chăn – Lào
Các kho hàng hoá thuộc Phòng Tổ chức Hành chính:
Phòng Kiến thiết Xây dựng đề án Phát triển Doanh nghiệp
Lãnh đạo các đơn vị Phòng có: 01 Trưởng phòng; 01 Phó phòng
Chi nhánh có: 01 Giám đốc; 01 Phó Giám đốc
Văn phòng Đại diện có: Trưởng Đại diện
Các đơn vị thuộc phòng như Ban, Đội, Kho hàng có: Trưởng, Phó
CNVC trong mỗi đơn vị được biên chế từ 05 – 20 người
Ban lãnh đạo là bộ phận đứng đầu công ty. Trong đó ban Giám Ðốc do Bộ trưởng Bộ Thương Mại bổ nhiệm trực tiếp điều hành công ty theo chế độ một thủ trưởng toàn quyền quyết định mọi hoạt động kinh doanh sao cho có hiệu quả và chịu trách nhiệm về mọi mặt trước Bộ trưởng Bộ Thương mại và tập thể cán bộ công nhân viên của công ty về các quyết định của mình.
Giúp việc cho giám đốc có hai phó giám đốc. Các phó giám đốc do giám đốc đề nghị và được Bộ trưởng Bộ thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Phó giám đốc công ty được phân một hoặc một số lĩnh vực và chịu trách nhiệm với giám đốc những lĩnh vực mà mình đảm nhiệm. Trong phó giám đốc có một phó giám đốc thứ nhất thay mặt giám đốc điều hành công ty khi giám đốc vắng mặt. Dưói giám đốc và phó giám đốc là các phòng ban chức năng , các chi nhánh, các phòng ban đại diện.
Cụ thể chức năng của các phòng ban như sau:
+ Phòng tổ chức hành chính
Phòng tổ chức hành chính có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc về tổ chức bộ máy hành chính, bộ máy quản lý công ty trong từng thời kì, đánh giá chất lượng cán bộ, chỉ đạo xây dựng và xét duyệt định mức lao động tiền lương cho các thành viên.
Tổ chức quản lý thực hiện các công tác hành chính, quản trị nhằm phục vụ và duy trì các hoạt động cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Thực hiện chế độ chích sách đối với nhân viên, tổ chức công tác hành chính văn thư lưu trữ, các công tác quản trị công ty.
+ Phòng kế toán tài vụ:
Phòng kế toán tài vụ có nhiệm vụ làm các công việc theo dõi nghiệp vụ liên quan đến công tác hạch toán kế toán, làm công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các chế độ quản lý kinh tế; lập báo cáo quyết toán phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh theo định kì. Phòng kế toán tài vụ chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động tài chính của công ty; trong đó kế toán trưởng có nhiệm vụ chỉ đạo nhân viên trong phòng kế toán hạch toán theo đúng theo đúng chế độ nhà nước qui định
+ Phòng kế toán tổng hợp:
Phòng kế toán tổng hợp có nhiệm vụ lập ra kế họach kinh doanh chung cho toàn bộ công ty và phân bố kế hoạch kinh doanh cho từng phòng kinh doanh cụ thể. Phòng có trách nhiệm báo cáo lên ban lãnh đạo tình hình hoạt động và kinh doanh của công ty từng tháng, từng quí đồng thời đưa ra các biện pháp tháo gỡ những khó khăn trong công ty.
+ Phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu I:
Phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu I được công ty giao nhiệm vụ thực hiện các nghiệp vu kinh doanh xuất nhập khẩu chủ yếu với thị trường Lào và có thể kinh doanh xuất nhập khẩu với một số thị trường khác.
+ Phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu III:
Phòng nghiệp vụ xuất khẩu III có nhiệm vụ chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu với thị trường Trung Quốc. Ngoài ra phòng còn được uỷ thác xuất nhập khẩu một số mặt hàng khác của công ty.
+ Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu II, IV và phòng dịch vụ xuất nhập khẩu:
Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu II, IV là các phòng kinh doanh đa ngành có nhiệm vụ tự tìm khách hàng và thị trường cho mình, các phòng này phảI lập phương án kinh doanh trình lên giám đốc. Giám đốc sẽ duyệt những phương án khả thi và đứng ra làm đại diện để kí kết hợp đồng với khách hàng. Các nghiệp vụ cụ thể và giao dịch với khách hàng do các phòng chịu trách nhiệm; vốn để kinh doanh công ty sẽ phân bổ cho từng phòng theo từng hợp đồng.
+ Chi nhánh phòng đại diện:
Chi nhánh phòng đại diện hoạt động theo phương thức khoán. Trưởng chi nhánh, văn phòng đại diện có quyền quyết định và quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của từng chi nhánh đồng thời chịu trách nhiệm trước Giám đốc, pháp luật, tập thể cán bộ công nhân viên chi nhánh.
Dưới đây là sơ đồ tổ chức bộ máy Công ty cổ phần và hợp tác đầu tư VILEXIM.
Phó Giám đốc chi nhánh
Phó Giám Ðốc kinh doanh
Giám Ðốc
Phòng XNK I
Phòng XNK II
Phòng XNK III
Phòng XNK IV
Phòng dịch vụ
XNK
Đại hội đồng cổ đông
Ban kiểm soát
Hội đồng quản trị
Phòng XNK
Phòng TCKT
Phòng TH &Marketing
Phòng KT & XD
Phòng tổ chức hành chính
Chi nhánh TP. HCM
Chi nhánh Hải Phòng
Chi nhánh Hà Tây
Đại diện Lào
Trung tâm XK lao động
Kho Cổ Loa
Kho Tứ Kỳ
Đội xe
Sơ đồ1: Sơ đồ tổ chức bộ máy công ty VILEXIM
Nguồn: www.VILEXIM.com.vn
Qua sơ đồ ta nhân thấy:
Mũi tên chỉ mối tương quan một chiều, ví dụ như: Giám đốc ra mệnh lệnh cho các phòng ban trong công ty.
Mũi tên chỉ sự tương quan hai chiều, ví dụ: Đại hội đồng cổ đông bầu ra ban kiểm soát nhưng ban kiểm soát được bầu ra để kiểm soát hoạt động của đại hội đồng cổ đông.
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lạc nhân tại công ty
1. Năng lực xuất khẩu
Với bề dày gần 40 năm hoạt động VILEXIM đã trở thành một công ty xuất nhập khẩu có uy tín của Việt Nam với tiềm lực tài chính hùng mạnh đủ sức để có thể thực hiện các hợp đồng lớn đối với đối tác nước ngoài. Điều này có thể minh chứng bằng số vốn liên tục tăng của công ty từ ngày mới thành lập công ty chỉ có số vốn ít ỏi là 2 tỷ đồng vốn cố định và 3 tỷ đồng vốn lưu động đến hết năm 2005 số vốn của công ty đã tăng lên khoảng 18 tỷ đồng vốn cố định và 14 tỷ đồng vốn lưu động
Bảng số 4: Nguồn vốn kinh doanh của VILEXIM từ 1987-2005
Năm
Vốn cố định( tỷ đồng)
Vốn lưu động(tỷ đồng)
1987
2
3
1990
4,5
4,3
1995
9,8
8
1997
12
10,5
2000
14,6
11,9
2002
16,7
13,4
2005
18
14
Nguồn: Báo cáo tài chính hàng năm của VILEXIM
Qua bảng số liệu ta thấy sự vươn lên rất nhanh chóng của công ty, chứng tỏ công ty ngày càng làm ăn có lãi và bổ sung ngày càng nhiều vốn cố định cũng như vốn lưu động cho từng năm. Ngoài vốn kin
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 0 1.doc