Chế biến thuỷ sản được hiểu là chế biến tất cả các loài thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn thu hoạch từ hoạt động khai thác thuỷ sản và nuôi trồng thuỷ sản. Chế biến thuỷ sản được phân thành hai nhóm sau:
• Chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa
Là hoạt động chế biến thuỷ sản nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước. Những năm trước đây, do phải nhập dây chuyền đồng bộ từ nước ngoài nên chi phí cho hoạt động chế biến nội địa tương đối cao, giá thành sản phẩm không phù hợp với sức mua của người dân trong nước. Gần đây, ngành thuỷ sản đã chủ động phát triển công nghiệp cơ điện lạnh phục vụ thiết bị cho chế biến thuỷ sản nội địa nên tình trạng này đã được khắc phục. Mặt khác, do mức thu nhập tăng nên nhu cầu tiêu thụ cũng tăng theo, nhiều sản phẩm thuỷ sản chế biến đã không còn phân biệt ranh giới giữa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
• Chế biến sản phẩm xuất khẩu
Là hoạt động chế biến thuỷ sản nhằm mục tiêu xuất khẩu thu ngoại tệ.
Trước những nguy cơ và thách thức mới, các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long đã không ngừng đổi mới phương thức quản lý và tác phong làm việc; tích cực đầu tư máy móc và trang thiết bị hiện đại để tiến hành qui trình tự động hoá sản xuất.
Áp dụng các công nghệ tiên tiến trên thế giới như công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ surimi, công nghệ ngủ đông trong vận chuyển thuỷ sản tươi sống, công nghệ đông rời IQF Tập trung chế biến các mặt hàng giá trị gia tăng như mặt hàng phi lê đông lạnh, mặt hàng surimi, sản phẩm sẵn sàng để nấu hoặc sản phẩm ăn liền, nhờ đó tỷ trọng các mặt hàng này trong tổng sản phẩm chế biến xuất khẩu đã tăng lên.
Đoàn thanh tra Liên minh châu Âu (EU) đã có những nhận xét tốt về việc kiểm soát an toàn vệ sinh tại các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu vào EU của Việt Nam, cũng như việc sửa chữa, khắc phục lỗi của cơ sở chế biến đối với các khuyến cáo mà EU đưa ra.
31 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2304 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xuất khẩu thủy sản Việt Nam – Thách thức và Cơ hội sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sâu vùng xa.
d) Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền kinh tế biển. Nếu như trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng của biển để mở rộng đất đai canh tác là định hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thì hiện nay việc tiến ra biển, kéo biển lại gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một nền kinh tế công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trong những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ điện đã được xây dựng, khiến nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào vùng cửa sông, ven biển. Đối với nền canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm hoạ, nhưng với nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một tiềm năng mới, vì hoạt động nuôi trồng thuỷ sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng chục lần hoạt động canh tác lúa nước.
Có thể nói nuôi trồng thủy sản đã phát triển với tốc độ nhanh, thu được hiệu quả kinh tế - xã hội đáng kể, từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nông dân.
Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng trũng phát triển mạnh mẽ. Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một trong những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu nhập cho người lao động và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
e) Tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả sử dụng đất đai
Ao hồ nhỏ là một thế mạnh của nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nông thôn Việt Nam. Người nông dân sử dụng ao hồ nhỏ như một cách tận dụng đất đai và lao động. Hầu như họ không phải chi phí nhiều tiền vốn vì phần lớn là nuôi quảng canh. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người nông dân tận dụng các mặt nước ao hồ nhỏ trong nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt với các hệ thống nuôi bán thâm canh và thâm canh có chọn lọc đối tượng cho năng suất cao như mè, trắm, các loại cá chép, trôi Ấn Độ và các loài cá rô phi đơn tính.
f) Nguồn xuất khẩu quan trọng
Trong nhiều năm liền, Ngành Thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong bảng danh sách các ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước. Ngành Thuỷ sản còn là một trong 10 ngành có kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt gần 2,7 tỷ USD.
g) Đảm bảo chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa, nhất là ở vùng biển và hải đảo
Ngành Thuỷ sản luôn giữ vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh, chủ quyền trên biển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế các vùng ven biển, hải đảo, góp phần thực hiện chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Hệ thống cảng cá tuyến đảo này sẽ được hoàn thiện đồng bộ để phục vụ sản xuất nghề cá và góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển của tổ quốc.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT – CHẾ BIẾN – XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
1. Thực trạng khai thác, sản xuất – chế biến – xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam:
1.1. Tình hình khai thác, sản xuất:
Theo số liệu thống kê của FAO năm 2004, Việt Nam đứng thứ 11 trên thế giới về sản lượng khai thác thuỷ sản.
1.1.1. Khai thác hải sản:
Khai thác hải sản luôn giữ vai trò quan trọng trong ngành thủy sản, góp phần bảo vệ an ninh, chủ quyền vùng biển.
Năng lực khai thác hải sản:
Tàu thuyền đánh cá:
Tàu thuyền khai thác phần lớn là loại vỏ gỗ. Các loại tàu vỏ thép, xi măng lưới thép, composite chiếm tỷ lệ không đáng kể. Những năm gần đây, số lượng tàu thuyền máy tăng nhanh, trong khi đó, thuyền thủ công giảm dần. Năm 2001, tổng số thuyền máy là 74.495 chiếc và thuyền thủ công là 13.267 chiếc, chiếm tỷ lệ tương ứng là 85% và 15% tổng số tàu thuyền khai thác hải sản. Tổng công suất tàu thuyền máy đã đạt tới 3.497.457 CV (năm 2001), lớn gấp 4,3 lần so với năm 1991, công suất bình quân đạt gần 45CV/chiếc, tăng 2,5 lần so với 1991. Năm 2004, theo báo cáo từ các địa phương, tổng số tàu thuyền máy đã tăng lên đến 85.430 chiếc với tổng công suất 4.721.700 CV, công suất bình quân đạt hơn 55 CV/tàu. Công suất trung bình các đội tàu ở phía Nam đạt trên 90 CV/tàu và các vùng còn lại là 30 CV/tàu. Đáng chú ý là, số lượng tàu quốc doanh đã giảm còn 44 tàu vào năm 2002.
Trong giai đoạn 1991 - 2004, số lượng tàu thuyền máy tăng bình quân hằng năm 5,6%, nhưng mức tăng này có xu hướng chậm dần. Trong khi đó, mức tăng tổng công suất trung bình hằng năm là 15,8 %, chiều hướng này cũng đang giảm dần. Sự chênh lệch mức tăng giữa số lượng tàu và tổng công suất trong giai đoạn này cho thấy, trong số tàu tăng hằng năm, số tàu công suất lớn chiếm một tỷ lệ đáng kể. Đây là xu thế tích cực khi người dân chú trọng đóng tàu vươn khơi xa, giảm dần áp lực khai thác vùng ven bờ. Chủ trương phát triển khai thác xa bờ, ổn định khai thác vùng gần bờ của ngành thủy sản thực hiện trong nhiều năm qua cũng đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ ngư dân tham gia phát triển khai thác xa bờ. Trong những năm gần đây, trước áp lực nguồn lợi ven bờ suy giảm, các cơ quan quản lý ngành thủy sản đã có chủ trương hạn chế đóng mới các loại tàu thuyền dưới 20 CV. Do vậy, số lượng tàu nhỏ khai thác gần bờ đã giảm nhiều. Chủ trương chuyển đổi cơ cấu nghề nghề cá, trong đó có chuyển đổi từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thủy sản gắn với bảo vệ nguồn lợi và môi trường đã được triển khai ở nhiều địa phương và được người dân ủng hộ..
Do đặc điểm tự nhiên và nguồn lợi hải sản ở các vùng biển khác nhau nên cơ cấu nghề nghiệp ở từng địa phương cũng khác nhau:
+ Nghề lưới kéo chiếm tỷ lệ cao nhất ở các tỉnh Nam Bộ (37,5%), trong đó tỷ lệ này ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng là 47%, Kiên Giang chiếm 41,5%, Bà Rịa-Vũng Tàu chiếm 38,5%. Đây là do đặc điểm nguồn lợi ở vùng biển Đông Nam Bộ (cá đáy chiếm 60% khả năng khai thác).
+ Nghề lưới rê ở các tỉnh Bắc Bộ chiếm 26% tổng số đơn vị nghề và ở các tỉnh Bắc Trung Bộ chiếm 29,3% là phù hợp với nguồn lợi ở vịnh Bắc Bộ (cá nổi chiếm 57% khả năng khai thác).
+ Nghề ngư cụ cố định trong đó chủ yếu là nghề đáy, tập trung ở các tỉnh có nhiều cửa sông. Ví dụ : Trà Vinh 55%, Huế 31%, Tiền Giang 16%, thành phố Hồ Chí Minh 13%, Cà Mau 10%.
+ Nghề đáy cao tại một số tỉnh đã có tác động xấu đến bảo vệ nguồn lợi, vì đối tượng đánh bắt chủ yếu là các đàn cá chưa trưởng thành thường vào vùng cửa sông kiếm ăn.
1.1.2. Khai thác thủy sản nội địa
Khai thác ở hồ
Việt Nam có trên 200.000 ha mặt nước hồ, trong đó diện tích hồ tự nhiên trên 20.000 ha, còn lại là hồ chứa. Tổng sản lượng thủy sản khai thác ở hồ hằng năm khoảng 9.000 tấn, trong đó 4.000 tấn khai thác ở hồ tự nhiên và 5.000 tấn khai thác ở các hồ chứa.
Khai thác ở vùng trũng ngập nước
Các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ không có vùng trũng ngập nước lớn. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có nhiều vùng ngập nước theo mùa rất lớn. Ví dụ, vùng đồng Tháp Mười là 140.000 ha và vùng tứ giác Long Xuyên là 218.000 ha. Cá ở hệ thống sông Cửu Long di cư vào vùng trũng ngập nước trong mùa mưa để kiếm ăn. Đến mùa khô lại di chuyển ra sông. Nông dân ở hai vùng trũng ngập nước này hằng năm khai thác được khoảng trên 20.000 tấn.
Khai thác trên sông
Nước ta có hàng ngàn sông, rạch. Trước đây, nguồn lợi cá sông rất phong phú. Vào thập kỷ 70, trên sông Hồng có trên 70 hợp tác xã đánh cá. Sản lượng khai thác hằng năm khoảng hàng ngàn tấn cá. Do khai thác quá mức, nên nguồn cá sông đã cạn kiệt. Ngư dân phải chuyển sang kiếm sống bằng nghề khác. Các sông ngòi ở miền Trung cũng có tình trạng tương tự.
Hiện nay, chỉ còn sông Cửu Long duy trì được nghề khai thác với sản lượng xấp xỉ 30.000 tấn/năm, tạo công ăn việc làm cho 48.000 lao động ở 249 xã ven sông. Hệ thống kênh, rạch chằng chịt ở Nam Bộ cung cấp một lượng cá nước ngọt đáng kể. Sản lượng khai thác thủy sản nội địa năm 2003 và năm 2004 đã đạt khoảng 200.000 tấn, thu hút khoảng 100.000 lao động.
1.2. Tình hình chế biến và bảo quản:
Chế biến thuỷ sản được hiểu là chế biến tất cả các loài thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn thu hoạch từ hoạt động khai thác thuỷ sản và nuôi trồng thuỷ sản. Chế biến thuỷ sản được phân thành hai nhóm sau:
Chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa
Là hoạt động chế biến thuỷ sản nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước. Những năm trước đây, do phải nhập dây chuyền đồng bộ từ nước ngoài nên chi phí cho hoạt động chế biến nội địa tương đối cao, giá thành sản phẩm không phù hợp với sức mua của người dân trong nước. Gần đây, ngành thuỷ sản đã chủ động phát triển công nghiệp cơ điện lạnh phục vụ thiết bị cho chế biến thuỷ sản nội địa nên tình trạng này đã được khắc phục. Mặt khác, do mức thu nhập tăng nên nhu cầu tiêu thụ cũng tăng theo, nhiều sản phẩm thuỷ sản chế biến đã không còn phân biệt ranh giới giữa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Chế biến sản phẩm xuất khẩu
Là hoạt động chế biến thuỷ sản nhằm mục tiêu xuất khẩu thu ngoại tệ.
Trước những nguy cơ và thách thức mới, các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long đã không ngừng đổi mới phương thức quản lý và tác phong làm việc; tích cực đầu tư máy móc và trang thiết bị hiện đại để tiến hành qui trình tự động hoá sản xuất.
Áp dụng các công nghệ tiên tiến trên thế giới như công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ surimi, công nghệ ngủ đông trong vận chuyển thuỷ sản tươi sống, công nghệ đông rời IQF… Tập trung chế biến các mặt hàng giá trị gia tăng như mặt hàng phi lê đông lạnh, mặt hàng surimi, sản phẩm sẵn sàng để nấu hoặc sản phẩm ăn liền, nhờ đó tỷ trọng các mặt hàng này trong tổng sản phẩm chế biến xuất khẩu đã tăng lên.
Đoàn thanh tra Liên minh châu Âu (EU) đã có những nhận xét tốt về việc kiểm soát an toàn vệ sinh tại các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu vào EU của Việt Nam, cũng như việc sửa chữa, khắc phục lỗi của cơ sở chế biến đối với các khuyến cáo mà EU đưa ra.
Chế biến thủy sản là khâu rất quan trọng của chu trình sản xuất, kinh doanh thủy. Những hoạt động trong lĩnh vực chế biến trong 10 năm qua được đánh giá là có hiệu quả, đã góp phần tạo nên sự khởi sắc của ngành thủy sản. Các khía cạnh được đánh giá cụ thể như sau:
Nguồn nguyên liệu và cơ cấu sử dụng nguyên liệu cho chế biến thủy sản
Do tổng sản lượng thuỷ sản tăng mạnh và công nghệ chế biến, thói quen tiêu dùng cũng có nhiều thay đổi nên lượng nguyên liệu được đưa vào chế biến ngày càng nhiều. Năm 2000 lượng nguyên liệu đưa vào chế biến đã chiếm tới 66% tổng sản lượng thuỷ sản của Việt Nam. Đến năm 2004, ước tính lượng nguyên liệu đưa vào chế biến chiếm xấp xỉ 70%.
Chất lượng nguyên liệu
Nguyên liệu hải sản được đánh bắt từ nhiều loại tàu và ngư cụ khác nhau do đó sản phẩm đánh bắt được cũng có những đặc tính khác nhau. Đối với các tàu đi dài ngày, sản phẩm đánh bắt thường được bảo quản bằng đá, cá tạp thì ướp muối, rất ít phương tiện có hầm bảo quản lạnh. Các loại tàu nhỏ thường đi về trong ngày nên nguyên liệu hầu như không qua xử lý bảo quản. Nguyên liệu hải sản thường bị xuống cấp chất lượng do phương tiện và đầu tư cho khâu bảo quản còn quá ít, quá thô sơ. Sau khi hải sản được đánh bắt, thông qua các cảng, bến cá phần lớn chưa được xây dựng hoàn chỉnh do đó về mùa nóng các loại hải sản thường bị xuống cấp nhanh chóng, giá trị thất thoát sau thu hoạch lớn (khoảng 30%).
Nghiên cứu công nghệ sau thu hoạch đã được tiến hành, song tác động của nó vào thực tiễn sản xuất còn ít, một phần do chất lượng thuỷ sản hiện thị trường còn chấp nhận một phần do những lý do kinh tế, tài chính, kỹ thuật mà bản thân ngư dân chưa thể áp dụng những công nghệ bảo quản mới này cho sản phẩm khai thác của mình.
Các loại nguyên liệu từ nuôi trồng nước ngọt, lợ do gần nơi tiêu thụ hoặc là chủ động khai thác nên được đưa trực tiếp ra thị trường hoặc vào thẳng các nhà máy chế biến, hầu như không qua xử lý bảo quản, chúng thường đảm bảo độ tươi, chất lượng tốt.
Các mặt hàng chế biến thủy sản chính
a. Mặt hàng đông lạnh
Đến năm 2000, lượng hàng thuỷ sản đông lạnh vẫn tiếp tục tăng mạnh (chiếm 86% về giá trị các mặt hàng thuỷ sản chế biến của Việt Nam). Trong các sản phẩm thuỷ sản đông lạnh thì tôm đông lạnh chiếm khoảng 23% về khối lượng chế biến. Mực và bạch tuộc đông lạnh có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, trung bình là 38,57%/năm. Năm 2000, lượng mực chế biến đông lạnh xuất khẩu lên tới 38.104 tấn, chiếm 18% khối lượng hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Mực thường được sản xuất dưới dạng đông lạnh nguyên con, đông rời hoặc gần đây là Sashimi, Seafood mix, mực trái thông v.v...
Mặt hàng cá đông lạnh những năm gần đây cũng có tốc độ tăng rất mạnh. Năm 2000 đã đạt 56.052 tấn, chiếm 19% tổng sản lượng thuỷ sản xuất khẩu. Mặt hàng filet đông lạnh phần lớn được chế biến cho xuất khẩu. Đông lạnh nguyên con tăng nhanh do được tiêu thụ cho cả thị trường nội địa, thị trường Trung quốc và một phần xuất khẩu cãc thị trường khác.
Các loại đông lạnh khác: chủ yếu là các loại ghẹ, ốc, cua, sò, điệp, các mặt hàng phối chế (như ghẹ nhồi Kany boy, Kany girl, gạch ghẹ đóng bánh đông lạnh). Các sản phẩm này có tốc độ tăng trưởng rất nhanh cùng với sự tăng trưởng của các mặt hàng có giá trị gia tăng. Năm 2000, sản lượng của các mặt hàng này tăng lên tới 77.212 tấn, đạt 26% tổng sản lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam.
b. Mặt hàng tươi sống
Gần đây cũng đã phát triển, chủ yếu dùng cho xuất khẩu, bao gồm các loại cua, cá, tôm còn sống hoặc loại còn tươi như thịt cá ngừ đại dương.
c. Mặt hàng khô
Dạng sản phẩm này được sản xuất khá phổ biến vì đơn giản về thiết bị, công nghệ, các loại sản phẩm chính là mực khô, cá khô, tôm khô, rong câu khô, các loại khô tẩm gia vị.
Mực khô là mặt hàng có sản lượng tăng giảm không ổn định có thể do sản lượng khai thác không ổn định.
Rong câu khô chủ yếu được sản xuất theo phương pháp thủ công đơn giản, sản phẩm gồm 2 loại rong câu khô ngọt và rong câu khô mặn tùy thuộc vào yêu cầu của người mua hoặc thị trường tiêu thụ, ví dụ cho thị trường Nhật thường xuất khẩu rong mặn, thị trường Liên Xô (cũ) xuất khẩu rong ngọt trong bao cói 35 kg.
Rong sụn và rong mơ chủ yếu được khai thác ở miền Trung (từ Đà Nẵng trở vào), lượng khai thác và sử dụng còn ít.
Các loại cá khô như cá cơm, trích, lầm... được sản xuất dưới dạng khô mặn, kỹ thuật đơn giản, sản lượng có chiều hướng giảm sút do sức tiêu thụ trên thị trường trong nước giảm dần, đòi hỏi phải được thay bằng những mặt hàng chế biến có chất lượng cao hơn.
Các mặt hàng tôm nõn khô, khô nguyên con, moi khô, cá khô tẩm gia vị sản lượng chưa được thống kê.
1.3. Tình hình xuất khẩu:
1.3.1. Mặt hàng xuất khẩu thủy sản
Cơ cấu sản lượng và giá trị theo các nhóm hàng sản phẩm thủy sản xuất khẩu luôn có nhiều biến động, chỉ có mặt hàng tôm đông lạnh tương đối ổn định ở mức trên 50% thị phần. Mặt hàng mực và tuộc đông lạnh có xu hướng giảm liên tục, từ 15% năm 1997 xuống con 7% năm 2004. Mặt hàng cá đông lạnh tương đối ổn định ở mức trên 10% thị phần những năm 2004 đã tăng lên chiếm 22% thị phần. Nhóm mặt hàng thủy sản tươi sống có xu hướng tăng nhẹ. Nhóm mặt hàng thủy sản đông lạnh khác và nhóm hàng khô có sự tăng giảm thất thường, không có xu hướng rõ rệt. Hàng xuất khẩu đã qua chế biến tăng từ 201.724 tấn năm 1997 lên 516.952 tấn năm 2004, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1997-2004 là 14,4%/năm.
Biểu đồ 1: Mặt hàng xuất khẩu thủy sản qua hai năm 1997 và 2004
Theo thống kê, hiện nay xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam phải đối mặt với hàng loạt những khó khăn do các hàng rào kỹ thuật vệ sinh an toàn thực phẩm nhưng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vẫn tăng mạnh tại hầu hết các thị trường lớn như EU, Mỹ, ASEAN, Ucraina….
Mục tiêu xuất khẩu của cả nước năm 2007 là: 3,6 tỷ USD
Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2008 khoảng 4,25 tỷ USD
( Nguồn:
Bảng 1: Tình hình xuất khẩu trong những năm qua của Việt Nam
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
SL (tấn)
GT (triệu US$)
SL (tấn)
GT (triệu US$)
SL (tấn)
GT (triệu US$)
SL (tấn)
GT (triệu US$)
458.496
2216,694
518.747
2400,781
626.991
2739,000
811.510
3348,291
(Nguồn: tổng hợp theo báo cáo của Bộ thủy sản, lấy từ các sở Thủy Sản vasep.pro@vasep.com.vn)
1.3.2. Thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu đã được mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, bao gồm cả năm châu lục, trong đó Nhật Bản và Mỹ là hai thị trường lớn đầy tiềm năng. Tuy thị trường Nhật vẫn là một thị trường lớn nhưng cũng giảm dần về tỷ trọng, từ 50% thị phần (năm 1997) xuống còn 32,2% (năm 2004). Thị trường Mỹ có tốc độ phát triển khá nhanh, từ chỗ chỉ đạt 5% vào năm 1997, đến năm 2000 đã 20% thị phần và năm 2004 chiếm 25%. Thị trường châu Á (trừ Nhật Bản) chủ yếu là Đài Loan và Hàn Quốc có xu hướng giảm, tỷ trọng năm 1997 là 31%, đến năm 2000 giảm còn 28% và năm 2004 chỉ chiếm 17,2%. Thị trường châu Âu ổn định ở mức 10% thị phần.
Biểu đồ 2: Thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong 2 năm 1997 và 2004
Đầu năm 2006:
Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản VN trong 3 tháng đầu năm 2006 đạt 332,5 triệu USD, tăng 4,48% so với cùng kì năm 2005. Trong khi xuất khẩu tới Mỹ, Nhật Bản giảm sút thì xuất khẩu tới EU tăng mạnh và EU lần đầu tiên trở thành thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất của VN. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong những tháng đầu năm 2006 đạt gần 78 triệu USD, tăng 74% so với cùng kì năm trước, chiếm 23,5% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước.
Biểu đồ 3:Thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản VN trong 2 tháng đầu năm 2006
(Nguồn: Thông tin thương mại thuỷ sản số 27/3/2006)
Biểu đồ 4: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tới các thị trường chính 2 tháng đầu năm 2006
(Nguồn: Thông tin thương mại thuỷ sản số 27/3/2006)
Bảng 2:Thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản VN trong 12 tháng năm 2007
Thị trường
Số lượng(tấn)
Giá trị(USD)
EU
162139.2
527872801
Hoa Kỳ
56240.6
413589217
Nhật Bản
64351.2
396233096
Châu Á (không kể Nhật Bản, ASEAN)
111860.5
340631907
Châu Âu (không kể EU)
46181.3
118471273
ASEAN
39487.8
108108489
Châu Mỹ (không kể Hoa Kỳ)
20809.2
86043658
Châu Đại dương
13416.8
68820191
Thị trường khác
8030.9
30898126
Châu Phi
4993.2
13735902
Total
527510.7
2104404660
(Nguồn: Trung tâm Tin học Thuỷ sản)
Thị trường EU:
Trong các năm qua EU là một thị trường thương mại quốc tế quan trọng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự có chỗ đứng đáng kể trên thị trường này và EU vẫn còn là thị trường giàu tiềm năng cần khai phá. Do đó, để thâm nhập tốt thị trường này doanh nghiệp cần chú ý đến các khía cạnh về an toàn, sức khỏe, chất lượng và các vấn đề môi trường và xã hội. Hiện nay và cả trong tương lai, quyền lợi của người tiêu dùng được đặt lên hàng đầu. Do vậy, chất lượng sản phẩm là yếu tố thành công quan trọng nhất khi nhắm vào thị trường EU.
EU là thị trường đòi hỏi yêu cầu chất lượng rất cao, điều kiện thương mại nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Các khách hàng EU là nổi tiếng về mẫu mốt, thị hiếu, khác với khách hàng Việt Nam thì giá cả có vai trò quyết định trong việc mua hàng. Do đó, khi các sản phẩm đạt các yếu tố về chất lượng, thời trang và giá cả hấp dẫn thì sản phẩm mới có cơ hội hấp dẫn được người tiêu dùng ở Châu Âu. Đây là các vấn đề mà các doanh nghiệp cần phải chú ý để thâm nhập và thành công ở thị trường này.
Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU đạt 116,7 triệu đôla, năm 2004 - 231,5 triệu đôla, năm 2005 - 367,3 triệu đôla. Hàng thủy sản hiện là mặt hàng có kim ngạch đứng thứ tư trong số các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Tuy nhiên, cho đến nay, tỷ trọng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam hàng năm chỉ bằng 0,3-0,4% trị giá nhập khẩu thủy sản của toàn EU. Khối lượng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam vào EU năm 2005 mới đạt gần 120 nghìn tấn, trị giá 367,3 triệu USD, chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước.
Bảng 3: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Kim ngạch
(triệu USD)
71,8
90,7
73,7
116,7
231,5
367,3
Khối lượng
(tấn)
20.290,8
26.659,1
28.612,8
38.186,8
73.459,2
110.911,2
(Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thuỷ sản)
Bảng 4: Xuất khẩu thuỷ sản đông lạnh của Việt Nam theo thị trường EU
Thị trường
2001
2002
2003
Khối lượng
(Tấn)
Giá trị
(1000USD)
Khối lượng
(Tấn)
Giá trị
(1000USD)
Khối lượng
(Tấn)
Giá trị
(1000USD)
Eu-15
Ai Xơ Len
63.4
314.7
9.1
35.4
53.8
234.5
Bỉ
4 064.2
18 516.6
5 902.9
18 573.6
8 738.8
31 934.6
Bồ Đào Nha
173.3
324.8
115
244.3
384.5
675.6
Italy
6 841.9
13 074.7
10 048.9
17 490.8
11 589.4
23 043.2
Đức
4 896.5
20 707.6
3 834.0
11 750.0
5 383.5
18 244.8
Anh
3 028.3
14 796.2
2 519.2
6 288.1
2 653.1
14 975.9
Pháp
5 273.0
15 372.1
3 445.9
12 281.8
4 308.2
14 599.3
Tây Ban Nha
1 858.2
4 802.5
2 042.0
5 122.0
3 739.5
8 261.6
Đan Mạch
284.7
1 254.6
465
1 258.3
569.1
1 880.4
Thuỵ Điển
146.1
1 534.6
86.5
299.4
255.7
1 346.2
Các thành viên mới của EU
Séc - Czech
963.2
973
1 147.3
1 345.7
1 337.4
1 217.1
Ba Lan - Poland
50.6
130.5
157.7
335.9
568.2
1 101.5
EU-25
(Nguồn: Trung tâm Tin học)
Bỉ và Italy vẫn là hai thị trường nhập khẩu tôm chính của Việt Nam tại EU, chiếm 53% tổng lượng hàng xuất sang EU năm. Việt Nam nằm trong tốp 10 nhà cung cấp tôm hàng đầu của Bỉ với 4% thị phần nhập khẩu. Mặt hàng chính là tôm nước ấm đông lạnh. Việt Nam đứng ở vị trí thứ 9 trong số các nhà xuất khẩu thủy sản sang Anh.
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Đức giai đoạn 1999-2003 tăng 149% về khối lượng, từ 2.146 tấn lên 5.383 tấn và 68% về giá trị, từ 10,744 triệu USD lên 18,244 triệu USD. Các sản phẩm thủy sản xuất khẩu chính sang Đức là cá philê đông lạnh, nhuyễn thể chân đầu, nhuyễn thể và thủy sản có vỏ. Sản phẩm tiềm năng là cá basa philê đông lạnh.
Thị trường Hoa Kỳ
Là một trong những nhà nhập khẩu hàng đầu thế giới, thu hút sự quan tâm của cả thế giới nên cạnh tranh giữa các nhà xuất khẩu vào Hoa Kỳ cũng vô cùng gay gắt và quyết liệt. Việt Nam mới chỉ thực sự thâm nhập thị trường Hoa Kỳ kể từ năm 2002 sau khi BTA có hiệu lực, trong khi các đối thủ cạnh tranh của ta đã có hệ thống bạn hàng nhập khẩu và phân phối tại thị trường này từ rất lâu.
Thuỷ sản chế biến xuất khẩu sang Hoa Kỳ chưa nhiều, chủ yếu mới xuất khẩu dưới dạng sơ chế cho nên trị giá xuất khẩu thấp. Nguyên nhân là do các cơ sở thuỷ sản chưa hiểu hết được nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ, chưa có sự hợp tác đầu tư với đối tác Hoa Kỳ về công nghệ chế biến thuỷ sản như chúng ta đã làm với các nhà đầu tư Nhật Bản.
Bảng 5: Mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ năm 2000 - 2004
Đơn vị : Nghìn USD
Mặt hàng
2000
2001
2002
2003
2004
Tôm nước lợ
185,12
308,70
368,62
468,93
277,45
Cá sống
175
216
201
271
357
Cá sấy khô, ướp muối, hun khói …
374
596
722
1,005
3,549
Hải sản thân mềm, nhuyễn thể
8,17
6,16
5,82
7,44
6,18
Cá đông lạnh (không bao gồm cá filê hoặc cá thịt khác)
6,80
10,22
9,23
10,70
14,71
Cá tươi (không bao gồm cá filê hoặc cá thịt khác)
9,59
16,64
24,67
23,66
25,38
Cá filê và cá thịt khác tươi, hoặc đông lạnh
32,61
41,72
69,17
56,45
78,36
(Nguồn : Số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ)
Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hải sản (kể cả chế biến) đạt 777.66 triệu USD, tiếp tục xếp vị trí thứ hai sau hàng dệt may trong bảng xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ, chiếm 35,3% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong nhóm hàng thuỷ sản, tôm đông lạnh đạt kim ngạch 469 triệu, chiếm 64% tổng kim ngạch nhóm hàng thuỷ sản. Tôm và cua chế biến đạt 162 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu cá phi lê giảm khoảng 19% so với trước do tác động của thuế chống bán phá giá.
Năm 2004, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào Hoa Kỳ các mặt hàng như mực đông lạnh, bạch tuộc đông lạnh, tôm đông lạnh, cá ngừ, cá đông lạnh, mực khô, các khô và các mặt hàng khác với tổng số lượng đạt 91.380.6 tấn, trị giá là 602.9 triệu USD. Hoa Kỳ chiếm 25,1% thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong đó, tôm đông lạnh đạt 37.060 tấn, trị giá 397 triệu USD, cá đông lạnh đạt 33.680 tấn, trị giá 119 triệu USD.
Năm 2005, do tác động đồng thời của việc áp thuế chống bán phá giá cá tra, cá ba sa philê đông lạnh và tôm đông lạnh, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ có phần giảm sút, thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm 23% thị phần xuất khẩu của Việt Nam.
Nhìn chung, thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam là khá rộng lớn và đầy tiềm năng. Hiện nay, thị trường còn được mở rộng ra thêm. Tuy nhiên, vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc xuất khẩu thủy sản như: bị kiện là bán phá giá, kiểm dịch vệ sinh thực phẩm…
2. Đánh giá khả năng cạnh tranh đối với ngành thủy sản ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO:
2.1. Thách thức:
Sau khi gia nhập WTO, ngành thủy sản Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đã gặp phải một vài trở ngại:
Xuất khẩu thuỷ sản cũng còn nhiều thách thức, trong đó chủ yếu là các hàng rào kỹ thuật mới từ các thị trường nhập khẩu đòi hỏi ngày càng cao. Bởi vậy, các doanh nghiệp thuỷ sản phải không ngừng đổi mới công nghệ để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường. Bên cạnh đó, cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp để siết chặt công tác kiểm tra, kiểm soát an toàn vệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xuất khẩu thủy sản Việt Nam – Thách thức & Cơ hội sau khi gia nhập WTO.doc