Lời mở đầu 1
Chương I.Khái niệm Cổ phần hoá và Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
I.Khái niệm Cổ phần hoá và Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 2
II.Cơ sở, lý luận và thực tiễn của Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước 2
Chương II.Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
I.Tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 4
II.Đánh giá chung về quá trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 7
Chương III.Mục tiêu và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
I.Mục tiêu cơ bản Cổ Phần hoá Doanh nghiệp nhà nước 15
II.Những phương châm khi tiến hành cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước 15
III.Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay 16
Kết luận
24 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1192 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DNNN tạo sự đồng tình ủng hộ cao của người lao động và các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.Tại 30 DN đã CPH(tính đến 2/6/1998), số vốn thu hút được là 166.077 triệu đồng(Bằng 50% số vốn điều lệ hoạt động của các DN này).Tính đến đầu năm 1997 bình quân mỗi năm vốn của các DN này tăng lên 45% có DN như công ty CP cơ điện lạnh, sau 3 năm CPH(1993-1996) lượng vốn huy động đã tăng gấp 2 lần.Được NN cho phát hành trái phiếu ra nước ngoài(năm 1996 thu hút được 5 triệu USD)
Nâng cao tính tự chủ đổi mới quản trị trong DN.Khi chuyển đổi sang DN CP tức là chuyển từ sự quản lý trực tiếp của NN sang NN quản lý thông qua pháp luật, chính sách.Hoạt động của DN sẽ chịu sự tác động trực tiếp của kinh tế thị trường.Điều này buộc DN phải đổi mới hoạt động quản trị từ tư tưởng dựa dẫm vào sự bao cấp của NN sang tư tưởng tự lực lời ăn lỗ chịu.Bộ máy quản lý được tinh giảm giám đốc điều hành do hội đồng quản trị thuê, hội đồng quản trị trong công ty CP do đại cổ đông bầu ra, khác với DNNN do NN bổ nhiệm
Mọi hoạt động trong công ty CP được tiến hành theo điều lệ và qui định chặt chẽ của Công ty giúp phát huy tốt vai trò chủ sở hữu và năng lực của người quản lý chuyên nghiệp tạo điều kiện áp dụng những thành tựu mới trong quản trị DN, nâng cao hiệu quả hoạt động của DN.Thu hút người ngoài tham gia quản lý điều hành công ty CP
Hiệu quả của DN tăng lên rõ rệt:Hầu hết các DN đều có chuyển biến tích cực toàn diện kể cả các DN trước CPH bị thua lỗ
Doanh thu bình quân hàng năm tăng 25% trong 6 tháng đầu năm 1999 có những công ty CP đạt doanh thu gấp đôi của cả năm trước CPH
Lợi nhuận trước thuế hàng năm tăng bình quân 26% có công ty đạt lợi nhuận gấp 2-3 lần so với trước khi CPH
Nộp ngân sách tăng bình quân hàng năm trên 30%
Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân 1-2%/tháng
Thu nhập hàng tháng cuủa người lao động tăng bình quân 20% năm
Hình thành cơ chế phân phối mới ở các DNNN CPH theo hướng phát huy các nguồn lực trong điều kiện kinh tế thị trường
Người lao động và nhà nước đều được lợi từ việc tăng doanh thu và từ cổ tức.Hạn chế tình trạng lãng phí thất thoát vốn, giảm chi phí đầu vào
Ba năm 2001-2003 đã cổ phần hoá được 979 DN và bộ phận DN, bằng 71, 6% tổng số DN và bộ phận DN đã cổ phần hoá.Riêng năm 2003 CPH 611 DN và bộ phận DN, bằng 244, 4% năm 1999(năm có số DN CPH cao nhất).Những Bộ, địa phương thực hiện cổ phần hoá khá tốt là:Bộ Công nghiệp, Bộ giao thông vận tải, Bộ xây dựng, thành phố HCM, Dải Dương, Ninh Thuận, Thanh Hoá, Hà Tây, Thái Nguyên…
Năm 2003 số DN có quy mô tương đối lớn
2.2.Những hạn chế
Tuy vậy, trong cổ phần hoá cũng còn một số tồn tại:nói chung kcác doanh nghiệp cổ phần hoá quy mô còn nhỏ, nên mục tiêu huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất-kinh doanh còn hạn chế;chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư có tiền năng về vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý;chưa thực sự đổi mới quản lý nội bộ công ty;còn hiện tượng cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu không đúng luật;chưa phân định rõ và nhận thức đúng vai trò người đại diện sở hữu cổ phần nhà nước và người trực tiếp quản lý cổ phần nhà nứpc tại công ty cổ phần;các DN sau cổ phần hoá còn gặp khó khăn khi vay vốn kinh doanh, nhất là các khoản vay ưu dãi của nhà nước, một sô dịnh hướng chính sách của Nghị quyết chưa được thể chế hoá như thí điểm đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị DN CPH;sử dụng một phần vốn của DN để hình thành cổ phần không chia của người lao động
Các doanh nghiệp được CPH và lượng vốn CPH nhỏ
Đa số doanh nghiệp được CPH là các doanh nghiệp nhỏ.Chẳng hạn, trong 460 DNNN đã CPH trong giai đoạn 1992-2000, vốn Nhà nước được đánh giá lại khi CPH là 1920 tỷ đồng, phần còn lại 1.1287 tỷ đồng được bán cho người lao động trong và ngoài DN.Tính trung bình, vốn của các DN CPH là 4, 17 tỷ.Các DN CPH có vốn quá nhỏ, không phù hợp với loại hình công ty Cổ phần là loại hình chỉ phát huy thế mạnh khi DN có quy mô sản xuất lớn
Mức độ CPH không cao
Trong tổng số các DN được CPH, lượng DNNN giữ cổ phần chi phối theo định hướng, theo quy định và cả ngoài quy định là rất lớn.Khi Nhà nước giữ cổ phần chi phối, DN CPH tiếp tục là một DNNN và các ưu thế của công ty cổ phần khó có thể được phát huy
Căn cứ theo các đề án tổng thể sắp xếp DNNN đã được phê duyệt, trong tổng số 2.033 DNNN được CPH(tính đến năm 2005)thì có 1.028 DN có cổ phần Nhà nước chi phối(chưa bao gồm đề án của tổng công ty Điện lẹc Việt Nam và Tổng công ty Dầu khí Việt Nam).Nhưng trên thực tế, con số này sẽ lớn hơn nhiều.Bởi theo quy định hiện hành, các DNNN khi tiến hành CPH nếu không bán hết được số cổ phần thì số cổ phần này được tính vào phần vốn của Nhà nước trong DN.Bên cạnh đó, theo Chỉ thị 01/2003/CT-TTG, Nhà nước giữ 51% cổ phần khi bán cổ phần lần đầu đối với các DNNN khi CPH có vốn trên 5 tỷ đồng, sản xuất kinh doanh có lãi, khong tính đến các yếu tố về ngành, lĩnh vực kinh doanh.Với hai tiêu chíe trên hầu hết các DNNN thuộc bộ, ngành, Tổng công ty và nhiều DNNN thuộc các địa phương đều nằm trong diện Nhà nước năm cổ phần chi phối khi tiến hành CPH.Với tình trạng này, theo nhận định của mốt số chuyên gia về CPH, thì số lượng DNNN thực tế sẽ lớn hơn nhiều con số gần 3000 DN(đã bao gồm cả DN giữ nguyên 100% vốn nhà nước và 1028 DNNN giữ cổ phần chi phối)vì phải cộng thêm các doanh nghiệp đã CPH nhưng có cổ phần nhà nước chi phối nằm ngoài dự kiến
Với việc tiếp tục duy trì số lượng sớn các DNNN, só nhiều doanh nghiệp quá nhỏ, vốn của nhà nước sẽ tiếp tục bị dàn trải, mục tiêu nâng cao hiệu quả của các DNNN sẽ không thực hiện được
Định giá doanh nghiệp mang tính chủ quan, không theo thị trường
Trong các văn bản hướng dẫn CPH, các phương pháp định giá được đề cập khá nhiều và chi tiết.Tuy nhiên, định giá cần được xem xét dưới các góc độ khác:Ai là người định giá?Chủ sở hữu đích thực hay người đại diện, người bán hay người đi mua?Quá trình định giá mang tính chủ quan hay khách quan?Người mau luôn muốn giá thấp, người đại diện có thể hành động phương hại đến lợi ích của người uỷ thác.Trong đa số trường hợp, chỉ có giá thị trường, giá khách quan là có thể làm hài lòng tất cả các bên
Bản thân các phương pháp định giá tự nó không dẫn đến một mức giá hợp lý.Người muốn giá thấp luôn có thể đưa ra hàng ngàn chứng cứ cho lập luận của minh.Các quy định về định giá cũng còn nhiều kẽ hở, nhiều vướng măc, đặc biệt là về đất đai.Các doanh nghiệp có diện tích đất sử dụng trong các thành phố có giá trị đất gấp nhiều lần các tài sản khác còn lại.Trong khi đó, các doanh nghiệp được CPH trong những năm trước chưa giải quyết vấn đề đất đai.Gần đây, đất đai được đề nghị tính theo”khung giá sử dụng đất hiện nay”, Khung giá sử dụng đất của Nhà nước, của các địa phương thường lại khác xa giá thị trường
Việc định giá không theo thị trường trong một số trường hợp dẫn đến thất thoát tài sản lớn.Trong nhiều trường hợp khác, doanh nghiệp có giá cao, khó bán cổ phần, được sử dụng như một lý do để chậm KCPH hoặc giữ lại một phần lớn cổ phần cho Nhà nước ngoài kế hoạch và tiếp tục là một DNNN.Khi giá thị trường được ấn định, nguyên tắc”tiền nào của nấy”được thực hiện và tình trạng ở một doanh nghiệp thì cổ phần chưa bán đã hết, ở doanh nghiệp khác cổ phần lại không ai mua sẽ bị xoá bỏ
Hình thức xác định truyền thống thông qua Hội đồng định giá doanh nghiệp trước đây đã bộc lộ nhiều nhược điểm, vừa không xác định chính xác, vừa mất thời gian.Gần đây, một số doanh nghiệp khi CPH đã thực hiện bán đấu giá và cho kết quả khả quan
“Nhận định về thực tiễn các doanh nghiệp đã thực hiện đấu giía cổ phiếu thời gian qua, hầu hết các chuyên gia CPH đánh giá là thành công.Tuy nhiên, phân tích sâu hơn chút nữa, ông Đoàn Kim Đan, chuyên viên CPH, Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương cho rằng, những thành công này thực ra mới chỉ màng tính chất đơn lẻ, chưa thực sự mang tính hệ thống.Một trong những nguyên nhân, theo ông Đan.là quy định hiện tại về khối lượng CPH được bán theo hình thức đấu giá còn rất nhỏ”
CPH mang tính nội bộ
Quá trình CPH một doanh nghiệp từ phương án, các nước thực hiện cho đến những người tham gia đều có tính nội bộ cao.”Toàn bộ quá trình CPH không được công khai trên các phương tiện thong tin đại chúng, thiếu những quy định bắt buộc phải công bố công khai từng bước CPH như định giá doanh nghiệp, đấu giá cổ phần, thời điểm bán cổ phần”nhất là đối với những doanh nghiệp có nhiều lợi thế kinh doanh.Danh sách người mua cổ phần được giữ kín cho đến khi bán xong, để cả sau khi đã hết cổ phần cũng không được tiết lộ”Tỷ lệ bán cổ phần bán ra bên ngoài quá ít.Các cổ đông ngoài doanh nghiệp bị đối xử phân biệt về giá và thường bị gây khó dễ cho các hoạt động chính đáng của họ.Quy định bán cổ phiếu cho các cổ đông trong doanh nghiệp và các đối tượng ưu tiên khác theo giá được xác định, còn lượng cổ phiếu bán ra bên ngoài được bán thông qua đấu giá là điều không hợp lý.Giá cổ phiếu cần được xác định khách quan, qua đấu giá và là giá chung.Việc giảm giá bao nhiêu phần trăm cho các đối tượng ưu tiên phải làm công khai, minh bạch, tách hoàn toàn khỏi việc xác định giá.Có thể tăng tỷ lệ cổ phần bán ra bên ngoài qua hình thức đấu giá, lấy mức giá đó làm chuẩn để tính giảm giá cho các đối tượng được ưu đãi.
Với những đặc điểm là đại đa số các doanh nghiệp CPH có quy mô nhỏ, lượng vốn CPH ít, CPH ở mức độ không cao, mang nặng tính nội bộ, chương trình CPH trên thực tế khó có thể đạt được mục tiêu là”huy động vốn, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp nhà nước; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cưpngf sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp
Bên cạnh những hạn chế trên ở không ít DN sau CPH đã nảy sinh những bất cập mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN này chưa được phát hành đồng bộ hoặc chưa phù hợp với thực tế;nhận thức sai lệch, thiếu đầy đủ về CTCP của một số cổ đông.Những bất cập chính là:
Thứ nhất, về quản trị và điều hành CTCP
Thực tế cho thấy, một số CTCP(tức DNNN sau CPH)chưa được tổ chức, quản lý, hoạt động theo đúng quy định của phát luật(Luật DN)và điều lệ của công ty.Mối quan hệ giữa Hội đồng quản trị(HĐQT)và giám đốc điều hành thiếu rõ ràng, thạam chí có giám đốc không tuân thủ sự điều hành của HĐQT.Hầu như các DN sau CPH vẫ sử dụng toàn bộ cán bộ quản lý cũ:83% giám đốc cũ thành Chủ tịch HĐQT, 76% phó giám đốc thành giám đốc điều hành và 79% kế toán trưởng vẫn giữ nguyên
Do bộ máy điều hành ít thay đổi, nên tư duy, triết lý kinh donah, trình độ quản lý điều hành công ty cũng ít được đổi mới.Hầu như chưa có một DN CPH nào swr dụng cơ chế thuê giám đốc điều hành.ở đây có phần, cho đến nay, quy chế pháp lý nhà nước về vấn đề này cũng chưa hoàn chỉnh.Hiện nay, ở không ít CTCP có tình trạng biểu quyết ở đại hội cổ đông thì theo cơ chế phổ thông đầu phiếu.Lại có một vài DN sau CPH, HĐQT của công ty đã phải họp thường xuyên để giải quyết các vấn đề sự vụ, kể cả việc mua bán vật tư cũng không để giám đốc quyết định, mua sắm, chi tiêu chỉ khoảng 100 nghìn đồng cũng phải họp để xin ý kiến
Theo kết quả điều tra do Viện Quản lý kinh tế trung ương phối hợp với công ty tư vấn MInh-Hà và chuyên viên Ban Đổi mới doanh nghiệp của các tỉnh thì khoảng 20% DN sau CPH cho rằng cơ chế hoạt động của công ty họ giống hoặc rất giống với DN ngoài quốc doanh, gần 50% cho rằng hoạt động của công ty họ vừa giống DNNN lại vừa giống DN ngoài quốc doanh và hơn 30% thì cho rằng quyền sở hữu và quyền về tài sản của công ty giống hoặc rất giống DN ngoài quốc doanh.
Thứ hai, về quản lý nhà nước và quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với CTCP
Mặc dù đã có những văn bản quy định khá cụ thể về mối quan hệ này, nhưng trong thực tế, vẫn xảy ra vướng mắc ở từng đơn vị cụ thể.Trong khi các DN CPH không có phần vốn nhà nước kêu ca họ bị bỏ rơi, bị hẫng hụt thì các DN CPH có cổ phần nhà nước chi phối lại than phiền họ bị can thiệp quá sâu của các cơ quan chủ quản thông qua người đại diện(của Bộ Tài chính, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc, HĐQT của Tổng công ty).Những kiểu can thiệp sâu thường diễn ra trong trường hợp công ty mẹ là DNNN và công ty con đã CPH, nhưng có cổ phần chi phối của công ty mẹ hoặc của nhà Nước.Những DN đã CPH này phải báo cáo với công ty mẹ hoặc các cơ quan chủ quản từ việc cử cán bộ đi bọc đến việc đầu tư, nâng cấp trang thiết bị và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh giống y như còn là DNNN.Không những thế, những DN này còn phải đóng góp các khoản cho cấp trên.Rõ ràng là quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN sau CPH còn bị hạn chế, làm cho thời cơ kinh doanh bị bỏ lỡ.Theo Nghị định sô 73/2000/NĐ-CP ngày 6/12/2000 của chính phủ thì nhiệm vụ lớn nhất của người đại diện là sử dụng có hiệu quả tốt nhất số vốn nhà nước đaqx đầu tư vào CTCP và vì thế, người đại diện chỉ có thể tác động vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong giới hạn số vốn của Nhà nước ở coong ty đó mà thôi.Do đó, không phải vì có phần vốn nhà nước là người đại diện sẽ chi phối mọi việc của CTCP.ở một số CTCP Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt, việc tăng vốn điều lệ hay điều chỉnh cơ cấu vốn cổ đông rất phức tạp.Nhìn chung, cổ đông Nhà nước không muốn hoặc khoong có khả năng tăng vốn, trong khi đó các cổ đông khác lại muốn tăng vốn điều lệ.Vì thế, việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh ở các CTCP này rất khó khăn
Thứ ba, về việc thực hiện các chính sách ưu dãi đối với DNNN sau CPH
Mặc dù khoản 6, Điều 26 Nghị định 64/2002/NĐ-CP)đã quy định rõ:” Các DN CPH được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tính dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đối với DNNN” nhưng trên thực tế các DN này rất khó vay vốn tại ngân hàng.Muốn vay vốn ở ngân hàng, các CTCP phải có tài sản thế chấp mà tài sản thế chấp lại không phải là tài sản của công ty đã được nhà nứpc định giá.Hẳn nhiều người đã biết trường hợp của CTCP và phát triển du lịch Hải PHòng, khi công ty này đến ngân hàng vay vốn thì ngân hàng đòi hỏi công ty phải có tài sản thế chấp, phải có “bìa đỏ”, tài sản của công ty đã được fđịnh giá cũng “không có giá trị”.Khi công ty làm rõ quyền được vay vốn thì ngân hàng trả lời rằng:chưa cho CTCP nào vay vốn, chỉ cho công ty nhà nước vay vốn, muốn vay, phải mang nhà mình ra thế chấp.Trước yêu càu đó, Chủ tịch HĐQT đã phải thế chấp tài sản nhà minh, nhưng khi có “bìa đỏ”rồi, ngân hàng lại đò hỏi phải có giấy đăng ký kết hôn và sự cam kết của cả hai vợ chồng, sau đó ngân hàng còn phải đòi hỏi phải họp HĐQT để lấy ý kiến.Như thế cũng chưa đủ, ngân hàng lại thành lập đoàn định giá tài sản, cơ quan công chứng cũng thành lập đoàn định giá tài sản và cuối cùng, ngân hàng và công chúng lại không thống nhất ý kiến.Vậy là, sau nhiều lần đi lại, mỗi lần lại thêm một yêu cầu mới, nhưng cuối cùng công ty vẫn không vay được vốn
Nhiều DN sau CPH đến vay vốn ngân hàng cho biết, họ không được tiếp đón niềm nở bằng các DNNN.Việc thuê nhà của các DN này cũng phải chịu giá cao hơn.Việc hợp đồng thuê đất cũng mất rất nhiều thời gian, có DN phải mất đến 2 năm
Nhìn chung, những thủ tục liên quan đến vay vốn, thuê đất của các DN sau CPH đều bị các cơp quan chức năng đò hỏi phải có công chứng, mà các sơ quan công chứng lại không công chứng, vì rất nhiều lý do
Việc đăng ký mở tài khoản phong toả nguồn tiền bán cổ phần, mua tờ cổ phiếu và rút tiền phát hành tăng vốn điều lệ của các CTCP cũng đò hỏi phải có nhiều thủ tục và nhiều thời gian, gây phiền hà cho các CTCP
Việc trợ cấp cho người lao động nghỉ việc cũng rất nhiêu khê.Nhiều người phải chờ cả năm mới lấy được tiền bảo hiểm
Như vậy là, còn có sự phân biệt đối xử rất lớn giữa các DN CPH với các DNNN.Điều này không chỉ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN sau CPH mà còn kìm hãm tiến trình CPH.Rõ ràng, cần có một “sân chơi chung”cho mọi loại hình DN
Thứ tư, về việc chuyển nhượng cổ phần ở các DN sau CPH
Trên thực tế, một số DN sau CPH đi vào hoạt động đã dần dần bị “gia đình hoá”, bị biến thành DN tư nhân
Theo khảo sát, một số chủ tịch HĐQT, giám đốc điều hành của công ty đã toan tính để biến CTCP thành công ty của gia đình mình bằng cách bổ nhiệm người thân trong gia đình vào những vị trí quan trọng.ở một sô CTCP, đã xảy ra tình trạng mua bán, chuyển nhượng cổ phần khá tự do, công ty không kiểm soát được.Một số cổ đông, nhất là cổ đông nhỏ, không chỉ chuyển nhượng ngầm số cổ phần thường, mà còn chuyển nhượng ngầm cả số cổ phần ưu đãi, bất chấp quy định của pháp luật.Có những cá nhân đã mua gom cổ phần của người lao động tới mức trên 50% giá trị cổ phần danh nghĩa và nghiễm nhiên họ đã trở thành chủ nhân đích thực của CTCP, biến DN sau CPH thành DN tư nhân và người lao động(cổ đông, nhất là cổ đông nghèo)thành người làm thuê.Có thể coi đây là hiện tượng “tư nhân hoá ngầm” các DN sau CPH.Điều này hoàn toàn trái với chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước ta
Cùng với hiện tượng “tư nhân hoá ngầm” là hiện tượng “hợp tác hoá ngầm”các DN đã CPH.Trường hợp này thường diễn ra ở những DN CPH không có cổ đong là người ngoài DN tham gia, mặc dù khoản 4, Điều 3 Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã quy địnhdành tối thiểu5 30% số cổ phần còn lại(nếu có )bán cho đối tượng ngoài DN.Việc không thu hút được những nhà đầu tư bên ngoài, nhất là những nhà đầu tư có tiềm năng về vốn, trình độ công nghệ và trình độ quản lý…, đã làm cho CPH có nguy cơ biến thành hợp tác hoá.
Thứ năm, về một số vấn đề xã hội
Thực tế cho thấy, sau CPH, một số CTCP ăn nên làm ra, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, thu hút thêm lao động, song cũng không ít CTCP kinh doanh sa sút, dư thừa lao động.Ví dụ, 45 DN đã CPH của thành phố Hồ Chí Minh khi tiến hành CPH thì không có lao động dôi dư, nhưng khi tiến hành sắp xếp lại tổ chức sản xuất, đổi mới công nghệ thì đã xuất hiện lao động dôi dư.
Theo khảo sát của Bộ Lao động-thương binh và xã hội phối hợp với Sở Lao động-thương binh và xã hội của thành phố thì trong số 45 DN đã CPH này có tới 30 DN có lao động dư thừa, bình quân 31 lao động/1 XN.Tình hình ở Hải Phòng và một số địa phương khác cũng tương tự.Mặc dù Chính phủ ra Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/.4/2002 về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN và Bộ Lao động-thương binh và xã hội đã có Thông tư 11/2002/TT-BLĐTBXH ngày 12/6/2002 về hướng dẫn thực hiện Nghị định này, nhưng trên thực tế, nhiều lao động dôi dư đến nay vẫn chưa nhận được khoản tiền trợ cấp này
ở một số DN sau CPH đã xuất hiện hiện tượng phân hoá giàu nghèo quá mức, khoảng cách chênh lệch về số cổ phần đã lên tới hơn 300 lần.Đảng ta đã chỉ rõ, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.Chúng ta thừa nhận và chấp nhận có sự phân tầng xã hội, song không chấp nhận một sự chênh lệch qúa mức
Ngoài những bất cập nảy sinh trên, ở không ít CTCP hiện nay, vấn đề sinh hoạt của các tổ chức đảng, đoàn thể cũng chưa được coi trọng và tiến hành đều đặn.Dường như các CTCP chỉ chăm lo đến sản xuất mà chưa chăm lo đến đời sống tinh thần cho người lao động
Chương III.
Mục tiêu và một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam hiện nay
I.Mục tiêu cơ bản của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Một là, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình tiếp tục đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao tính năng động, sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nói chung, của khu vực doanh nghiệp nhà nước nói riêng
Hai là, huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước, để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức mạnh, hiệu quả của doanh nghiệp trên thị trường, tạo thêm việc làm, tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước
Ba là, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và kinh tế Nhà nước, đổi mới căn bản quản lý Nhà nước đối với DNNN và phương thức hoạt động của DN nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh của từng DN cũng như toàn bộ nền kinh tế, tăng tài sản nhà nước, tạo điều kiện để khu vực kinh tế nhà nước kthực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường, không cổ phần hoá toàn bộ doanh nghiệp nhà nước mà chỉ cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn
Bốn là, tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá có cổ phần, tạo động lực làm việc, nâng cao vai trò làm chủ thực sự của họ
II.Những phương châm khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Một là, cổ phần hoá phải đảm bảo tăng thêm sức mạnh của khu vực doanh nghiệp nhà nước, biểu hiện: huy động được các nguồn vốn cho kinh doanh ở các doanh nghiệp cổ phần hoá mà nhà nước giữ tỷ lệ cổ phần khống chế;tạo điều kiện để tổ chức lại một cách căn bản hệ thống doanh nghiệp nhà nước, nhằm phát huy vai trò trong nền kinh tế thị trường
Hai là, kết hợp cổ phần hoá soanh nghiệp nhà nước với việc sắp xếp doanh nghiệp nhà nước trên cùng địa bàn hoạt động, cùng ngành nghề kinh doanh, từng bước xoá bỏ ranh giới “địa phương”và “Trung ương”trong quản lý
Ba là, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước gắn với việc củng cố, phát triển tổng công ty và các doanh nghiệp có 100% vốn của Nhà nước để từng bước hình thành tập đoàn kinh tế mạnh, tạo những mũi nhọn trong ngành nghề kinh doanh, qua đó giữ được vai trò định hướng, khống chế trong nền kinh tế
Bốn là, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước phải làm tăng động lực, phát huy sức sáng tạo của công nhân và cán bộ quản lý, tạo điều kiện để người lao động phát huy vai trò làm chủ trong doanh nghiệp
III.Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở phân tích thực trạng, thuận lợi, khó khăn, nguyên nhân trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thời gian qua, những kinh nghiệm và quan điểm mang tính chỉ đạo, chúng tôi đề xuất một số giải phát cơ bản nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, bao gồm:
3.1.Phát triển, hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường
Trên cơ sở nhận thức đúng đăn về vai trò của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tiến hành các bước sau:
Một là, phát triển các thành phần kinh tế:Cùng với việc đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, xây dựng hợp tác xã kiểu mới, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể phát triển;khuyến khích các hình thức liên kết, liên doanh với Nhà nước;Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ;tạo điều kiện hỗ trợ cung cấp tri thức, kinh nghiệm kỹ thuật, giải quyết thị trường, v..v.., để các thành phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước và thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài, cùng tham gia vào các công ty cổ phần được cổ phần hoá từ doanh nghiệp nhà nước
Hai là, tạo lập đồng bộ các loại thị trường: Cùng với việc phát triển mạnh thị trường tư liệu sản xuất, thị trường hàng tiêu dùng cần coi trọng việc phát triển mạnh mẽ thị trường các loại dịch vụ cho sản xuất;thị trường công nghệ, thông tin, tư vấn pháp lý, tư vấn tiếp thị, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, v..v.., xây dựng và phát triển thị trường tiền tệ.Đặc biệt, phải phát triển thị trường chứng khoán.Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán ngày càng phát triển thuận lợi.Đồng thời, trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cần có biện pháp thúc đẩy cổ phần hoá những doanh nghiệp có quy mô đủ lớn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hoạt động tốt để có thể tham gia một cách có hiệu quả vào thị trường chứng khoán
Ba là, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô: Điểm mấu chốt là tăng tiềm lực và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, hoàn thiện chính sách tài chính-tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ổn định tiền tệ, kiềm chế cả lạm phát và thiểu phát, nâng cao năng lực quản lý kinh tế thị trường của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương
Bốn là, điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường, đồng thời phải hướng dẫn, kiểm tra nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm túc các luật đã ban hành: Sớm ban hành một số luật hoặc pháp lệnh quan trọng khác, như luật hoặc pháp lệnh về chống độc quyền của DN lớn, ngăn cấm việc áp dụng các thủ pháp đầu cơ, bán phá giá, lừa đảo, đồng thời khuyến khích cạnh tranh lành mạnh nâng cao chất lượng, hạ giá bán sản pha;ảm.Ban hành luật hoặc pháp lệnh về cổ phần hoá DNNN để nâng cao tính pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho cổ phần hoá.Tạo hành lang pháp lý cần thiết, đảm bảo để cơ chế thị trường vận hành theo đúgn định hướng của Nhà nước
3.2.Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách, tạo thuận lợi cho cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Sửa đổi, bổ sung Nghị định 44/1998/NĐ-CP và các văn bản liên quan:
Một là, có thể bãi bỏ hoặc mở rộng các quy định hạn chế mua cổ phiếu của giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp
Hai là, về việc bán cổ phiếu giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá, chỉ khống chế thời gian công tác và số cổ phiếu của mỗi năm công tác, không khống chế tổng giá trị cổ phiếu giá ưu đãi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0691.doc