Công nghiệp hóa và sự biến đổi của gia đình Việt Nam

Thứ nhất, qui mô gia đình Việt Nam đang dần dần thu hẹp, gia đình hạt nhân trở nên

phổ biến. Xu hướng này biểu hiện rõ nét hơn khi tốc độ CNH - HĐH ngày càng gia tăng.

Thứ hai, nhiều chức năng của gia đình có sự thay đổi. Ví dụ: gia đình đang có xu

hướng “giao phó” chức năng giáo dục và truyền thụ văn hóa cho thế hệ trẻ lại cho thiết chế

trường học và hệ thống các dịch vụ xã hội khác; chức năng kinh tế gia đình đang có xu

hướng chuyển từ “sản xuất” sang “tiêu dùng”.

Thứ ba, các mối quan hệ trong gia đình trở nên lỏng lẻo.

Thứ tư, vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội được cải thiện.

Những biến đổi trên đã góp phần mang lại không ít vấn đề phức tạp, những mâu

thuẫn và nguy cơ bởi sự xung đột giữa quan điểm giá trị truyền thống và quan điểm giá trị

mới, mâu thuẫn giữa thế hệ trước và thế hệ sau trong xã hội Việt Nam. Do vậy, để giải

quyết mâu thuẫn và “xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc ”(Nghị

quyết Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X) thì chúng ta cần phải phát huy

những giá trị đạo đức tốt đẹp của gia đình truyền thống trong hoàn cảnh xã hội mới

và đảm bảo quyền tự do dân chủ của mỗi cá nhân trong gia đình. Ngoài ra chúng ta

cần phải tập trung vào một số vấn đề sau: có hệ giải pháp thiết thực để thực hiện tốt nhất

Chiến lược củng cố và xây dựng gia đình; có hệ chính sách hữu hiệu hỗ trợ phát triển kinh

tế hộ gia đình; phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí; có chính sách tích cực tạo điều

kiện để đoàn tụ gia đình, gắn bó các thành viên gia đình; đẩy mạnh công tác xóa đói giảm

nghèo; tăng cường thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; đẩy mạnh việc thực

hiện nghiêm chỉnh hệ thống chính sách xã hội đối với các gia đình chính sách; tiếp tục mở

rộng tuyên truyền, phổ biến kiến thức về giới góp phần thiết thực tạo lập sự bình đẳng giới

trong gia đình và xã hội

pdf24 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 484 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công nghiệp hóa và sự biến đổi của gia đình Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.3.2. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam và nữ và chênh lệch của SMAM giữa nam và nữ chia theo vùng và nơi cư trú SMAM Vùng và nơi cư trú Nam Nữ Chênh lệch SMAM (Nam - Nữ) Toàn quốc 26,6 23,2 3,4 - Thành thị 28,4 24,7 3,7 - Nông thôn 25,9 22,6 3,3 Đồng bằng sông Hồng 26,3 22,5 3,7 Đông Bắc 25,1 22,2 2,9 8 Tây Bắc 23,9 21,2 2,7 Bắc Trung Bộ 26,5 23,4 3,2 Duyên hải Nam Trung Bộ 27,8 24,0 3,7 Tây Nguyên 26,0 22,6 3,3 Đông Nam Bộ 28,2 24,7 3,6 Đồng bằng sông Cửu Long 26,4 23,2 3,2 Sau khi kết hôn, điều quan trọng của chu kì gia đình là việc sinh con. Một thực tế phổ biến rộng rãi là đối với người phụ nữ, việc làm mẹ gây nhiều biến động trong cuộc sống hơn là việc làm vợ. Việc sinh con đầu lòng là sự kiện mang lại cho gia đình niềm vui, sự diệu kì, nhưng đó cũng là những căng thẳng và gánh nặng về tài chính và về việc thích ứng vai trò làm bố mẹ. Một hiện tượng nổi bật trong số những biến đổi của chu kì gia đình là rút ngắn thời gian hoàn tất sinh sản. Thời gian từ sinh con đầu lòng đến khi sinh người con cuối cùng đang có xu hướng ngày càng giảm. Do đó, tỉ trọng thời gian dành cho việc nuôi dạy con cái trong toàn bộ khoảng thời gian kết hôn của người phụ nữ cũng giảm dần. Ở phương Tây, nếu con cái là thanh thiếu niên thì mức độ sinh hoạt vợ chồng trong giai đoạn này là thấp nhất, nhưng ở Việt Nam thì thấy rằng độ tuổi của con cái không ảnh hưởng gì đặc biệt đến mức độ sinh hoạt vợ chồng. Mà ngược lại sự quan tâm con cái đang trở thành nguyên nhân quan trọng của sinh hoạt vợ chồng trong cuộc sống hôn nhân. Mặt khác, việc rút ngắn thời gian sinh con làm tăng tỉ lệ có việc làm của phụ nữ đã lập gia đình. Thêm vào đó, khi kì vọng về mức sống của gia đình ngày càng cao hơn thì việc duy trì mức sống của gia đình ở một mức độ nào đó chỉ bằng thu nhập của người chồng là một việc rất khó trong thời đại CNH. Do đó, tỉ lệ phụ nữ đi làm ngày một tăng. Sự gia tăng tuổi thọ trung bình làm kéo dài khoảng thời gian hôn nhân trung bình và làm xuất hiện “gia đình vợ chồng già trong thời kì không còn nuôi dạy con cái”. Sự biến đổi này sẽ dẫn đến việc tăng tỉ trọng của quan hệ vợ chồng, đồng thời cũng sẽ có nhiều trường hợp phụ nữ bị mắc chứng trầm uất nghiêm trọng hoặc gặp rất nhiều khó khăn trong thời kì trung niên do bị mãn kinh và do bị mất vai trò. Sự biến đổi về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình Trong xã hội phong kiến, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được củng cố bằng chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng. Theo đó cả 3 mối quan hệ cơ bản của gia đình (vợ - chồng; cha - con, anh - em) tuân theo một tôn ti, trật tự chặc chẽ. Ví dụ: là vợ - chồng thì phải hòa thuận, thương yêu nhau, phu xướng thì vợ phải tùy; là cha - con thì cha phải hiền từ, biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm gương cho con cái học tập, ngược lại, phận làm con phải biết ghi nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, biết hiếu thuận với cha mẹ; là anh - em thì phải biết đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, anh 9 chị phải biết nhường nhịn, thương yêu em, còn em thì phải biết nghe lời và lễ phép với anh chị Theo dòng thời gian, mối quan hệ trên có những thay đổi đáng kể. Sức nặng của tôn ti, trật tự không còn nặng nề như trước mà thay vào đó là sự bình đẳng hơn theo kiểu “trên kính dưới nhường” và đề cao sự tự do cá nhân. Trước hết, số lượng con cái trong gia đình có xu hướng giảm, thu nhập của gia đình lại tăng lên nên cha mẹ có điều kiện nuôi con tốt hơn, có một số trường hợp sinh ra chiều chuộng con, nhiều lúc quá đáng. Bên cạnh đó, cha mẹ đi làm suốt ngày, phần lớn ở xa nhà, ít có thời gian ở gần con, chăm sóc và theo dõi việc học tập, vui chơi của con cái. Theo kết quả điều tra gia đình Việt Nam 2006, có tới 80% trẻ em trong độ tuổi 15 - 17 khi được hỏi đã nói rằng cha mẹ cho phép chúng tự đưa ra quyết định về mọi vấn đề liên quan tới cuộc sống của mình. Vì nhiều lí do, trong đó có việc bận kiếm sống, 1/5 số ông bố và 7% số bà mẹ hoàn toàn không dành thời gian cho việc chăm sóc, dạy dỗ con cái. Nhiều bậc cha mẹ còn phó mặc con cái cho nhà trường, các đoàn thể trong việc giáo dục văn hóa và nhân cách vì họ cho rằng họ đã làm hết nhiệm vụ khi cung cấp đầy đủ tiền bạc và trang thiết bị học tập cho con cái Đồng thời, cũng có không ít con cái có xu hướng muốn tách khỏi sự kiểm soát của cha mẹ mặc dù còn đi học, chưa trưởng thành. Hiện nay, ở Việt Nam đã có một số gia đình công chức cao cấp, nhà buôn giàu có thuê những căn hộ riêng cho con ở Vì những lí do trên mà mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong một số gia đình Việt Nam trở nên khá lỏng lẻo và nảy sinh nhiều vấn đề. Sự biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình Trong xã hội hiện đại, vị thế của người phụ nữ nói chung đã được xã hội xác nhận trên cơ sở bình đẳng giới nhờ vào kết quả của phong trào nữ quyền. Người phụ nữ ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất, tái sản xuất, tiếp cận các nguồn lực phát triển, các quyết định, các sinh hoạt cộng đồng và thụ hưởng các lợi ích, phúc lợi gia đình. Đồng thời, các thành viên gia đình và các dịch vụ xã hội cũng từng bước chia sẻ gánh nặng công việc nội trợ gia đình đối với người phụ nữ, góp phần thiết thực tạo điều kiện và cơ hội giúp phụ nữ phát huy mọi tiềm năng của mình trong hội nhập và phát triển. Cụ thể: Quan niệm về người chủ gia đình Trong xã hội phong kiến, người chủ gia đình được quan niệm là người có những phẩm chất, năng lực và đóng góp vượt trội, được các thành viên khác trong gia đình coi trọng. Họ là người quyết định chính cho những việc lớn của gia đình. Người chủ gia đình thường là người đàn ông/người chồng. Trong gia đình Việt Nam hiện đại, quan niệm người chủ gia đình rất đa dạng. Người chủ gia đình có thể là người đàn ông/người chồng; người phụ nữ/người vợ; hay cả hai vợ chồng cùng làm chủ tùy thuộc vào phẩm chất, năng lực và đóng góp của họ trong mỗi gia 10 đình cụ thể5. Qua đây có thể thấy rằng người phụ nữ đã dần dần khẳng định được vị trí của mình trong gia đình. Sở hữu tài sản Trước đây, tỉ lệ người đàn ông/người chồng đứng tên các giấy tờ sở hữu tài sản lớn của gia đình cao hơn rất nhiều so với người phụ nữ/người vợ. Điều này bắt nguồn từ bản chất của chế độ hôn nhân phụ hệ trong xã hội Việt Nam truyền thống (ngoại trừ một số dân tộc có chế độ hôn nhân mẫu hệ). Việc nắm giữ tài sản lớn trong gia đình giải thích phần nào lí do người chồng có tiếng nói và quyền quyết định cao hơn người vợ trong những công việc quan trọng của gia đình. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cũng như các chính sách của Nhà nước đang làm thay đổi mối quan hệ giữa vợ và chồng về quyền sở hữu các tài sản lớn trong gia đình theo xu hướng người phụ nữ ngày càng có nhiều quyền sở hữu các tài sản của hộ gia đình hơn. Phân công lao động giữa người vợ và người chồng trong gia đình Phân công lao động theo giới trong gia đình Việt Nam theo phương thức người phụ nữ/người vợ được coi là phù hợp hơn với các công việc ở trong nhà (nội trợ, chăm sóc người thân trong gia đình), nam giới phù hơn với các công việc sản xuất kinh doanh và ngoại giao ở bên ngoài nhà và xa gia đình. Cho đến nay, phân công lao động theo giới có xu hướng bình đẳng hơn trong các gia đình ở đô thị, nhóm giàu, người có trình độ học vấn cao. Trong những hộ gia đình cả hai vợ chồng cùng đi làm bên ngoài, công việc nội trợ gia đình được người chồng chia sẻ nhiều hơn Tác động của những biến đổi trên đối với gia đình Việt Nam Kinh tế xã hội phát triển thông qua quá trình CNH - HĐH và công cuộc hội nhập quốc tế đã làm cho gia đình Việt Nam có nhiều biến đổi và những biến đổi đó đã có những tác động lớn đến các gia đình Việt Nam. Tác động tích cực Sự biến đổi về hình thái, các chức năng, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và vai trò của người phụ nữ trong gia đìnhđã làm cho gia đình Việt Nam có điều kiện phát triển kinh tế, trở thành một thực thể ngày càng hoàn thiện, năng động và phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều biến động và giao lưu hội nhập với các nền văn hóa, các thành tựu của văn minh nhân loại. Những biến đổi trên chính là một quá trình liên tục bảo tồn, truyền thụ, phát huy những giá trị truyền thống; đồng thời tiếp thu có chọn lọc và cải biến những giá trị tiên tiến, những tinh hoa của gia đình hiện đại. Tiêu biểu: những giá trị quí báu của gia đình Việt 5 Kết quả điều tra gia đình Việt Nam 2006 11 Nam truyền thống vẫn được bảo tồn và phát huy như: tình yêu đôi lứa trong sáng, lòng chung thủy, tình nghĩa vợ chồng, đức từ của cha mẹ đối với con cái, đạo hiếu của con cái đối với cha mẹ, sự nhường nhịn, thương yêu nhau của anh em trong một nhà Đồng thời gia đình Việt Nam cũng tiếp thu nhiều tinh hoa, giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại như: tôn trọng tự do cá nhân, dân chủ trong mọi quan hệ, bình đẳng nam nữ Đây chính là những đặc trưng của gia đình truyền thống được phát huy và cũng chính là những nhân tố giúp gia đình Việt Nam được xây dựng và củng cố theo xu hướng hiện đại hóa (dân chủ, bình đẳng, tự do, tiến bộ), thích nghi với sự tiến bộ của nhân loại. Tác động tiêu cực Cùng với những cơ hội và những điều kiện thúc đẩy sự phát triển tiến bộ, gia đình Việt Nam cũng chịu nhiều tác động tiêu cực và đang đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức. Cuộc sống của xã hội hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế, ở một góc độ nào đó đã phá vỡ nề nếp gia phong, đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam. Nhịp sống hối hả với những vòng quay của công việc, học hành khiến những bữa cơm gia đình hiếm khi đông đủ. Cuộc sống tiện nghi với những phương tiện công nghệ cao đã tạo nên những “ốc đảo” ngay trong mỗi gia đình, khiến cho cá nhân sống khép kín. Thêm vào đó, lối sống thực dụng ích kỉ, đề cao cuộc sống hưởng thụ, cổ súy cho tư tưởng tự do phát triển cá nhân cũng đã và đang là nguy cơ làm mai một, xói mòn nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân của sự rạn nứt trong gia đình ngày nay và là nguồn gốc của những biểu hiện tiêu cực trong xã hội như tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm, cờ bạc, rượu chè xâm nhập vào một số gia đình và đã làm mai một các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình và gây nhiều hậu quả cho xã hội), văn hóa ứng xử xuống cấp, đạo đức bị coi nhẹ hay tình trạng li hôn, li thân, sống chung như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn, quan hệ tình dục trước hôn nhân và việc nạo phá thai trong giới trẻ gia tăng Ngoài ra còn phải kể đến những tác động khác như: sự suy giảm vai trò ảnh hưởng của cha mẹ đối với con cái (do con cái có nhiều cách tạo thu nhập mà không cần dựa vào nguồn kinh tế của cha mẹ), quỹ thời gian dành cho việc chăm sóc con cái và người già suy giảm (do sự tham gia của người phụ nữ vào các công việc tạo thu nhập cho gia đình), sự ảnh hưởng của học vấn vào các chuẩn mực của lòng hiếu thảo của con cháu (thời gian học ở trường của con cái và thời gian làm việc ngoài xã hội của cha mẹ tăng dẫn đến việc giáo dục và hướng dẫn của cha mẹ về lòng hiếu thảo, sự mang ơn đối với ông bà giảm), mâu thuẫn giữa các thế hệ về phép ứng xử, lối sống và vấn đề chăm sóc người cao tuổi đang đặt ra nhiều thách thức mới, tình trạng bạo hành trong gia đình vẫn còn tồn tại 3. Kết luận Tóm lại, có thể khái quát một số xu hướng biến đổi đặc trưng từ gia đình truyền thống đến gia đình hiện đại ở Việt Nam như sau: 12 Thứ nhất, qui mô gia đình Việt Nam đang dần dần thu hẹp, gia đình hạt nhân trở nên phổ biến. Xu hướng này biểu hiện rõ nét hơn khi tốc độ CNH - HĐH ngày càng gia tăng. Thứ hai, nhiều chức năng của gia đình có sự thay đổi. Ví dụ: gia đình đang có xu hướng “giao phó” chức năng giáo dục và truyền thụ văn hóa cho thế hệ trẻ lại cho thiết chế trường học và hệ thống các dịch vụ xã hội khác; chức năng kinh tế gia đình đang có xu hướng chuyển từ “sản xuất” sang “tiêu dùng”. Thứ ba, các mối quan hệ trong gia đình trở nên lỏng lẻo. Thứ tư, vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội được cải thiện. Những biến đổi trên đã góp phần mang lại không ít vấn đề phức tạp, những mâu thuẫn và nguy cơ bởi sự xung đột giữa quan điểm giá trị truyền thống và quan điểm giá trị mới, mâu thuẫn giữa thế hệ trước và thế hệ sau trong xã hội Việt Nam. Do vậy, để giải quyết mâu thuẫn và “xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”(Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X) thì chúng ta cần phải phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của gia đình truyền thống trong hoàn cảnh xã hội mới và đảm bảo quyền tự do dân chủ của mỗi cá nhân trong gia đình. Ngoài ra chúng ta cần phải tập trung vào một số vấn đề sau: có hệ giải pháp thiết thực để thực hiện tốt nhất Chiến lược củng cố và xây dựng gia đình; có hệ chính sách hữu hiệu hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình; phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí; có chính sách tích cực tạo điều kiện để đoàn tụ gia đình, gắn bó các thành viên gia đình; đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo; tăng cường thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; đẩy mạnh việc thực hiện nghiêm chỉnh hệ thống chính sách xã hội đối với các gia đình chính sách; tiếp tục mở rộng tuyên truyền, phổ biến kiến thức về giới góp phần thiết thực tạo lập sự bình đẳng giới trong gia đình và xã hội TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Ngọc Đại, Tam giác gia đình, Tạp chí Xã hội học, Số 3.1990, Tr.4. 2. Trịnh Duy Luân (chủ biên), Phát triển xã hội ở Việt Nam - Một tổng quan xã hội học năm 2000, Nxb Khoa học xã hội, H.2002. 3. Chính sách và giải pháp nhằm phát triển gia đình ở Hà Nội (Báo cáo tổng hợp), Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em và Trung tâm Xã hội học - Học viện Chính trị Quốc gia TP.HCM thực hiện tháng 3/2005. 4. Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 do Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới thuộc Viện KHXHVN và qũy nhi đồng Liệp Hiệp Quốc (UNICEP) thực hiện và đã công bố cuối tháng 6/2008. 5. Những nghiên cứu Xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.1996. 13 INDUSTRIALIZATION AND THE CHANGE OF VIETNAMESE FAMILY Lam Ngoc Nhu Truc Ba Ria - Vung Tau University Foreword The process of industrialization - modernization has impacted on Vietnam society not only in the economy but also in the culture and society. Family - the basic component of society has indispensably changed in many aspects, which is one of the causes leading to the occurrence of complex problems in every family as well as Vietnam society. The question is that how to resolve these issues and make Vietnamese family become "one of the important factors determining the solid development of society, the success of industrialization and modernization "6. Industrialization of Viet Nam society Since the late 1980, Vietnam decided to boost the process of industrialization to develop faster and attract more workers, which provides the foundation to catch up with other countries. Priority of the industrialization in Vietnam was given to create more jobs and greatly contribute to social equality. As a result, Vietnam has dramatically changed, especially the labour structure. (see table 1.1) Table 1.1: Employed labour structure in the economic sector (2000 - 2005) Unit: % 2000 2002 2003 2004 2005 Agriculture - Forestry - fishing 65,1 61,9 60,3 58,8 57,3 Industry - Construction 13,1 15,4 16,5 17,3 18,2 Services 21,8 22,7 23,2 23,9 24,5 Total 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 (Source: Geography book 12, p.74) 6 The Nation-wide Strategy for the Vietnamese Family from 2005 to 2010 14 Through the data on the table, we can see that the labour structure continued to move in a positive way: the number of labour shifting from the field of agriculture to that of industry-construction and service. In addition, the urbanization of Vietnam changed positively (see table 1.2): Table 1.2: The number and rate of urban population in the country (1990 - 2005) Year Number of urban population (million) Rate of urban population in the country (%) 1990 12,9 19,5 1995 14,9 20,8 2000 18,9 24,2 2005 22,3 26,9 (Source: Geography book 12, p.78) At the same time, Vietnam economy grew significantly. Chart 1.1: Speed of GDP's increase Chart 1.2: Speed of consumer price's increase 0.2 6 9.5 4.8 8.4 0 2 4 6 8 10 1975- 1980 1988 1995 1997 2005 Consumer price's increase487.2 382.1 119.3 29.3 79.9 9.3 -1.6 8.3 12 -100 0 100 200 300 400 500 600 1986 1987 1989 1990 1991 1994 2000 2005 2007 15 Chart 1.3: Overall poverty and poor food Therefore, we can see that the process of industrialization - modernization has gained many achievements in socio- economic development and had dramatic social changes. Of course, these changes have had strong effect on family- the strong and long-standing relationship, but sensitive to the changes of society. The transformation of the family due to the impact of the industrialization - modernization In many aspects, Vietnamese family is differently shifting from tradition to modern. It is the comprehensive change in forms, functions, the relationship between family members and the role of women in the family, etc. 2.1 The transformation of family forms The researchers said that traditional Vietnamese family was formed from the native culture unchanging. Accordingly, a popular form of family is the extended family consisting of several generations living together linked by blood relation and usually regulated by "the breadwinner". In the process of development, the advantage of the traditional family is to promote the close relationship among family members; to preserve the culture tradition and customs, the order and discipline, and ethnics of family... However, traditional family is one of the factors preventing individuals from developing, especially with the impact of the industrialization-modernization, the traditional family seems no longer to be a good pattern. The gradually disappearing of traditional family and the establishment of new family forms are indispensable. The result of nation-wide survey on The family in viet nam in 20067 showed that two-generation family (including parents and children) - nuclear family- was quite popular in Vietnam (63.4%). More-than-three-generation family-the extended family was 7 " Result of nation-wide survey on The family in Viet Nam in 2006" was conducted by the Family Department of the Population, Family and Children Committee in coordination with the General Statistics Office, The Family and Gender Research Institute and the United Nations Children’s Fund (UNICEF), announced in the end of 8. 2008. 16 decreasing. Small-scale households were more common in urban areas than in rural areas and in well-off families than poor ones. The proportion of three-generation households was higher in urban areas, particularly in the inner city. The cause of this change can be explained as follows: Firstly, in the context of the industrialization - modernization constantly intensified in many areas, forms of nuclear family seems to have many advantages over other forms of families (extended family, single-parent family, single-mother and single-father family...) because it is organized as an independent unit and able to adapt quickly to the transformation of society with the following characteristics: + Less dependent on families and relatives. After marriage, newly-marriage couples build their own family by themselves rather than live with their extended families. + The focus of the family is not the relationship with their extended family, but the relation between two spouses. + In the aspect of economy, every member in a nuclear family is relatively independent, thus, they have more chance to develop their personal freedom. Secondly, the society of industrialization - modernization is very "dynamic". It needs an open mechanism to advantageously operate the same - of the workforce in market principles. Among them, the "dynamic" gained from free career choice of individuals were very interested. Therefore, a wife or husband in the nuclear family can choose their career in their own way to meet the demands of industrial society under no pressure from their families. Finally, there is a trend that young people move to the city for work and then get married and settle down in the city. 2.2 The transformation of family functions According to sociology, considering the nature, the family has 4 basic functions (reproduction, education, economy and psychology). Due to the interaction between traditional and modern elements, there is the difference between the change rate of social structure and of family forms and functions of the Vietnamese family in comparison with Western family in the process of industrialization - modernization. Firstly, in an aspect of reproductive function, most Vietnamese people think that birth still plays an important role in family although the opinion of the children number is very different. According to the result of nation-wide survey on the family in Vietnam in 2006, the rate of people who agree that couples need to have many children is fairly low (18.6% of the elderly, 6.6% of people between the ages of 18-20, and 2.8% of teenagers); the concept "the family is required to have a son" is most supported (nearly 37% people aged 18 - 60), in which a group of the poor want to have sons more than the rich group (45.5 % of the lowest income quintile compared to 26 % in the highest income quintile). The 17 main reasons why they must have sons are “to continue the family line" (85.7%), "to depend on when they are old" (54.2%) and "to have someone to do difficult work"(23.4%)... However, approximately 63% of people aged 18 to 60 say that whether having a son or not is not necessary. The analysis result shows that most people consider children, boy or girl, important, but follow the population policy. In addition, up to now social structure and viewpoint on reproduction and sexual relations have also had a change. This change is due to the freedom of pregnancy and birth thanks to the advance of medicine and the freedom in sexual relations thanks to the development of methods to avoid pregnancy and other services related to sexuality ... Nowadays, sex does not mean reproduction, but the needs of human being. Satisfied sexual life is becoming the main factor to decide the level of satisfaction in marriage. Secondly, the function of education has been strengthened more than ever and becomes a heavy responsibility of family. During the process of industrialization- modernization, the society demands skilled workers; therefore, the role of education in the family is vital. The severe competitiveness among qualified workers leads to the fact that parents pay more attention to their children education. The concerns to children education are various in different regions and ethnic groups. Urban parents are more interested in education than rural parents. Parents in the northwest of the country, especially the H’mong, show less concern than those in other areas. Besides, well-educated and high-income parents tend to be more concerned with their children education and the studying of children aged from 7 to 14 is more interested than that of children in the age of 15 - 17. Moreover, we also see that when the society changes so fast, there are many problems of bringing up children and socialization. Nuclear family gets little knowledge passed from generations to generations. Although the young are still supported by their parents, they do not agree with them about how to bring up children. They believe that applying the advance of medicine into bringing up their children is better than the experience of the old. Thirdly, on economic functions of the family, we can see that the process of industrialization has made family and work separate from each other considerably in space, in which production functions of the family also decline or loss and consumer functions are strengthened. This can lead to the family lifestyle is determined by their job or income of family members. The level of consumption has a direct impact on the level of living satisfaction of the family. As for families in rural areas, production and consumption functions are not clearly separated, but if the society takes production for exchange, self- supplied production of the family will decrease. In short, as family business is tend to decrease, the number of salary workers

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcong_nghiep_hoa_va_su_bien_doi_cua_gia_dinh_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan