Công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường: Yêu cầu và phương hướng đổi mới

Thông thường, các nhà lập KH có thể chia nguồn lực (hay nói rộng hơ là tiềm năng nguồn lực) làm 2 nhóm: Nhóm nguồn lực vật chất và nhóm nguồn lực phi vật chất. Nguồn lực vật chất bao gồm: nguồn gắn với đất và không gắn với đất. nguồn gắn với đất, đó là: tự nhiên, đất đai, cơ sở hạ tầng v.v. , nguồn không gắn với đất bao gồm: vốn, lao động. Các nguồn lực phi vật chất gồm có: các yếu tố lịch sử, chính trị, xã hội, vốn nhân lực, thể chế chính sách v.v.

Nguồn lực tự nhiên của quốc gia hay một tỉnh, huyện chỉ có hạn, và việc khai thác bừa bãi những nguồn lực này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường. Nếu không có sự kết hợp khôn ngoan giữa nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác thì sẽ chỉ là sự lãng phí tài nguyên và hy sinh lợi ích của thế hệ tương lai cho những lợi ích thiển cận của thế hệ hiện tại.

Nguồn lực tài chính từ ngân sách thì cũng chỉ có hạn. Với một tỉnh trung bình hiện nay của Việt Nam, nguồn lực này chiếm khoảng 50-60% tổng vốn đầu tư xã hội. Điều đó có nghĩa là nếu chỉ dựa vào nguồn lực ngân sách thôi thì không thể tạo ra bước phát triển đột phá cho tỉnh, nhất là trong điều kiện nguồn lực ngân sách đã tương đối ổn định theo Luật Ngân sách 2002. Như vậy, làm thế nào để có thể khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực khác ngoài ngân sách, đặc biệt là từ khu vực tư nhân là một câu hỏi lớn cần đặt ra. Trong kinh tế thị trường, tỉnh không thể chỉ định khu vực tư nhân phải đầu tư vào ngành này, ngành khác, vùng này, vùng kia. Đó là lựa chọn của bản thân nhà đầu tư, dựa trên sự cân nhắc về khả năng sinh lợi của các dự án đầu tư khác nhau.

 

doc36 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1923 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường: Yêu cầu và phương hướng đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực cho phép để đạt được kết quả cao nhất. Các chỉ tiêu đặt ra trong KH là những định hướng phát triển một số lĩnh vực chủ yếu và cánh thức tác động của Chính phủ mang tính gián tiếp thông qua các chính sách định hướng và các công cụ của chính sách điều tiết vĩ mô. Như vậy, bản chất của KHH phát triển trong nền kinh tế thị trường là tính thuyết phục gián tiếp. Bảng 1: So sánh bản chất của KH trong cơ chế KHH tập trung và cơ chế thị trường Cơ chế KH hoá tập trung Cơ chế thị trường KH mang tính chủ quan duy ý chí: xuất phát từ ý muốn chủ quan của nhà nước, không căn cứ vào tiềm lực thực tế và không gắn với nhu cầu thực sự của nền kinh tế quốc dân KH gắn với thị trường: định hướng sự phát triển dựa trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng (=> khả thi), nhận thức được qui luật (=> khoa học), nắm bắt được nhu cầu (=> thực tiễn), vì thế => vững chắc hơn KH thay thế cho thị trường, vì sự tồn tại của thị trường sẽ phá vỡ những cân đối cứng mà KH đã đề ra. KH bổ sung hỗ trợ cho thị trường: thị trường chỉ giải quyết vấn đề ngắn hạn, riêng lẻ, vì lợi ích cục bộ. KH có cái nhìn dài hạn, mang tính đón bắt, vì lợi ích chung, toàn cục. KH mang tính mệnh lệnh: giao chỉ tiêu và cấp phát nguồn lực, đồng thời chỉ định cả địa chỉ tiêu thụ KH mang tính định hướng: Hoạt động như bộ khung làm cơ sở để hoạch định các chính sách đòn bẩy và các biện pháp gián tiếp để thực hiện định hướng KH thiếu tính linh hoạt: vì là pháp lệnh nên mang tính cứng nhắc, mọi sự điều chỉnh KH chỉ là hình thức. KH mang tính linh hoạt. Khi các điều kiện thị trường thay đổi thì KH cũng sẽ có sự điều chỉnh theo. Chính vì sự khác biệt về bản chất đó của KH trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự đổi mới về cơ bản công tác KHH, từ tư duy đến qui trình và phương pháp lập KH. Việt nam hiện nay đang thực hiện quá trình cải cách kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công tác KH cũng đang được chuyển đổi phù hợp từ cơ chế KH tập trung sang KH định hướng phát triển, với ba nội dung chủ yếu: Thứ nhất, chuyển từ cơ chế KHH tập trung phân bổ nguồn lực cho nền kinh tế bao gồm hai thành phần sở hữu quốc doanh và tập thể là chủ yếu sang cơ chế KHH theo phương thức khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho nền kinh tế đa thành phần sở hữu. Thứ hai, chuyển từ cơ chế KHH trực tiếp mang tính pháp lệnh với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu mang tính chất bao cấp cả đầu vào lẫn đầu ra sang cơ chế KHH định hướng gián tiếp với hệ thống cơ chế chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp. Thứ ba, chuyển từ cơ chế KHH hiện vật, mang tính chất khép kín trong từng ngành, từng địa phương sang cơ chế KHH theo chương trình mục tiêu với sự kết hợp hài hoà giữa các ngành, các vùng, cả bên trong lẫn bên ngoài theo hướng tối ưu hoá và hiệu quả các hoạt động KTXH. Sự khác nhau về hệ thống chỉ tiêu KH Hệ thống chỉ tiêu trong KHPT là thước đo nhiệm vụ và nội dung phát triển KTXH của đất nước trong thời kỳ KH và được sử dụng để thực hiện hành vi điều tiết vĩ mô của nhà nước. Hệ thống chỉ tiêu KHPT được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau, có chức năng và tác dụng phản ánh tính định lượng riêng biệt. Hệ thống chỉ tiêu KH trong nền kinh tế thị trường có những sự khác biệt đáng kể so với cơ chế cũ, xét ở từng góc độ khác nhau. Theo góc độ nội dung KHH, hệ thống chỉ tiêu KH được phân thành: Các chỉ tiêu kinh tế. Hệ thống này bao gồm các mục tiêu về kinh tế cần đạt được như tốc độ tăng trưởng GDP, chuyển dịch cơ cấu ngành, các mục tiêu phát triển vùng và các chỉ tiêu mang tính chất biện pháp như các yếu tố nguồn lực cần thiết cho tăng trưởng, các cân đối vĩ mô chủ yếu cần duy trì trong thời kỳ KH. Các chỉ tiêu xã hội bao gồm các chỉ tiêu về nâng cao phúc lợi xã hội, mức sống đân cư, các chỉ tiêu chất lượng cuộc sống, môi trường tự nhiên và xã hội, chỉ tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN), công bằng xã hội v.v... Các chỉ tiêu lồng ghép các vấn đề xã hội trong phát triển kinh tế. Theo khía cạnh lồng ghép, cả nội dung kinh tế và xã hội đều được phản ánh trong một chỉ tiêu, các mục tiêu kinh tế và xã hội ràng buộc lẫn nhau hoặc mục tiêu xã hội đặt nhiệm vụ cho kinh tế phải giải quyết. Theo lịch sử KHH ở các nước, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, các KHPT thường tập trung chủ yếu vào các chỉ tiêu kinh tế nhằm mục đích thúc đẩy quá trình tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. Khi nền kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định, các mục tiêu xã hội ngày càng được chú trọng nhiều hơn và một xu thế mới là xây dựng các chỉ tiêu mang tính chất lồng ghép.Việc lồng ghép các biến xã hội trong các chỉ tiêu kinh tế, hoặc là một biến xã hội này lồng trong một chỉ tiêu xã hội khác có nhiều tác dụng sẽ cho phép thống nhất được các mục tiêu kinh tế và xã hội, bảo đảm sự ràng buộc lẫn nhau giữa các nội dung kinh tế và xã hội có liên quan, thực hiện thống nhất quá trình điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đứng trên góc độ tính chất quản lý, hệ thống chỉ tiêu KH được chia thành: Các chỉ tiêu pháp lệnh. Đây là các chỉ tiêu sau khi xây dựng được giao cho một đối tượng và địa chỉ cụ thể mang tích chất bắt buộc phải thực hiện. Thông thường các chỉ tiêu pháp lệnh sau khi giao cho các cấp thực hiện có kèm theo thể chế quy định trách nhiệm cụ thể. Các chỉ tiêu hướng dẫn thường là các con số mang tính chất định hướng, thuyết phục, thương lượng, thảo luận nhằm hướng nền kinh tế theo một mục tiêu nào đó và tạo điều kiện chủ động khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phát triển. Các chỉ tiêu dự báo do cơ quan KHH quốc gia xây dựng nhằm dự báo các chỉ tiêu vĩ mô cơ bản mang tính chất dài và trung hạn như lạm phát, thất nghiệp, dân số, phát triển khoa học công nghệ trong và ngoài nước, dự báo biến động thị trường và giá cả, cung, cầu v.v... Xây dựng các chỉ tiêu dự báo giống như tạo ra phông vĩ mô cần thiết giúp các địa phương, ngành và các doanh nhân theo dõi để tự điều tiết hành vi kinh doanh của mình. Trong cơ chế KHH tập trung, vấn đề quan trọng nhất là hình thành hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh. Tuy vậy, xuất phát từ bản chất của KHH phát triển là tính thuyết phục gián tiếp nên quá trình hoàn thiện nó là quá trình chuyển dần từ KHH theo chỉ tiêu pháp lệnh sang KHH bằng hệ thống các chỉ tiêu hướng dẫn và các chỉ tiêu mang tính dự báo. Điều đó bảo đảm cho KH thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, điều tiết thị trường và được tiếp cận theo hướng từ trên xuống. Đứng trên góc độ hình thái biểu hiện, chỉ tiêu KH vĩ mô được được chia thành các cặp sau đây: Chỉ tiêu giá trị và chỉ tiêu hiện vật. Các chỉ tiêu hiện vật xác định mặt vật chất của nền kinh tế. Nó đưa ra khả năng thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa khối lượng sản xuất với khối lượng nhu cầu sản xuất sản phẩm. Các chỉ tiêu giá trị đo lường kết quả tổng hợp của quá trình tái sản xuất như: GDP,GNP, lợi nhuận, tiền công, giá trị vốn sản xuất. Mặt khác, sự liên kết giữa các phần của mục tiêu vĩ mô cũng được thể hiện bằng các chỉ tiêu giá trị như tốc độ tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu trong cân đối vĩ mô, xu hướng phát triển của các ngành, vùng, khả năng chuyển dịch cơ cấu. Theo cách hiểu như trên, các chỉ tiêu hiện vật là đặc trưng của KHH tập trung vì trong cơ chế này, KH cần phải được giao đầy đủ, chi tiết và trở thành pháp lệnh của các ngành, các địa phương. KHH trong nền kinh tế thị trường với chức năng là công cụ điều tiết vĩ mô và định hướng phát triển thì các chỉ tiêu giá trị trở nên phù hợp hơn và có giá trị cao hơn. Một trong những nội dung đổi mới KHH của Việt nam là chuyển trung tâm từ KHH bằng hiện vật sang KHH bằng các chỉ tiêu giá trị, đề cao vai trò của các tổ chức tài chính, ngân hàng. Chỉ tiêu tuyệt đối và các chỉ tiêu tương đối. Các con số tuyệt đối dùng để phản ánh quy mô của nền kinh tế và các nhu cầu nguồn lực và tài chính cần thiết cho việc phát triển; còn các con số tương đối có tác dụng so sánh, đối chiếu và phân tích sự biến đổi trong quá trình phát triển. Để bảo đảm việc theo dõi, điều tiết, thiết lập các cân đối và đặc biệt là thực hiện chức năng hiệu quả KTXH, KH trong nền kinh tế thị trường cần phải sử dụng ngày càng nhiều các chỉ tiêu tương đối. Sự khác biệt trong trình tự xây dựng KH Do có sự khác nhau về bản chất, nội dung và tính chất của KH trong nền kinh tế thị trường với KH trong cơ chế tập trung, nên trình tự xây dựng KH của 2 phương thức này cũng khác nhau: Trong cơ chế KHH tập trung, quy trình lập KH được tiến hành theo phương thức: "Hai lên, ba xuống" tức là: (a) Trung ương giao số kiểm tra xuống cho các bộ, ngành, địa phương (b) dự thảo KH được gửi lên trung ương và bảo vệ KH; (c) trung ương giao KH đã bảo vệ để đơn vị hoàn chỉnh; (d) gửi KH đã hoàn chỉnh lên trung ương để tổng hợp ; (e) trung ương giao KH chính thức cho các đơn vị KH. Quá trình xây dựng như vậy thường bị chi phối bởi cả những mong muốn chủ quan của các cấp lãnh đạo và những người xây dựng KH và trong nhiều trường hợp, KH thiếu khách quan và mang tính áp đặt. Quy trình này hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế dựa trên cơ sở công hữu tư liẹu sản xuất. Quy trình xây dựng KH hiện nay được đổi mới dựa trên nền tảng: KH của địa phương hay của ngành là KH mang tính độc lập, không phải là cụ thể hoá phần việc mà địa phương giao cho mình mà nó là KH của địa phương, do địa phương xây dựng và để thực hiện tại địa phương. Hiện nay, quy trình xây dựng KH địa phương nằm trong khuôn khổ quy trình lập KH quốc gia như sau: + Bước 1: Trên tầm vĩ mô, Bộ KHĐT xây dựng khung định hướng phát triển KTXH của quốc gia, trong đó bao gồm: Tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu ngành, tốc độ tăng trưởng kinh tế của ngành, mục tiêu về phát triển các lĩnh vực xã hội và môi trường, xác định các cân đối lớn như: Vốn đầu tư, ngân sách, cân đối thanh toán quốc tế, cân đối xuất - nhập khẩu, cân đối vật tư, hàng hoá v.v... và hệ thống các giải pháp thực hiện. + Bước 2: Sau khi tính toán tổng thể, Bộ KHĐT sẽ tổ chức hội nghị phổ biến khung định hướng cho các địa phương và những những thông tin cần thiết để các địa phương trên cơ sở đó đánh giá lại nguồn lực phát triển của mình mà xây dựng KHPT của ngành và địa phương mình. + Bước 3: các địa phương xây dựng KH của địa phương mình căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương, những mục tiêu cần phấn đấu của địa phương và những đề xuất của các tổ chức cộng đồng. + Bước 4: các địa phương gửi KH của mình cho Bộ KHĐT và trên cơ sở đó Bộ KHĐT sẽ tổng hợp, phân tích, lựa chọn các phương án tối ưu để hoàn thành KH toàn diện, báo cáo và trình Quốc hội. Để bảo đảm kịp thời về tiến độ, bước 3 có thể làm trước, đồng thời cùng với các bước 1, 2 để sau khi có các thông tin từ phía Bộ KHĐT thì quá trình xây dựng KH ở các địa phương có thể thực hiện được kịp thời. Những tiếp cận mới trong công tác KH Những khác biệt nêu trên trong của công tác KH trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi bản KH phải tiếp cận đến những hướng mới như sau: KH mang tính chiến lược Nội dung của bản KH theo cơ chế cũ bao gồm nhiều chỉ tiêu chi tiết, toàn diện, tuy vậy nó chủ yếu là mang tính tác nghiệp, cụ thể hoá các chỉ tiêu chung của nhà nước bằng các chỉ tiêu pháp lệnh giao cho các cấp địa phương. Điều này không thể thực hiện được trong cơ chế thị trường và không phù hợp cới cơ chế thị trường. Bởi vì: Hoạt động của cơ chế thị trường có một nhược điểm lớn là tính thiển cận, chú trọng quá mức vào những lợi ích ngắn hạn, trước mắt mang tính cá nhân, mà thiếu mất cái nhìn tổng thể, theo đuổi những lợi ích dài hạn mang tính xã hội (hoặc cộng đồng). Tỉnh, huyện với tư cách là người đại diện chăm lo lợi ích cho toàn thể nhân dân trên địa bàn, không chỉ thế hệ hôm nay mà còn cả mai sau, thì không thể chấp nhận tầm nhìn ngắn hạn như vậy. Thay vì thế, tỉnh cần điều hành nền kinh tế địa phương theo định hướng phát triển lâu dài và sử dụng những công cụ có sẵn trong tay, trong đó có KH, để điều chỉnh sự vận động của cả nền kinh tế đi theo định hướng đã chọn. Nền kinh tế thị trường thường xuyên biến động, nó chịu tác động rất lớn bởi các nhân tố bên trong và bên ngoài. Trong nền kinh tế thị trường, những yếu tố cơ hội, thách thức thường xuyên xuất hiện rồi mất đi. Thậm chí, thị trường còn được coi là một chiến trường, xuất hiện các yếu tố địch – ta, mạnh – yếu. Điều đó đòi hỏi làm KH phải cập nhật được thường xuyên những yếu tố ấy, dự kiến trước được những yếu tố sẽ xuất hiện để xác định những mục tiêu mang tính dài hạn cần đạt tới và cách đi tối ưu cho quá trình phát triển các địa phương. Như vậy, bản KH phải tiếp cận theo hướng mới, đó là: KH phải giảm phần định lượng, tăng phần định tính, KH phải thể hiện được tầm nhìn chiến lược dài hạn – trung hạn của địa phương, trên cơ sở đánh giá đúng thực chất xuất phát điểm của tỉnh nhà, chứ không nên quá chú trọng đến điều hành sự vụ hàng năm. Nội dung cụ thể của tầm nhìn chiến lược đó là cần phải trả tới được những câu hỏi: Hiện nay chúng ta đang đứng ở đâu? chúng ta muốn đi tới đâu? (các mục tiêu chiến lược) trong tương lai; Làm thế nào để đi tới? (cách đi tối ưu cho việc đạt được các mục tiêu ấy) và làm thế nào để biết đã đi tới (các tiêu chuẩn, giám sát đánh giá). KH gắn với nguồn lực Để thực hiện được ý đồ chiến lược của mình, tỉnh hoặc huyện cần phải có nguồn lực, bao gồm cả nguồn lực tự nhiên, tài chính, con người và thể chế. Lâu nay, trong lập KH, chúng ta chỉ quan tâm đến nguồn lực tự nhiên và tài chính và trong nguồn lực tài chính cũng chủ yếu đề cập đến nguồn lực từ ngân sách. Tuy vậy, giữa KH và ngân sách vẫn chưa có sự gắn kết thực sự, dẫn đến mục tiêu KH đề ra nhưng không có hoặc không đủ nguồn lực để thực hiện. Điều này làm KH bị xem nhẹ, tình trạng ”KH treo” diễn ra phổ biến, trong khi nguồn lực vốn đã hạn hẹp lại bị dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp. Muốn KH thực sự là công cụ hữu hiệu để quản lý nhà nước thì KH phải gắn với nguồn lực, trong đó không chỉ nguồn lực tự nhiên, vật chất và tài chính, mà tất cả các nguồn lực khác về con người, xã hội - thể chế cũng phải được phát huy tối đa. Thông thường, các nhà lập KH có thể chia nguồn lực (hay nói rộng hơ là tiềm năng nguồn lực) làm 2 nhóm: Nhóm nguồn lực vật chất và nhóm nguồn lực phi vật chất. Nguồn lực vật chất bao gồm: nguồn gắn với đất và không gắn với đất. nguồn gắn với đất, đó là: tự nhiên, đất đai, cơ sở hạ tầng v.v.... , nguồn không gắn với đất bao gồm: vốn, lao động. Các nguồn lực phi vật chất gồm có: các yếu tố lịch sử, chính trị, xã hội, vốn nhân lực, thể chế chính sách v.v... Nguồn lực tự nhiên của quốc gia hay một tỉnh, huyện chỉ có hạn, và việc khai thác bừa bãi những nguồn lực này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường. Nếu không có sự kết hợp khôn ngoan giữa nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác thì sẽ chỉ là sự lãng phí tài nguyên và hy sinh lợi ích của thế hệ tương lai cho những lợi ích thiển cận của thế hệ hiện tại. Nguồn lực tài chính từ ngân sách thì cũng chỉ có hạn. Với một tỉnh trung bình hiện nay của Việt Nam, nguồn lực này chiếm khoảng 50-60% tổng vốn đầu tư xã hội. Điều đó có nghĩa là nếu chỉ dựa vào nguồn lực ngân sách thôi thì không thể tạo ra bước phát triển đột phá cho tỉnh, nhất là trong điều kiện nguồn lực ngân sách đã tương đối ổn định theo Luật Ngân sách 2002. Như vậy, làm thế nào để có thể khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực khác ngoài ngân sách, đặc biệt là từ khu vực tư nhân là một câu hỏi lớn cần đặt ra. Trong kinh tế thị trường, tỉnh không thể chỉ định khu vực tư nhân phải đầu tư vào ngành này, ngành khác, vùng này, vùng kia... Đó là lựa chọn của bản thân nhà đầu tư, dựa trên sự cân nhắc về khả năng sinh lợi của các dự án đầu tư khác nhau. Nguồn nhân lực không phải là nguồn lực bằng tiền có thể trực tiếp huy động ngay vào phát triển, nhưng đây lại là yếu tố quyết định đến mọi sự phát triển trên địa bàn tỉnh, vì con người là tác nhân của sự phát triển, cũng là đối tượng thụ hưởng thành quả của sự phát triển đó. Khi con người được làm việc trong một điều kiện cởi mở, kích thích sáng tạo và được đãi ngộ thoả đáng thì sẽ phát huy được trí tuệ, sáng tạo và sẽ đóng góp lớn nhất cho sự phát triển của tỉnh. Để thu hút nguồn lực này, tỉnh chỉ có thể dựa vào một môi trường chính sách thuận lợi, thân thiện với các nhà đầu tư, nhằm hướng các nhà đầu tư đầu tư vào những lĩnh vực mà tỉnh mong muốn. Muốn vậy, cần có sự đổi mới về thể chế để tạo ra một môi trường như vậy. Thực hiện sự tham gia của các bên trong lập KH Một bản KH mang tầm chiến lược, phải tính đến nhu cầu, nguyện vọng của các nhà đầu tư nói riêng và tất cả các thành phần kinh tế nói chung. Nói cách khác, bản KH đó phải có tính chất cùng tham gia. Đối với KHPT KTXH ở địa phương, các bên liên quan bao gồm: Cấp tỉnh: Bộ KHĐT, Các bộ ban ngành, Chính phủ và quốc hội, UBND, HĐND tỉnh/ thành phố trong tỉnh và các tỉnh trong vùng, Các sở ban ngành trong tỉnh, và trong vùng, UBND các huyện/quận trong tỉnh, Các tổ chức đoàn thể, các thành phần kinh tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh nhà nước và tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các nhà tài trợ, nhân dân trong tỉnh. Cấp huyện: UBND, HĐND tỉnh/thành phố trong tỉnh và các tỉnh trong vùng, Sở KHĐT, UBND và HĐND huyện/quận, các phòng ban ngành trong huyện, và một số huyện trong tỉnh, các tổ chức đoàn thể, các thành phần kinh tế, các tổ chức phi chính phủ và các nhà tài trợ, nhân dân trong huyện. Sự tham gia các bên liên quan vào quá trình lập KHPT KTXH của các cấp tỉnh, huyện, thậm chí phường xã, thôn bản sẽ dẫn đến: Đầu tư có hiệu quả hơn do có sự lựa chọn mục tiêu chính xác đối tượng đầu tư hợp với nguyện vọng và nhu cầu các bên liên quan hay của dân, và qua đó nhà nước sẽ được sự ủng hộ của các bên liên quan trong đó đặc biệt là dân chúng và họ sẽ tạo điều kiện cho việc tiến hành các chủ trương, chính sách của nhà nước được thuận lợi hơn. Chủ trương của Nhà nước là người dân phải được hưởng lợi từ các chỉ tiêu công cộng, do đó các công trình cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng đều phải hợp lòng dân. Các KH dự án đều xây dựng thể chế cụ thể hoá các chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho người dân tham gia lựa chọn công trình, tham gia quản lý và thực hiện triển khai công trình. Các bên liên quan được tham gia, tính trách nhiệm và nghĩa vụ của họ được nâng cao, công trình được duy tu, bảo dưỡng tốt hơn; Sự gắn bó (đoàn kết) cộng đồng tốt hơn; Các hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội dần được đẩy lùi trong dân chúng. Đặc biệt trong hướng tiếp cận này, cần nhấn mạnh sự tham gia từ phía cộng đồng dân cư trong lập KHPT. Điều này có tác dụng: Biến người dân trở thành chủ thể của quá trình lựa chọn và ra các quyết định KHPT. Điều đó bảo đảm cho các KHPT hướng vào dân, phục vụ nguyện vọng của nhân dân, của người nghèo và những tầng lớp yếu trong xã hội, tạo điều kiện cho họ được hưởng lợi nhiều nhất từ các hoạt động phát triển Biến người dân trở thành chủ thể quản lý thực hiện các KHPT. Điều này bảo đảm khả năng huy động tối đa nguồn lực trong dân cư phục vụ quá trình phát triển, bảo đảm sử dụng nguồn lực tốt nhất, tiết kiệm nhất và hiệu quả cao nhất, bảo đảm các tiến độ triển khai thực hiện hoạt động phát triển. Dân tham gia phân bổ nguồn lực thì quyền lợi của dân sẽ nhiều hơn và hạn chế được thất thoát. Dân được tham gia quản lý thì họ sẽ nhận thức được yêu cầu trách nhiệm của họ được nâng cao. Là cơ sở để thực hiện đầu tư của nhà nước, tư nhân hay tiếp nhận viện trợ nước ngoài đúng hướng, có hiệu quả hơn. Hơn thế nữa, người dân sẽ phát huy cao nhất trí tuệ, sự thông minh của mình, hiến nhiều kế hay trong quá trình thực hiện các hoạt động phát triển, quan điểm "dân làm" được thực thi triệt để nhất. Cộng đồng dân cư thông qua các tổ chức của mình sẽ đảm nhận được những công việc mà trước đây không thể làm được, qua đó, trình độ và tính chủ động, tính trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân, của cán bộ cấp cơ sở được nâng cao. Biến người dân trở thành chủ thể sử dụng các thành quả của các KHPT. Điều này bảo đảm tính bền vững , hiệu quả trong sử dụng kết quả của hoạt động phát triển. Chỉ khi nào cộng đồng dân cư và doanh nghiệp thấy tiếng nói của mình được phản ánh trong bản KH, chỉ khi nào mục tiêu phát triển mà tỉnh đề ra đồng thuận với mong muốn của người dân và doanh nghiệp thì khi đó các thành phần này mới thấy bản KH đó là “của họ” và họ mới tích cực cùng chính quyền phấn đấu thực hiện nó. Và cũng chỉ lúc đó, tỉnh mới có thể hy vọng huy động được một cách tối đa nguồn lực tài chính ngoài ngân sách vào đầu tư phát triển. KH mang tính lồng ghép Quan điểm "lồng ghép" trong soạn lập KH đã trở thành khá phổ biến và gắn liền với quá trình đổi mới KHH ở nước ta. Trong thời gian qua, trên thực tế, chúng ta đã có những hoạt động cụ thể triển khai theo quan điểm này, đó là: dự án "Lồng ghép biến dân số vào KHH phát triển ở Việt Nam" (Dự án VIE/97/P15); "Sổ tay xây dựng KHPT bền vững ngành và địa phương" (Dự án VIE/01/021); Dự án lồng ghép Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo (CPRGS) vào lập kế hoạch địa phương (TF 051164) nhằm đưa quan điểm và yêu cầu phát triển bền vững vào lập KH của các ngành và các địa phương khi xây dựng KHPT KTXH 5 năm của Bộ, ngành, địa phương mình; Bộ KHĐT đã đưa ra hướng dẫn cụ thể những yêu cầu lồng ghép CPRGS trong quá trình xây dựng kế hoạch 5 năm 2006-2010, đồng thời phối hợp với Tổ công tác liên ngành CPRGS hỗ trợ các địa phương về nâng cao năng lực xây dựng KHPT KTXH ở địa phương có tính đến yếu tố tăng trưởng và giảm nghèo v.v... Lồng ghép một yếu tổ nào đó trong KH có nghĩa là đưa yếu tố đó vào với tư cách là hạt nhân, là mục tiêu cuối cùng của KH, hướng toàn bộ nội dung của KH theo quỹ đạo của yếu tố này trong quá trình xác định mục tiêu cuối cùng, mục tiêu trung gian, chỉ tiêu kết quả, các yếu tố đầu vào, chương trình hành động và giải pháp tổ chức triển khai thực hiện. Lồng ghép biến dân số trong KHPT tức là phải xem yếu tố dân số (quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số) là đối tượng chính, để từ đó đặt ra những yêu cầu của KHPT KTXH, trong đó đặc biệt gắn với KH về nâng cao múc sống dân cư, KH giáo dục, KH y tế và chăm sóc sức khỏe, KH môi trường. Lồng ghép quan điểm phát triển bền vững trong lập KH tức là phải coi ba yếu tố KTXH và môi trường là nội dung chủ đạo trong thiết kế các chỉ tiêu phát triển ngành, địa phương. Lồng ghép CPRGS vào KH đòi hỏi gắn kết hai yếu tố tăng trưởng và giảm nghèo vào nhau, trong đó mục tiêu giảm nghèo phải được coi là mục tiêu cuối cùng, dài hạn của KH, còn mục tiêu tăng trưởng chỉ là mục tiêu trung gian, là phương tiện để giảm nghèo và nâng cao phúc lợi xã hội. Thực hiện quan điểm lồng ghép trong lập KH có tác dụng rất quan trọng: Đây chính là chính là cách thực thực hiện sự chuyển đổi công tác KHH từ trạng thái mệnh lệnh, nặng nề, trải theo diện rộng, ôm đồm với nhiều chỉ tiêu rời rạc, riêng biệt, mang tính tác nghiệp, hiện vật sang một trang thái năng động hơn, có chủ đề rõ ràng hơn và mang mầu sắc chiến lược phù hợp với điều kiện của kinh tế thị trường. Lập KH theo quan điểm lồng ghép sẽ hướng nguồn lực tập trung vào những vấn đề bức xúc, đột phá và là cơ sở để tổ chức triển khai thực hiện KH dưới dạng các chương trình, dự án mang tính hiệu quả cao. Nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi phải quan tâm nhiều hơn đến mục tiêu cuối cùng của xã hội, trong đó con người là yếu tố trung tâm. Vấn đề cuối cùng mà một nền kinh tế muốn phấn đấu không phải là tăng trưởng kinh tế, không phải là vấn đề chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế hay là phát triển ngoại thương v.v... mà nó phải là đem lại những gì cho con người và duy trì, phát triển nó trong dài hạn như thế nào? Lồng ghép, mà thông thường là lồng ghép những biến xã hội vào trong các KH kinh tế chính là hướng hoạt động kinh tế của đất nước, của địa phương, của ngành vào quỹ đạo phục vụ con người, vì con người, hướng các hoạt động kinh tế vào quỹ đạo của quan điểm hiệu quả KTXH chưa không phải là hiệu quả tài chính hay kinh tế đơn thuần. Cho phép chúng ta có thể giảm bớt được số lượng các chỉ tiêu định lượng trong KH, phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường, nhưng lại không làm giảm tính chất định lượng vốn là bản chất của KH do hướng vào việc thiết kế các chỉ tiêu mang tính lồng ghép, phản ánh nhiều nội dung hơn trong một chỉ tiêu. Các chỉ tiêu lồng ghép sẽ là cơ sở để các nhà KH và quản lý đưa ra được những giải pháp đồng bộ hơn, toàn diện hơn, các giải pháp này có cơ sở để ràng buộc lẫn nhau và thực hiện được các giải pháp này là cơ hội để chuyển nền kinh tế theo hướng chủ đề trọng tâm một cách có hiệu quả nhất. Những bất cập trong lập KH hiện nay và những vấn đề tiếp tục đổi mới Những bất cập trong công tác KH hiện nay ở các cấp Về nhận thức của các bên hữu quan Về phía cán bộ lãnh đạo: Chủ yếu mới chỉ ủng hộ đổi mới trên nguyên tắc, chưa quan niệm đổi mới công tác KH chính là bước ngoặt quan trong trong đổi mới cơ chế và công cụ quản lý điều hành nền kinh tế. Vì vậy, ít có sự quan tâm đến công tác này và thường giao khoán cho cơ quan chuyên trách về KH, chưa làm cho đổi mới KH trở thành hoạt động đồng bộ và mang tính thể chế. Đối với cơ quan chuyên trách về KH: Vẫn chưa có sự nhất quán trong quan điểm và tư duy đổi mới. Vì vậy công việc đổi mới KH vẫn chỉ được xem là “chiến lược dài hạn” mà không có KH

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường- Yêu cầu và phương hướng đổi mới.doc
Tài liệu liên quan