Theo xu hướng làm chủ, những hộ bị thu hồi hầu hết đất canh tác sẽ chuyển sang làm kinh tế cá thể, tiểu chủ với các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Tại tỉnh Bắc Ninh, xu hướng này có nhiều khả năng hiện thực bởi tỉnh có nhiều truyền thống phát triển tiểu, thủ công nghiệp và đang khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ để đạt tỷ lệ cao hơn trong cơ cấu kinh tế tỉnh. Các hộ lựa chọn xu hướng này cần có được những chính sách phù hợp, đặc biệt là các chính sách dành cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ và cực nhỏ, trong đó nổi lên là chính sách thị trường vốn và chính sách sử dụng đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Những hộ lựa chọn xu hướng này thường chủ động trong việc tự chuyển đổi nghề nghiệp và tự tìm cách đào tạo việc làm cho chính mình. Nhìn trên tổng thể, khi số doanh nghiệp tính theo đầu người của Việt Nam còn quá thấp so với mức bình quân trong khu vực và trên thế giới, trong đó Bắc Ninh cũng không phải là ngoại lệ, thì xu hướng thành lập các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ hợc cực nhỏ đối với những hộ bị thu hồi hầu hết đất canh tác là một xu hướng tích cực cần được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý và chính sách kinh tế.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2634 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư các vùng nhà nước thu hồi đất để phục vụ phát triển các khu công nghiệp tập trung và đô thị ở tỉnh Bắc Ninh: tình hình những năm qua và hướng giải quyết các năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông muốn làm việc nhiều tại các doanh nghiệp KCN.
+ Một số lao động được đào tạo nghề theo hình thức tự học hoặc tham gia vào các lớp do Nhà nước, địa phương đài thọ…
+ Một số đã dùng kinh phí được bồi dưỡng lo phát triển kinh tế nông nghiệp tại gia đình: làm kinh tế VAC (chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản, trồng cây ăn quả…) hoặc dùng tiền để làm ăn buôn bán.
+ Số còn lại đang trong độ tuổi lao động và ngoài độ tuổi lao động do chưa định hướng nghề nghiệp và chưa có kế hoạch ổn định cuộc sống lâu dài đã dùng tiền được đền bù để mua sắm tài sản, ăn chơi tiêu sài phung phí, trong số đó có một số dính vào các tệ nạn xã hội, không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn thất nghiệp, đói nghèo do mất đất nông nghiệp và không có việc làm.
Tổng số lao động cần chuyển đổi khoảng 53.000 người, mới chiếm được khoảng 27.000 người đạt 58%, số được đào tạo khoảng 16.000 người đạt tỷ lệ 51%.
· Trách nhiệm của Nhà nước đối với việc chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm được thể hiện
Theo quy định tại điều 29, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ thì "hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người trong độ tuổi lao động, mức hỗ trợ lao động cụ thể và lao động cụ thể do UBND tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế tại địa phương. Việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu bằng hình thức cho đi học nghề tại các cơ sở dạy nghề, thi hành QĐ trên UBND tỉnh quyết định mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho các lao động bị thu hồi đất là 14.700đ/m2 tại Quyết định số 226/2004/QĐ-UB ngày 31/12/2004.
Tại điều 14, Quyết định 60/QĐ-UB ngày 26/6/2001 của UBND tỉnh thì ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% kinh phí đào tạo nghề trong nước cho người lao động của địa phương được tuyển dụng vào DN mức tốid da không quá 1 triệu đồng cho 1 lao động;
Mặt khác, lao động được tuyển dụng vào làm tại các KCN, các doanh nghiệp đã tự bỏ kinh phí đào tạo nghề cho công nhân của họ mà không thu bất kỳ khoản phí nào. Như vậy, người lao động nếu làm việc tại doanh nghiệp KCN thì vừa được hưởng khoản hỗ trợ tại Quyết định số 226/2004/QĐ-UB ngày 31/2/2004 của UBND tỉnh, vừa được doanh nghiệp tuyển dụng đài thọ kinh phí đào tạo.
Như vậy, trách nhiệm của Nhà nước mới dừng laị ở việc hỗ trợ bằng tiền để dân tự lo chuyển đổi nghề nghiệp. Việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, các đô thị chưa đi liền với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội vùng. Có thể nói, các dự án phát triển mới tính đến sự phát triển trong hàng rào của các dự án, mà chưa tính đến tác động của dự án đến đời sống của dân cư trong vùng. Người dân giao đất, không được tiếp tục nghề nông nhưng chưa biết sẽ phải làm nghề gì để thay thế nghề nông. Vai trò của các cấp chính quyền trong việc tổ chức lại cuộc sống dân cư bị thu hồi đất là mờ nhạt.
· Các hình thức đào tạo việc làm còn chưa phù hợp. Trong chính sách Nhà nước đã quan tâm đến việc đào tạo ở các Trường dạy nghề, thậm chí còn dự định không hỗ trợ trực tiếp mà chuyển kinh phí cho các trường, dân cư vùng thu hồi đất có nhu cầu học tập tự đến trường học nghề. Thực tế dân cư các vùng bị thu hồi đất gặp nhiều trở ngại không phải ai cũng tới trường học tập được. Các khó khăn đó là kinh phí thiếu (với số tiền hỗ trợ ít hỏi không đủ kinh phí học tập tại trường); trình độ văn hoá thấp không đủ tiêu chuẩn vào trường; tuổi tác cao không thể đến trường…
Rõ ràng việc quy định phải đến các trường dạy nghề học tập là có dụng ý tốt, bài bản nhưng mới chỉ phù hợp với một bộ phận dân cư, nó chưa bao quát được tất cả các đối tượng, các hoàn cảnh dân cư bị thu hồi đất. Nhất là hiện nay chỉ khi bị thu hồi đất, vấn đề đào tạo, chuyển nghề mới được đặt ra.
3. Quan điểm, phương hướng và biện pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi nghề nghiệp đào tạo việc làm của dân cư các vùng bị thu hồi đất phục vụ phát triển các khu CN tập trung và đô thị ở tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới đây
3.1. Dự báo nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm
Theo quy hoạch giai đoạn 2006 - 2010 Bắc Ninh sẽ thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng 6229,56 ha đất. Trong đó đất chuyên dùng là 5200,56 ha tập trung ở Quế Võ: 1375 ha, Tiên Du: 1063,28 ha, Thuận Thành 633.9 ha, Yên Phong 621,65 ha, Thành phố Bắc Ninh 367.77 ha… Đất ở đô thị 539.58 ha, tập trung ở thành phố Bắc Ninh gần 200 ha, Yên phong 89.52 ha, Quế Võ 75,64 ha. Khối lượng đất phải chuyển đổi mục đích sử dụng là lớn, chủ yếu là từ đất nông nghiệp. Dự báo 5 năm 2006 - 2010 trong số lao động các hộ bị thu hồi đất 89.400 người, trong đó cần phải chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm là 83.000 người.
3.2. Các quan điểm cần quán triệt khi đề xuất phương án và biện pháp
Trước nhu cầu lớn như vậy, cần phải xây dựng các phương án kế hoạch và biện pháp đẩy mạnh công tác chuyển đổi, đào tạo việc làm của dân cư vùng bị thu hồi đất theo các quan điểm sau đây:
Một là, Bảo đảm để đại đa số dân cư các vùng bị thu hồi đất được chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm
Đây là quan điểm xuất phát từ tự phát huy và kế tục trong những hoàn cảnh mới của đường lối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân của Việt Nam. Trước cách mạng Tháng Tám, khẩu hiệu "Người cày có ruộng" đã trở thành một trong những động lực quan trọng có sức hiệu triệu hàng triệu người nông dân tham gia cách mạng, giành chính quyền. Trong cải cách ruộng đất những năm đầu thập kỷ 50 thế kỷ trước, chủ trương "Đưa ruộng đất về cho dân cày" đã tạo điều kiện để hàng chục triệu lao động nông nghiệp được sở hữu một loại tư liệu sản xuất không có gì có thể thay thế đó để tiến hành sản xuất nuôi sống mình và đóng góp cho xã hội. Từ năm 1980 đến nay, Nhà nước thực hiện chính sách giao đất nông nghiệp không thu tiền cho các hộ nông dân mà về thực chất đây là sự bảo đảm quí hơn vàng để nông dân có công ăn việc làm, đời sống ổn định. Đến nay, khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trên qui mô lớn. Nhà nước buộc phải thực hiện việc thu hồi đất đã giao cho hộ nông dân tại một số vùng. Đây là một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, tính tất yếu này lại làm nảy sinh một tất yếu khác, đó là: người nông dân bị thu hồi đất nhưng không thể để họ bị đẩy tới thất nghiệp, mà được "đền bù" để có công việc mới làm cho cuộc sống được cải thiện hơn từ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là điểm khác nhau cơ bản của quá trình công nghiệp hoá Việt Nam hiện nay với quá trình công nghiệp hoá trước đây của các nước phương Tây.
Hai là, chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất phải được tổ chức và có hình thức thích hợp với trình độ phát triển của nguồn nhân lực này.
Lao động nông nghiệp Việt Nam nói chung và tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng mặc dù đã tạo ra những thành tựu ấn tượng trong những năm đổi mới vừa qua trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, nhưng nguồn lực này đang tồn tại nhiều bất lợi thế trong phát triển nói chung và trong chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm khi bị thu hồi đất nói riêng, cụ thể là:
- Trình độ văn hoá chưa cao. Mặc dù tỉnh Bắc Ninh đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ năm 2002, nhưng tới năm 2005 tỷ lệ phổ cập giáo dục trung học vẫn còn thấp, đặc biệt là đối với các vùng nông thôn.
- Ý thức và kỷ luật lao động thấp. Do sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong lao động của vùng có truyền thống nông nghiệp lâu đời nên phần lớn người lao động của tỉnh Bắc Ninh vẫn đang lưu giữ những nề nếp của nền sản xuất nông nghiệp, trang bị kỹ thuật thấp so với công nghiệp. Những nề nếp này tuy có những ưu điểm đối với sản xuất của hộ nông dân, nhưng sẽ tạo nhiều trở ngại đối với sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn, và càng trở ngại hơn khi phải chuyển đổi nghề nghiệp và việc làm cho những nông dân chuyển sang lao động trong những ngành nghề công nghiệp, nơi lao động tập trung, được trang bị kỹ thuật cao, có sự phân công và hợp tác lao động tỷ mỷ, đòi hỏi phải có ý thức, tác phong, kỷ luật lao động công nghiệp.
- Chậm thích ứng với chuyển đổi. Mặc dù sản xuất nông nghiệp đã và đang là ngành sản xuất đưa lại thu nhập thấp cho nông dân tỉnh Bắc Ninh, nhưng ngoại trừ một tỷ lệ thấp trong số họ đã rời bỏ quê hương, đồng ruộng để đến làm ăn, sinh sống tại các khu vực đô thị trong và ngoài tỉnh, còn phần đông trong tổng dân số của tỉnh tại khu vực nông thôn đều thích ứng nhiều đối với sự ổn định trong nông nghiệp hơn là phải chuyển đổi nghề nghiệp và việc làm sang công nghiệp.
- Quan tâm lợi ích ngắn hạn, tại chỗ. Do đời sống hiện tại đang còn ở mức thấp, người nông dân khi bị rủi ro sẽ nhanh chóng rơi vào tình trạng đói nghèo nên quan tâm hàng đầu của họ là sự cải thiện nhanh chóng, trước mắt, tại chỗ đối với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày của họ. Sự quan tâm này trong khi gây ra những trở ngại lớn cho việc chuyển đổi nghề nghiệp là đào tạo việc làm hướng tới những lợi ích dài hạn, nhưng lại rất thích hợp đối với việc thu hút họ vào sự chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm theo phương thức ngắn hạn, tại chỗ, hiệu quả nhanh.
Ba là, chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất phải được thực hiện với một hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ, thiết thực, hiệu quả.
Việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất tại tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua mặc dù đã thu được nhiều kết quả tích cực, nhưng so với yêu cầu đặt ra vẫn mới chỉ đạt được ở mức khiêm tốn. Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, trong đó không thể không kể đến nguyên nhân từ cơ chế chính sách trong lĩnh vực này. Việc cải thiện thực trạng này nhanh hay chậm, toàn diện hay phiến diện sẽ phần lớn phụ thuộc vào việc tạo ra một hệ thống cơ chế chính sách có đồng bộ, thiết thực, hiệu quả hay không. Muốn vậy, cần chú ý:
- Tính đồng bộ đòi hỏi hệ thống chính sách này phải được chi phối bởi những qui định thống nhất nhưng không quá tập trung, một mặt tuân thủ những qui định thống nhất của Trung ương, mặt khác được ban hành những cơ chế chính sách để khi triển khai thực hiện có thể chủ động, linh hoạt vận dụng tại tỉnh, trong đó chú ý giải quyết đồng bộ các quan hệ của 4 bên: Nhà nước - Cơ sở đào tạo - Người nông dân bị thu hồi đất là phải chuyển đổi nghề nghiệp - Cơ sở tuyển dụng lao động.
- Tính thiết thực của hệ thống cơ chế chính sách chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm trong lĩnh vực này trước hết tập trung vào việc giải quyết các điều kiện cần thiết để người nông dân bị thu hồi đất, cơ sở đào tạo và cơ sở tuyển dụng lao động đều thực hiện được các mục tiêu riêng trong khi cùng tiến hành mục tiêu chung của cơ chế chính sách.
- Tính hiệu quả của hệ thống cơ chế chính sách chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với dân cư cùng bị thu hồi đất không chỉ được đánh giá bằng tỷ lệ giữa số nông dân được chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo tạo việc làm trong tổng số lao động nông nghiệp thuộc các hộ bị thu hồi đất mà còn bằng sự tăng lên về năng suất lao động nông nghiệp của tỉnh do lao động nông nghiệp giảm đi, bằng gia tăng sự tăng trưởng của khu vực công nghiệp xây dựng và khu vực thương mại - dịch vụ do thu hút được những lao động nông nghiệp chuyển qua để bổ sung nguồn nhân lực cho mình.
3.3. Một số phương án đặt ra
3.3.1. Chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất đối với những hộ nông dân bị thu hồi hầu hết diện tích canh tác của gia đình.
Đối với những hộ nông dân thuộc phương án này, đất canh tác của gia đình về cơ bản không còn nữa. Họ có hai phương án lựa chọn: phương án 1, tiếp tục làm nông nghiệp; phương án 2, chấm dứt làm nông nghiệp, chuyển sang làm phi nông nghiệp.
* Phương án 1 (tiếp tục làm nông nghiệp): Những hộ này phải thực hiện việc mua quyền sử dụng đất nông nghiệp trên thị trường quyền sử dụng đất. Sự lựa chọn này đòi hỏi phải có sự thông thoáng trong thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp, theo đó người mua và người bán quyền này không gặp phải những trở ngại nào về điều kiện, thủ tục, hộ khẩu, cư trú… Những hộ sử dụng sự lựa chọn này sẽ làm giảm nhẹ nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp đối với vùng Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận trên bình diện tổng thể về thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp thì thấy rằng: trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh do hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản… của Nhà nước cho mỗi hộ gia đình không quá 3 ha đối với mỗi loại đất thì việc hộ này "mua đất" của hộ kia cũng đồng nghĩa với việc đẩy hộ "bán đất" tới chỗ phải thu hẹp hoặc chấm dứt các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Và ở đây lại xuất hiện nhu cầu phải chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho những hộ "bán đất" này mặc dù việc đó diễn ra ngoài vùng Nhà nước thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
* Phương án 2 (chấm dứt làm nông nghiệp, chuyển sang làm phi nông nghiệp)
Những hộ này buộc phải chuyển đổi nghề nghiệp và thực hiện đào tạo việc làm để chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Sự lựa chọn này có thể diễn ra theo 2 xu hướng: một là làm chủ; hai là làm thuê.
Theo xu hướng làm chủ, những hộ bị thu hồi hầu hết đất canh tác sẽ chuyển sang làm kinh tế cá thể, tiểu chủ với các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Tại tỉnh Bắc Ninh, xu hướng này có nhiều khả năng hiện thực bởi tỉnh có nhiều truyền thống phát triển tiểu, thủ công nghiệp và đang khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ để đạt tỷ lệ cao hơn trong cơ cấu kinh tế tỉnh. Các hộ lựa chọn xu hướng này cần có được những chính sách phù hợp, đặc biệt là các chính sách dành cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ và cực nhỏ, trong đó nổi lên là chính sách thị trường vốn và chính sách sử dụng đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Những hộ lựa chọn xu hướng này thường chủ động trong việc tự chuyển đổi nghề nghiệp và tự tìm cách đào tạo việc làm cho chính mình. Nhìn trên tổng thể, khi số doanh nghiệp tính theo đầu người của Việt Nam còn quá thấp so với mức bình quân trong khu vực và trên thế giới, trong đó Bắc Ninh cũng không phải là ngoại lệ, thì xu hướng thành lập các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ hợc cực nhỏ đối với những hộ bị thu hồi hầu hết đất canh tác là một xu hướng tích cực cần được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý và chính sách kinh tế.
Theo xu hướng làm thuê, lao động nông nghiệp tại các hộ bị thu hồi hầu hết đất canh tác buộc phải xin việc làm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp trong tỉnh, và trong những hoàn cảnh nhất định, phải chấp nhận làm thuê ngoài tỉnh, nhất là tại các trung tâm kinh tế lớn của cả nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… Nhu cầu xin việc làm trong xu hướng này thường dễ được giải quyết đối với các cơ sở cần tuyển lao động phổ thông. Tuy nhiên, trong hoạt động của các ngành công nghiệp, dịch vụ thì lao động phổ thông chỉ chiếm một tỷ lệ thấp, trong khi phần lớn lại đòi hỏi phải có tay nghề, phải có trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ, chuyên môn thích hợ. Để có thể được tuyển dụng vào làm việc tại các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, những lao động nông nghiệp thuộc các hộ bị thu hồi đất nhất thiết phải được đào tạo việc làm. Tính nhất thiết ở đây không chỉ được đặt ra đối với người cần đào tạo mà còn đặt ra đối với các cơ sở đào tạo và cơ chế chính sách của Nhà nước đối với tất cả các bên tham gia sự nghiệp đào tạo này.
3.3.2. Chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư vùng bị thu hồi đất đối với những hộ nông dân bị thu hồi một phần diện tích canh tác của gia đình
Những hộ nông dân thuộc diện này tuy bị thu hồi đất, nhưng gia đình vẫn còn đất canh tác mặc dù đã bị giảm đi khá nhiều. Những hộ này có 3 phương án lựa chọn: a) Một bộ phận nhân lực của gia đình tiếp tục làm nông nghiệp, số còn lại chuyển sang làm phi nông nghiệp; b) Mua thêm đất nông nghiệp trên thị trường quyền sử dụng đất để cả gia đình tiếp tục làm nông nghiệp; c) Bán nốt phần đất nông nghiệp (chưa bị Nhà nước thu hồi) trên thị trường quyền sử dụng đất để gia đình chuyển sang làm phi nông nghiệp.
- Trong 3 sự lựa chọn trên, sự lựa chọn b (mua thêm đất nông nghiệp) và sự lựa chọn c (bán nốt diện tích đất canh tác còn lại) sẽ dẫn các gia đình trong 2 sự lựa chọn đó đến các vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm tương tự như phương án một.
- Đối với sự lựa chọn a (một bộ phận nhân lực tiếp tục làm nông nghiệp, số còn lại chuyển sang làm phi nông nghiệp), các gia đình đứng trước 2 xu hướng về tiếp tục làm nông nghiệp, trong đó: Một là, làm nông nghiệp như cũ, hai là, đổi mới cách làm nông nghiệp.
Nếu làm nông nghiệp như cũ thì thu nhập của gia đình trong lĩnh vực này sẽ thấp hơn so với khi chưa bị thu hồi đất (do diện tích canh tác đã bị giảm). Xu hướng này do vậy sẽ ít có gia đình chấp thuận, nhất là trong dài hạn. Xu hướng thứ hai là đổi mới cách làm nông nghiệp, theo đó các gia đình phải chọn các ngành nghề, sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, chế biến phù hợp với nhu cầu mới của quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp, các khu đô thị tại các vùng Nhà nước thu hồi đất, trong đó có đất của gia đình mình (nông nghiệp theo cách làm mới này có thể đặt tên là Nông nghiệp đô thị như đã được đề cập tới tại luận án tiến sỹ kinh tế của tác giả Nguyễn Thế Thảo).
- Chọn theo hướng Nông nghiệp đô thị - gọi là phương án 3 mặc dù vẫn là làm nông nghiệp nhưng các gia đình vẫn phải thực hiện việc chuyển đổi nghề nghiệp và cần được đào tạo theo các yêu cầu kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn của Nông nghiệp đô thị. Vấn đề này không chỉ đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực của các gia đình mà còn đòi hỏi phải được dẫn dắt và tạo điều kiện của cơ chế chính sách Nhà nước.
3.4. Đề xuất mô hình
Từ các phân tích trên đây, việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư Vùng Nhà nước thu hồi đất, phát triển các khu công nghiệp tập trung và đô thị tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới cần được nghiên cứu xây dựng theo 3 mô hình sau đây:
- Mô hình 1, tiếp tục làm nông nghiệp truyền thống. Các hộ bị thu hồi đất (từ ít đến nhiều) không chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm, thực hiện việc mua đất nông nghiệp trên thị trường quyền sử dụng đất để bù lại phần đất canh tác đã bị thu hồi, tiếp tục làm nông nghiệp theo truyền thống.
- Mô hình 2, chuyển đổi sang làm phi nông nghiệp. Các hộ bị thu hồi đất (từ ít đến nhiều) không tiếp tục làm nông nghiệp, bán nốt diện tích canh tác chưa bị thu hồi để chuyển hẳn sang làm phi nông nghiệp.
- Mô hình 3, chuyển sang làm phi nông nghiệp và nông nghiệp đô thị. Các hộ tuy bị thu hồi đất nhưng vẫn còn một số diện tích canh tác đáng kể, muốn chuyển một bộ phận nhân lực của gia đình sang làm phi nông nghiệp, số còn lại chuyển sang làm nông nghiệp đô thị.
3.5. Hoàn thiện cơ chế chính sách chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm cho dân cư các vùng bị thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất phát triển khu công nghiệp, khu đô thị
Mặc dù giá áp dụng cho việc bồi thường trên đây là điều kiện quan trọng về tài chính để các hộ nông dân bị thu hồi đất thực hiện việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm, nhưng việc chuyển đổi và đào tạo này không chỉ phụ thuộc vào yếu tố tài chính mà còn vào nhiều yếu tố khác và đòi hỏi phải có cơ chế chính sách của Nhà nước.
Một là, Nhà nước định hướng cho sự chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với dân cư các vùng bị thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất phát triển khu công nghiệp, khu đô thị.
Việc phát triển khu công nghiệp, đô thị là việc được hoạch định trong qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng.Trong qui hoạch, kế hoạch này, việc thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất được xác định rất cụ thể, tuy nhiên còn thiếu vắng việc định hướng cho sự chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với dân cư các vùng bị thu hồi đất. Sự thiếu vắng đó không chỉ gây ra tình trạng tự phát trong chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với các hộ bị thu hồi đất mà còn gây bị động cho các cấp chính quyền địa phương khi giải quyết các vấn đề chuyển đổi tự phát này.
Sự thiếu vắng trên đây cần được bổ khuyết trong thời gian tới, theo đó, khi trình để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt qui hoạch, kế hoạch phát triển khu công nghiệp, khu đô thị nào thì tổ chức chủ trì phải trình luôn cả định hướng chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm đối với các hộ bị thu hồi đất tại các vùng này. Định hướng này khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ trở thành căn cứ pháp lý quan trọng để không chỉ có các hộ bị thu hồi đất mà tất cả các tổ chức Nhà nước, ngoài Nhà nước đều cùng thống nhất thực hiện. Sự thống nhất đó đảm bảo cho việc chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo việc làm của các hộ bị thu hồi đất được triển khai nhanh chóng, thuận lợi và có hiệu quả.
Hai là, Nhà nước tạo điều kiện khởi nghiệp cho các hộ nông dân bị thu hồi đất thực hiện chuyển đổi nghề nghiệp.
Hầu hết các tổ chức, cá nhân khi khởi nghiệp đều gặp những khó khăn, trở ngại phải vượt qua. Đối với hộ nông dân bị thu hồi đất, khi khởi nghiệp để thực hiện chuyển đổi nghề nghiệp thì tình trạng này càng gay gắt, nặng nề hơn. Để trợ giúp họ trong khởi nghiệp, việc tạo điều kiện từ phía Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó nổi lên một số sự trợ giúp sau:
* Lập vườn ươm cho sự khởi nghiệp. Đây là sự trợ giúp thiết thực cho những hộ nông dân bị thu hồi đất có thể chuyển đổi nghề nghiệp bằng việc xác lập một cơ sở có qui mô nhỏ trong những ngành nghề phi nông nghiệp. Mô hình vườn ươm này đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới và đã được quảng bá tại Việt Nam. Với tỉnh Bắc Ninh, tại mỗi khu công nghiệp tập trung và khu đô thị mới, Nhà nước cần dành ra một diện tích (một vài ha) để lập vườn ươm này, trong đó tại khu công nghiệp là vườn ươm cho các hộ khởi nghiệp bằng các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp; tại các khu đô thị là vườn ươm cho các hộ khởi nghiệp bằng các ngành nghề dịch vụ.
* Bổ xung đối tượng thụ hưởng chính sách của ngân hàng chính sách xx hội
Việc khởi nghiệp đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất sẽ dựa chủ yếu vào nguồn tài chính từ việc bồi thường của Nhà nước như đã trình bày tại mục trên. Tuy nhiên các hộ này vẫn rất cần được sự hỗ trợ của thị trường vốn. Đối với các tổ chức, đơn vị kinh tế đã hoạt động trên thương trường thì việc nông dân bị thu hồi đất đã bắt đầu lập nghiệp mới. Do vậy cần có một tổ chức tín dụng đặc biệt để các hộ này có thể tiếp cận, và đó chính là Ngân hàng chính sách xã hội. Mặc dù các hộ nông dân bị thu hồi đất đến Ngân hàng này để vay vốn lập nghiệp, vay vốn kinh doanh, nhưng sự lập nghiệp, kinh doanh ở đây không chỉ đơn thuần là những vấn đề kinh tế mà còn là những vấn đề chính trị xã hội.
Nhằm khai thông việc này, chính quyền địa phương cần có sự can thiệp đối với hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội để các hộ nông dân bị thu hồi đất và thực hiện khởi nghiệp trong chuyển đổi nghề nghiệp cũng được thụ hưởng các chính sách của ngân hàng này.
Ba là, Nhà nước ban hành chính sách đồng bộ cho loại hình "Kinh tế hộ"
Trong hệ thống chính sách dành cho các loại hình tổ chức kinh doanh hiện nay, Nhà nước đã có chính sách cho Doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã, Doanh nghiệp khu vực tư nhân, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất và thực hiện việc chuyển đổi nghề nghiệ theo đó hình thành loại hình "hộ kinh doanh" phi nông nghiệp hoặc nông nghiệp đô thị với qui mô "cực nhỏ", thì điều kiện để thụ hưởng các chính sách của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại ở ngoài tầm đối với các hộ kinh doanh này. Sự thiếu vắng chính sách cho các hộ kinh doanh nói chung và cho các hộ kinh doanh phi nông nghiệp, hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị đối với các hộ nông dân bị thu hồi đất tại các vùng Nhà nước phát triển khu công nghiệp, khu đô thị nói riêng cần được bù đắp trong thời gian tới trong đó nổi lên là:
- Ban hành văn bản Luật về loại hình "kinh tế hộ", tạo căn cứ pháp lý cho sự phát triển không chỉ đối với các hộ nông nghiệp, hộ kinh doanh phi nông nghiệp tại khu vực thành thị, hộ kinh doanh phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn mà cả với hộ kinh doanh phi nông nghiệp, và hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị hình thành từ các hộ nông dân bị thu hồi đất và thực hiện chyển đổi nghề.
- Bổ sung chính sách đất đai trong đó không chỉ chú trọng tới nhu cầu đất làm mặt bằng kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ mà cả với loại hình "cực nhỏ" tránh duy trì tình trạng các hộ này phải sử dụng đất ở, nhà ở vào mục đích kinh doanh, gây những bất lợi cho bảo vệ môi trường và sự phát triển mở rộng kinh doanh của các hộ này.
- Tạo điều kiện để các hộ kinh doanh nói chung và các hộ kinh doanh phi nông nghiệp, và hộ kinh doanh nông nghiệp đô thị hình thành từ các hộ nông dân bị thu hồi đất nói riêng được tham gia vào thị trường tài chính, tín dụng bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác.
3.6. Hoàn thiện tổ chức đào tạo việc làm cho dân cư các vùng bị thu hồi đất phát triển Khu công nghiệp, Khu đô thị
Như trên đã phân tích, người lao động thuộc các hộ bị thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất phát triển khu công nghiệp. Khu đô thị sẽ phải chuyển đổi nghề nghiệp, trong đó có người trở thành chủ nhân của hộ kinh doanh phi nông nghiệp, hộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tinh Bac Ninh.docx