Công tác xã hội - Đánh giá các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi

PHẦN MỞ ĐẦU. .

1.Tính cấp thiết của đề tài. 7

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu . 9

3. Ý nghĩa của nghiên cứu. . 18

4. Câu hỏ i nghiên cứ u. 19

5. Mục đích, nhiẹm vụ . 19

6. Giả thuyết nghiên cứu. 20

7. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu. 20

8. Phạm vi nghiên cứu. 20

9. Cơ sở phương phá p luạ n và phương phá p nghiên cứ u. . 20

10. Cấu trúc đề tài luận văn . 22

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA MÔ HÌNH CHĂM SÓC

NGƯỜI CAO TUỔI THIÊN ĐỨC .23

1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. 23

1.1. Các khái niệm: . 23

1.2. Lý thuyết sử dụng trong đề tài. 25

3. Đặc điểm tâm – sinh lí người cao tuổi và mối quan hệ xã hội của người cao tuổi:

.

4. Quan điểm của Đảng và Bác hồ trong việc chăm sóc sức khỏe người cao tuổi

5. Luật pháp, chính sách liên quan đến người cao tuổi.

6. Tổng quan địa bàn nghiên cứu. .

6.1. Cơ sở vật chất .

pdf30 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 668 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công tác xã hội - Đánh giá các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh dịch vụ chăm sóc NCT ngoài gia đình là rất cần thiết nhằm giảm bớt khó khăn cho các gia đình, giúp cho NCT có nhiều sự lựa chọn hơn và tăng cường vai trò của nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng trong việc chăm sóc NCT ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam còn chưa có công trình điều tra, nghiên cứu nào đi sâu về vấn đề này cả về phương diện lý thuyết và thực tiễn. Việc triển khai điều tra, nghiên cứu các mô 9 hình dịch vụ chăm sóc NCT ngoài gia đình chắc chắn sẽ góp phần cung cấp cơ sở và luận cứ khoa học trong việc xây dựng chính sách xã hội hóa các loại mô hình này trong toàn quốc. Vì những lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Đánh giá các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi” (nghiên cứu tại Trung tâm chăm sóc Người cao tuổi Thiên Đức- Đông Ngạc- Từ Liêm- Hà Nội); đề tài sẽ cung cấp những cơ sở lý luận thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện mô hình chăm sóc, trợ giúp NCT tập trung. 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 2.1. Tổng quan nghiên cứu người cao tuổi và mô hình chăm sóc người cao tuổi trên thế giới Ở châu Âu, những nghiên cứu về NCT được tiến hành từ những năm 1800 với những đề tài như: “Quà tặng các cụ già, bàn về biện pháp để kéo dài cuộc sống”, M.J.Tenon, 1815; Bàn về tuổi thọ loài người và về lượng sống trên thế giới”, P.Fluorons, 1860; “ Tuổi già xanh tươi”, Alexanho, 1919. Những nghiên cứu này cũng tiến hành điều tra về thực trạng cuộc sống của NCT và tình trạng sức khỏe của họ, từ đó đưa ra những biện pháp chăm sóc sức khỏe cho NCT để kéo dài tuổi thọ cũng như giúp NCT có được cuộc sống thoải mái hơn. Tuy nhiên do khuôn khổ của đề tài nên các nghiên cứu này chưa đề cập sâu đến vấn đề chăm sóc người cao tuổi. Để hỗ trợ cho gia đình chăm sóc NCT, Chính phủ nhiều nước đã có chính sách đầu tư và khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ chăm sóc NCT ngoài gia đình. Ở Trung Quốc, nhà nước có nhiều loại hình chăm sóc NCT ngoài gia đình với các hình thức đầu tư khác nhau: Loại hình viện dưỡng lão 100% vốn nhà nước đầu tư được dành riêng cho cán bộ về hưu. Loại hình viện dưỡng lão liên kết giữa nhà nước và nhân dân tham gia: lấy thu 10 bù chi, phần còn thiếu nhà nước bù, dành cho các đối tượng tuổi từ 50 trở lên. Loại hình 100% vốn tư nhân thì kết hợp như một khu phố giành cho người già, có bán hoặc cho thuê phòng ở, có bệnh viện, nhà hàng, chỗ chơi và chỗ học. Những người sức khoẻ yếu có thể thuê hộ lý riêng giúp việc trong phòng. Mô hình dịch vụ chăm sóc người già ngay tại khu phố: dịch vụ này khắc phục tình trạng quá tải của của các viện dưỡng lão, giúp cho con cái có thể hàng ngày vào buổi sáng gửi cha mẹ già đến đó sinh hoạt, giải trí, ăn uống, uống thuốc, kiểm tra sức khoẻ, và đón họ vào buổi chiều. Ưu điểm của mô hình này là giúp cho con cái không mất nhiều thời gian, chi phí không cao và cha mẹ vẫn ở cùng với con cái phần thời gian còn lại trong ngày. Báo cáo kết quả đề tài “ Nghiên cứu xây dựng tiêu chí cho các cơ sở xã hội hoá chăm sóc và nuôi dưỡng người già trên địa bàn TPHCM” (Phạm Hiền, 2008). Ở Singapo, theo The Straits Times, từ những năm 1980, Chính phủ Singapo đã quan tâm đến vấn đề già hoá dân số với những chính sách mở rộng chương trình giáo dục cộng đồng về NCT, giao đất cho các tổ chức phi chính phủ để xây dựng nhà ở cho NCT, nghiên cứu tính khả thi của việc cung cấp các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ tại gia đình cho NCT ốm yếu, giảm thuế thu nhập cho nhân viên chăm sóc NCT. Chính phủ cho rằng hình thành các trung tâm chăm sóc theo ngày là giải pháp tốt hơn cho sự bảo đảm an sinh xã hội cho NCT (New criteria, subsidy cut for nurseing homes, The Straits Times, June 14, 2004). Ở Malaixia, để đối phó với tình trạng suy giảm gia đình mở rộng, nhà nước thực hiện giải pháp chăm sóc NCT dựa vào cộng đồng để có thể đáp ứng nhu cầu chăm sóc của một số lượng lớn NCT không có khả năng sử dụng dịch vụ có trả tiền để thuê chăm sóc hoặc không có điều kiện được chăm sóc ở các nhà dưỡng lão của nhà nước (Ong Fon Sim, 2002). Ở Hàn Quốc, mặc dù nhà nước có chủ trương xây nhà dưỡng lão cho NCT từ năm 1981. Tuy nhiên, cho đến năm 1985, Hàn Quốc vẫn chưa có nhà dưỡng lão 11 chính thức nào. Năm 1989 và năm 1993, Luật phúc lợi của NCT được sửa đổi để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của NCT vốn ngày càng trở nên đa dạng. Theo đó, các dịch vụ như dịch vụ chăm sóc NCT tại nhà và tại cộng đồng bắt đầu thu hút được sự quan tâm của xã hội. Các dịch vụ chăm sóc tại cộng đồng bao gồm: chăm sóc tại nhà theo ngày, trợ giúp các công việc tại nhà, chăm sóc tại nhà trong một thời gian ngắn theo yêu cầu (Sung-Jae Choi 2002). Nhật Bản là quốc gia có hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khoẻ NCT tại cộng đồng rất phát triển, bao gồm dịch vụ tại cơ sở và dịch vụ tại nhà. Trong dịch vụ tại cơ sở có “ nhà dưỡng lão đặc biệt” sử dụng cho NCT có mức độ lão hoá cao, bị khuyết tật, sa sút về trí tuệ. Dịch vụ tại nhà được nhà nước đặc biệt quan tâm vì nó đáp ứng nhu cầu được sống tại nhà của NCT và không tốn chi phí để thiết lập cơ sở vận hành. Dịch vụ tại nhà bao gồm các hình thức: hỗ trợ tư vấn và dịch vụ chăm sóc trực tiếp. Trong dịch vụ chăm sóc trực tiếp có hai loại: dịch vụ đi đến cơ sở để được chăm sóc và dịch vụ chăm sóc tại nhà. Dịch vụ đi đến cơ sở, ví dụ như: Day service center (khoảng 18.500 cụng ty), Short stay (khoảng 6.500 cụng ty) là những dịch vụ mà NCT có thể đến ở tại cơ sở trong một thời gian nào đó trong ngày hoặc ở lại trong một thời gian nhất định. Dịch vụ này giúp cho NCT có thể nhận được sự hỗ trợ và chăm sóc tùy theo mục đích của mình. Ngoài ra, trong thời gian sử dụng, họ đồng thời có thể giao lưu với những NCT khác cũng tập trung tại đây. Điều này có hiệu quả rất lớn, nó được xem như là một cách để giải tỏa cảm giác bị cô lập và tạo niềm vui cho những NCT. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực cho thấy, để đối phó với tình trạng suy giảm gia đình mở rộng, nhà nước thực hiện giải pháp khuyến khích phát triển các hình thức chăm sóc NCT ngoài gia đình theo hướng xã hội hóa. Ở Malaixia, giải pháp chăm sóc NCT dựa vào cộng đồng đã đáp ứng nhu cầu chăm sóc của một số lượng lớn NCT nghèo không có khả năng sử dụng dịch vụ có trả 12 tiền để thuê chăm sóc hoặc không có điều kiện được chăm sóc tại nhà dưỡng lão của nhà nước (Ong Fon Sim,2002). Ở Hàn Quốc, các dịch vụ chăm sóc NCT tại nhà và tại cộng đồng thu hút được sự quan tâm của xã hội, bao gồm các dịch vụ chăm sóc tại nhà theo ngày, trợ giúp các công việc tại nhà, chăm sóc tại nhà trong một thời gian ngắn theo yêu cầu (Sung-Jae Choi, 2002). Ở Trung Quốc có mô hình dịch vụ chăm sóc người già ngay tại khu phố để con cái không phải gửi cha mẹ đến viện dưỡng lão và cũng không phải lo toan nhiều về họ. Nhật Bản là quốc gia có hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khoẻ NCT tại cộng đồng rất phát triển, bao gồm dịch vụ tại cơ sở và dịch vụ tại nhà. Trong dịch vụ tại cơ sở có “ nhà dưỡng lão đặc biệt” sử dụng cho NCT có mức độ lão hoá cao, bị khuyết tật, sa sút về trí tuệ. Dịch vụ tại nhà được nhà nước đặc biệt quan tâm vì nó đáp ứng nhu cầu được sống tại nhà của NCT và không tốn chi phí để thiết lập cơ sở vận hành. Dịch vụ tại nhà bao gồm các hình thức: hỗ trợ tư vấn và dịch vụ chăm sóc trực tiếp (Hirosue Toshiya, 2007)... Nghiên cứu:“Evaluating a community –based participatory research project for elderly mental health care in rural America”(Đánh giá một dự án nghiên cứu có sự tham gia của cộng đồng về chăm sóc sức khỏe (CSSK) tâm thần NCT ở nông thôn Mỹ) của Dean Blevins, Bridget Morton và Rene McGovern. Nghiên cứu này nhằm khám phá bản chất hợp tác của các đối tác trong chương trình CSSK tâm thần cho NCT ở nông thôn. Kết quả nghiên cứu được công bố vào năm 2008. Đây cũng chính là mô hình CSSK cho NCT mà đề tài quan tâm. Nghiên cứu:“Developing Model of Health Care management for the Elderly by Community Participation in Isan”(Xây dựng mô hình quản lý CSSK cho NCT có sự tham gia của cộng đồng tại Isan) của Chanitta Soommaht, Songkoon Chantachon và Paiboon Boonchai. Nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 2 đến tháng 8 năm 2008 tại 7 tỉnh Đông Bắc Thái Lan là Mahasarakham, Roiet, Sakon Nakhon, Nakhon Ratchasima, Bruriram, Surin và Khon kaen bằng phương pháp 13 nghiên cứu định tính. Nghiên cứu đã phân tích và chỉ ra các vấn đề trong quản lý CSSK người cao tuổi tại các cộng đồng ở Isan cả về thể chất lẫn tinh thần. Đồng thời các tác giả cũng tiến hành phân tích sự phát triển của việc CSSK cho NCT là do các tổ chức cộng đồng Isan đảm nhiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc quản lý các tổ chức cộng đồng trong việc CSSK người cao tuổi là phương pháp hiệu quả nhất. Tất cả công dân cao tuổi trong cộng đồng đều đồng ý rằng, việc chăm sóc y tế được cung cấp bởi các tổ chức cộng đồng giúp họ thoải mái và ấm áp hơn. 2.2. Tổng quan nghiên cứu người cao tuổi và mô hình chăm sóc người cao tuổi trên tại Việt Nam Ở Việt Nam, những nghiên cứu xã hội học về NCT mới chỉ được bắt đầu vào những năm 1990 khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường và khi tỷ lệ NCT trong dân số có xu hướng tăng nhanh. Các cuộc điều tra nghiên cứu tập trung chủ yếu vào những nội dung như: quy mô dân số NCT; cơ cấu dân số NCT; về tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, việc làm, thu nhập, điều kiện sinh hoạt, mức sống của NCT; chăm sóc sức khoẻ NCT; phát huy vai trò của NCT. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã góp phần cung cấp những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách xã hội đối với NCT. Đáng chú ý là các công trình sau đây: Theo Bùi Thế Cường trong cuốn sách “ Trong miền an sinh xã hội – những nghiên cứu về người cao tuổi Việt Nam” xuất bản năm 2005, nghiên cứu người cao tuổi trong nghiên cứu xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 1970, các nhà y khoa là những người đầu tiên khai phá lĩnh vực nghiên cứu y học về người cao tuổi. Năm 1970, thành lập chương trình Nghiên cứu Y học Tuổi già và mười năm sau trở thành đơn vị nghiên cứu Y học Tuổi già của Bộ Y tế. [2] Năm 1996 -1997 có hai cuộc điều tra được thự hiện tại hai khu vực với 930 người từ 60 tuổi trở lên ở Hà Nội và 4 tỉnh lân cận vào năm 1996 (Bùi Thế Cường,1996) và ở miền Nam với 840 người cao tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh 14 cùng 6 tỉnh thành lân cận năm 1997. Cuộc điều tra thu thập các thông tin về tuổi, giới tính, nghề nghiệp, cách sắp xếp cuộc sống hộ gia đình... (Trương Sĩ Ánh và cộng sự 1997) Từ năm 2000 trở đi cũng có nhiều nghiên cứu, bài viết về người cao tuổi được tiến hành, có thể kể đến công trình nghiên cứu: Năm 2001 Tổ chức Hỗ trợ quốc tế người cao tuổi (HAI) đã có cuộc nghiên cứu về “Hoàn cảnh của người cao tuổi nghèo Việt Nam” tại 5 điểm là khu ổ chuột TP Hồ Chí Minh, một làng người H’mong tại tỉnh Lào Cai, một làng người Kh’me ở tỉnh Sóc Trăng, một làng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận và một làng người Kinh ở tỉnh Phú Yên. Nghiên cứu trình bày về những thông tin về hoàn cảnh của người cao tuổi nghèo, về những đóng góp chưa được biết đến của họ và những mối quan tâm cũng như kinh nghiệm về nghèo khổ và bị phân biệt của họ. Nghiên cứu sử dụng phương pháp có sự tham gia để khuyến khích người dân nông thôn nghèo, học vấn thấp có thể trao đổi cởi mở bằng ngôn ngữ và nhận thức của chính họ. Nghiên cứu điều tra thực trạng thu nhập và mức sống NCT Việt Nam (Hội NCT Việt Nam, 2005). Nghiên cứu đưa ra thực trạng thu nhập và mức sống của người cao tuổi cả nước. Nghiên cứu này cho thấy mức sống và thu nhập của người cao tuổi còn thấp, nghiên cứu đã đưa ra một số giải pháp để nâng cao mức sống cho người cao tuổi Nghiên cứu “Thực trạng đời sống của người cao tuổi từ 80 trở lên” của tác giả Nguyễn Thế Huệ (NXB văn hóa thông tin, 2010). Nghiên cứu là kết quả dự án nghiên cứu viện nghiên cứu người cao tuổi Việt Nam phối hợp với hội người cao tuổi Việt Nam tiến hành . Nội dung chính đề cập đến thực trạng dời sống người cao tuổi từ 80 trở lên như mức thu nhập, mức độ tham gia bảo hiểm, chế độ của NCT, trợ giúp khi ốm đau. 15 Năm 2004 TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành điều tra ở 7 tỉnh thành trên các vùng miền của cả nước với 557 phụ nữ từ 50 tuổi trở lên được phỏng vấn về các thông tin liên quan đến nhu cầu của phụ nữ cao tuổi và nhận thức của các cấp Hội phụ nữ về các vấn đề liên quan đến NCT trong cộng đồng. Cuộc nghiên cứu về thực trạng bạo lực gia đình tiến hành tại 3 tỉnh Quảng Trị, Phú Yên và Đắk Lắk của Viện nghiên cứu Người cao tuổi do Tiến sĩ Nguyễn Thế Hệ chủ biên [10]. Điều tra năm 2007 của Ủy ban Quốc gia Khảo sát đời sống người cao tuổi tại 72 xã thuộc 8 tỉnh, thành phố với 2.878 người cao tuổi, các thông tin thu thập về tình hình sức khỏe, đời sống vật chất, việc làm, phát huy vai trò người cao tuổi tại địa phương. Trong cuốn " Người cao tuổi và các mô hình chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam" một công trình nghiên cứu phối hợp giữa Ủy ban dân số, Gia đình và Trẻ em với Viện nghiên cứu Truyền thống và phát triển năm 2008 – 2009. Đây là tập hợp nghiên cứu được thực hiện trên 3 thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, với các nhóm đối tượng như: nhóm người cung cấp dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, người sử dụng dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, cán bộ địa phương và cộng đồng. Bên cạnh đó Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển còn tiếp tục triển khai nghiên cứu sâu hơn thông qua quá trình khảo sát các mô hình chăm sóc người cao tuổi tại Huế và Hà Nội, trong đó đặc biệt đã tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi và tọa đàm với đại diện các nhóm xã hội khác nhau, nhằm hoàn thành tốt nhất cho cuộc nghiên cứu. Theo các tác giả của công trình nghiên cứu, người cao tuổi không còn là một vấn đề mới, tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa và mở rộng giao lưu văn hóa thì quan tâm và nghiên cứu người cao tuổi là một nhu cầu không thể thiếu. Đặc biệt trong những năm gần đây nhiều loại hình Dịch vụ chăm sóc người cao tuổi được hình thành và hoạt động, đặc biệt là các mô hình tư nhân, 16 liên kết...đang phát triển khá mạnh tuy nhiên còn chưa có đầu tư hoặc chưa có sự quan tâm của các cấp. Nghiên cứu “Gia đình với người cao tuổi” do nhóm tác giả thuộc vụ gia đình- Bộ văn hóa, thể thao và du lịch xây dựng tài liệu giáo dục đời sống gia đình phần 5 ( NXB văn hóa thông tin, 2010 ). Trong nghiên cứu có phần nhắn mạnh đến vai trò của người cao tuổi trong gia đình, trách nhiệm của người cao tuổi đối với con cháu. “ Người cao tuổi có những ưu, nhược điểm mà người trẻ không thể có đó là kinh nghiệm, trách nhiệm, tình thương vô bờ, luôn dành cho con cháu phần tốt nhất, vì với họ con hay thì được nhờ con. Con dở thì đành phải chịu. Mặc dù, tuổi cao sức yếu nhưng nhiều cụ vẫn tham công tiếc việc, muốn đỡ đần con cháu những việc thường ngày. Nhiều cặp vợ chồng trẻ vẫn phải nhờ vào sức lực, thậm chí kinh tế của cha mẹ trong gia đình. Thêm vào đó người cao tuổi có vai trò quan trọng trong điều hòa cuộc sống. Mỗi nghiên cứu đều hướng đến người cao tuổi, đi sâu vào đời sống của họ, phân tích nhiều vấn đề. Tuy nhiên cái mới mà đề tài hướng đến là phân tích vai trò của nhân viên xã hội trong việc hỗ trợ nâng cao đời sống người cao tuổi về vật chất và tinh thần và đưa ra những giải pháp nhằm chăm sóc tốt hơn cho đời sống người cao tuổi. Năm 2011, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp cùng Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam, Viện nghiên cứu Y – Xã hội học và Công ty Nghiên cứu và Tư vấn Đông Dương tổ chức “Điều tra quốc gia về người cao tuổi Việt Nam” (VNAS), đây là một phần của dự án “Tăng cường các quyền của người cao tuổi thiệt thòi tại Việt Nam” được triển khai bởi Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Kết quả Điều tra quốc gia về người cao tuổi Việt Nam lần đầu tiên được công bố là một cơ sở quan trọng cho các hoạt động nghiên cứu và vận động chính sách đối với người cao tuổi Việt Nam. VNAS thu thập số liệu từ tháng 10 - 17 12/2011 tại 12 tỉnh, thành phố đại điện cho 6 vùng sinh thái của Việt Nam (bao gồm Thái Nguyên, Hưng Yên, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Định, Huế, Đắk Lắk, Đồng Nai, Sóc Trăng, Tiền Giang và TP. Hồ Chí Minh). Hơn 4.000 người đại diện cho nhóm dân số cận cao tuổi và cao tuổi (từ 50 tuổi trở lên) đã được phỏng vấn trong cuộc điều tra này. Số liệu điều tra mô tả các đặc điểm kinh tế, xã hội, tình hình sức khỏe, xu hướng bệnh tật, đời sống vật chất, tinh thần, nhu cầu chăm sóc và được chăm sóc cũng như việc tiếp cận với các chế độ an sinh xã hội và dịch vụ y tế của người cao tuổi Việt Nam. Người cao tuổi được gia đình và xã hội tôn trọng và có đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, các thống kê và nghiên cứu gần đây cho thấy người cao tuổi vẫn thuộc nhóm dân số dễ bị tổn thương và nghèo nhất. Việc xây dựng hệ thống số dữ liệu, số liệu có tính đại diện quốc gia hết sức quan trọng đối với việc nghiên cứu sâu tình hình đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của người cao tuổi để từ đó đề xuất và thực hiện các chính sách thích hợp với quá trình già hóa dân số và cải thiện cuộc sống cho người cao tuổi. Đề tài nghiên cứu: “ Người cao tuổi và các mô hình chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam”(2008), được phối hợp thực hiện giữa Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em với Viện nghiên cứu Truyền thống và phát triển, năm 2008 . Nghiên cứu được thực hiện tại 3 thành phố: Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, với các nhóm đối tượng như: người cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT; người sử dụng dịch vụ chăm sóc NCT; cán bộ địa phương và cộng đồng. Nghiên cứu đã mô tả nhóm NCT với những đặc trưng về nhóm tuổi, sức khỏe, hoạt động vui chơi giải trí Các cuộc điều tra, nghiên cứu nói trên tập trung chủ yếu vào những nội dung như: quy mô dân số cao tuổi; cơ cấu dân số cao tuổi; về tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, việc làm, thu nhập, điều kiện sinh hoạt, mức sống của NCT; chăm sóc sức khoẻ 18 NCT; phát huy vai trò của NCT. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, điều tra đã góp phần cung cấp những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách xã hội đối với NCT. Nhìn chung, ở nước ta hiện nay, đã xuất hiện một số loại mô hình chăm sóc NCT, đó là: Mô hình chăm sóc NCT tại gia đình, tại cộng đồng; Mô hình chăm sóc NCT của tư nhân; Mô hình chăm sóc NCT của các tổ chức tôn giáo và Trung tâm bảo trợ xã hội của Nhà nước, trong đó, Trung tâm bảo trợ xã hội của Nhà nước có ở 61/63 tỉnh, thành phố; Có tỉnh có đến 3 hoặc 4 Trung tâm, được Nhà nước cấp kinh phí. Hai loại mô hình còn lại hiện chưa nhận được sự quan tâm của Nhà nước. Việc nghiên cứu các loại mô hình này đến nay còn quá ít. 3. Ý nghĩa của nghiên cứu. 3.1 Ý nghĩa khoa học Vận dụng các phương pháp và kỹ năng như quan sát, phân tích tài liệu, so sánh, thảo luận nhóm tập trung vào xem xét đánh giá mô hình. Đây là những phương pháp và kỹ năng cần thiết cho mỗi nhân viên Công tác xã hội trong quá trình tiến hành nghiên cứu cũng như thực hành ngành nghề của mình. Việc đưa các phương pháp này vào thực tiễn không những giúp nhân viên công tác xã hội thu nhận được những thông tin cần thiết cho nghiên cứu mà còn cho thấy được nhưng ưu điểm, hạn chế của từng phương pháp, khả năng ứng dụng chúng trong những trường hợp cụ thể và cách thức phối hợp hài hòa các phương pháp, kỹ năng với nhau. Bên cạnh các phương pháp, kỹ năng việc sử dụng các lý thuyết hệ thống, thuyết nhu cầu để phân tích cơ cấu, chức năng, cách thức hoạt động của mô hình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn 19 Giúp cán bộ trung tâm có những kiến thức chuyên môn đúng đắn về ngành nghề, hỗ trơ ̣đối tượng người cao tuổi đaṭ hiêụ quả cao hơn , nhận thức được hoạt động nuôi dưỡng không chỉ là chăm sóc về y tế, nuôi dưỡng mà cùng với việc tham vấn, tư vấn nhằm mang laị cuôc̣ sống tinh thần tốt đep̣ cho người cao tuổi Nghiên cứu chỉ ra cách thức hoạt động, cơ cấu và những vấn đề liên quan đến mô hình chăm sóc người cao tuổi, một mô hình trợ giúp hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam, đặc biệt cho thấy điểm mạnh, hạn chế của nó. Từ đó đề xuất những hướng phát triển, chỉ ra khả năng nhân rộng mô hình chăm sóc người cao tuổi trong thực tế hiện nay và rút ra kinh nghiệm về xây dựng mô hình, góp phần đóng góp cho hoạt động thực tế công tác xã hội. Mặt khác, việc nghiên cứu hoạt động của trung tâm chăm sóc người cao tuổi, sẽ góp phần cung cấp cho Công tác xã hội một mô hình tham khảo có giá trị trong quá trình xây dựng và phát triển thành mô hình dịch vụ. Nghiên cứu còn có ý nghiã quan troṇg trong công tác tuyển duṇg nhân sư ̣ . Ban lañh đaọ se ̃có cái nhìn đúng đắn và tuyển đúng ngà nh, đúng người nhằm mang laị hiêụ quả hoaṭ đôṇg cao hơn trong mô hình chăm sóc người cao tuổi. Đồng thời, qua việc nghiên cứu đánh giá về mô hình chăm sóc chúng tôi cũng mong muốn có thể góp phần quảng bá và giới thiệu địa chỉ hỗ trợ này tới nhiều người hơn, đặc biệt là những đối tượng cần giúp đỡ để họ có thể tìm thấy sự trợ giúp một cách kịp thời. 4. Câu hỏi nghiên cƣ́u Công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi được thực hiện như thế nào tại trung tâm chăm NCT Thiên Đức? Những yếu tố nào tác động tới công tác chăm sóc sức khỏe? 5. Mục đích, nhiêṃ vu ̣ 5. 1. Mục đích 20 Nghiên cứu các dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại trung tâm, đánh giá các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi những mặt đạt được chưa được trong việc chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại trung tâm, những yếu tố tác động. 5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Tìm hiểu các dịch vụ cung cấp cho NCT tại trung tâm. Tìm hiểu những yếu tố tác động tới công tác chăm sóc sức khỏe NCT gồm: Tài chính, nguồn nhân lực, phản hồi khách hàng, giá trị công tác xã hội. 6. Giả thuyết nghiên cứu. Các dịch vụ chăm sóc cho người cao tuổi còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Những yếu tố tác động tới công tác chăm sóc sức khỏe NCT gồm: Tài chính, nguồn nhân lực, phản hồi khách hàng, giá trị công tác xã hội. 7. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 7. 1. Đối tượng nghiên cứu Các dịch vụ cung cấp cho người cao tuổi tại trung tâm chăm sóc người cao tuổi Thiên Đức 7.2. Khách thể nghiên cứu Toàn bộ cán bộ hiện đang làm việc tại trung tâm. Những người cao tuổi sống tại trung tâm 8. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Trung tâm chăm sóc sức khỏe Thiên Đức xóm 3- Đông Ngạc- Từ Liêm- Hà Nội - Phạm vi thời gian: Từ ngày 01/12/2015 đến ngày 11/10/2016 9. Cơ sở phƣơng pháp luâṇ và phƣơng pháp nghiên cƣ́u. 9.1 Cơ sở phương pháp luâṇ 21 Với đề tài “Đánh giá các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại trung tâm chăm sóc người cao tuổi Thiên Đức” thì cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nghiên cứu này. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là phương pháp luận để lý giải các hiện tượng, các vấn đề xã hội. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét các sự vật hiện tượng, các vấn đề xã hội có tính lịch sử của nó. Việc nghiên cứu về mô hình chăm sóc người cao tuổi phải được đặt trong bối cảnh lịch sử. 9.2. Phương pháp nghiên cứu - Quan sát. Người nghiên cứu đã thực hiện phương pháp quan sát, tham dự một tháng tại trung tâm Thiên Đức dưới vai trò là nhân viên xã hội. Trong quá trình thực hiện nghiên cứu nhà nghiên cứu tiến hành quan sát thực trạng công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại trung tâm, quan sát buổi sinh hoạt ăn uống, nghỉ ngơi của các cụ trong trung tâm để hiểu hơn về đời sống của các cụ trong trung tâm. Quan sát cuộc sống sinh hoạt của các cụ khi vào trung tâm được hưởng các dich vụ và cách chăm sóc, thái độ phục vụ của cán bộ và nhân viên chăm sóc tại trung tâm. Thông qua các nội dung quan sát trên, nghiên cứu có thể đánh giá được mức độ đáp ứng nhu cầu của mô hình trung tâm chăm sóc người cao tuổi. Những quan sát này góp phần vào sáng tỏ các kết quả nghiên cứu định lượng đã thu thập được. - Phỏng vấn sâu + Đối tượng phỏng vấn: Tiến hành phỏng vấn sâu 11 trường hơp̣ trong đó gồm có: 4 cán bộ, nhân viên, 6 người cao tuổi, 1người nhà NCT. Nôị dung phỏng vấn: 22 Tiến hành hoaṭ đôṇg phỏng vấn sâu với muc̣ đích: - Thu thâp̣ thông tin về các hoạt động chăm sóc sức khỏe, nuôi dưỡng của trung tâm. -Thu thâp̣ các đánh giá , nhâṇ xét của chính cán bô ,̣ nhân viên taị trung tâm và các đối tượng người cao tuổi về những kết quả đạt được, chưa được và giải pháp khắc phục. - Các dịch vụ cung cấp cho người cao tuổi trong trung tâm. - Phân tích tài liêụ Thưc̣ hiêṇ viêc̣ phân tích các tài liêụ về mô hình chăm sóc sức khỏe, nuôi dưỡng người cao tuổi từ nhiều nguồn tài liêụ khác nhau đó là: Sách báo, trang wed, báo cáo quý , báo cao thường niên .v.v.) Từ đó đa ̃có đươc̣ những nhìn nhâṇ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004672_296_2003228.pdf
Tài liệu liên quan