Các đứt gãy cấp 2
Hệ đứt gãy Thuận Hải - Minh Hải (3) là
ranh giới đông nam địa khối Đông Dương, về tây
bắc tiếp giáp với các đới Hàm Thuận - Đa My,
Dầu Tiếng - Vũng Tàu thuộc khối Đà Lạt và đới
Sài Gòn thuộc khối Cần Thơ; về đông nam tiếp
giáp với bể Cửu Long và gờ nâng Côn Sơn - Hòn
Hải, thuộc đông nam thềm lục địa Việt Nam [13].
Đây là hệ đứt gãy có diện phân bố rộng và cấu
trúc phức tạp, bao gồm 2 đứt gãy thành phần
phương ĐB - TN, dốc hướng đông nam, được đặt
tên là Tây Bắc (TB) Thuận Hải-Minh Hải và
Đông Nam (ĐN) Thuận Hải - Minh Hải [5]:
+ Đứt gãy TB Thuận Hải - Minh Hải có
hướng dốc đông nam, theo cơ chế thuận - bằng
trái, với thành phần thuận chiếm ưu thế, tạo ra
các vách đá cao 20-30m, dốc hướng đông nam
ở khu vực Mũi Né - Cà Ná. Về phía tây nam, đứt
gãy chìm dưới lớp phủ trầm tích dày 20-30 m,
tạo ra các trũng sụt với biên độ và quy mô đáng
kể. Vị trí đứt gãy cách đất liền, tại Cà Ná, Liên
Hương, Mũi Né và Kê Gà lần lượt khoảng
12km, 15 km, 13 km và 11 km (Hình 7a, 7b).
+ Đứt gãy ĐN Thuận Hải - Minh Hải bắt
nguồn từ rìa phía đông thềm Phan Rang - Vũng
Tàu. Đứt gãy phát triển hướng ĐB-TN, với các
biểu hiện trên mặt cắt ĐCNPGC cách các mũi
Cà Ná, Liên Hương và Mũi Né tương ứng
khoảng 17 km, 25 km và 28 km. Ở phần đông
bắc, đứt gãy được xác định bởi 9 điểm trượt
thuận hướng đông nam, với biên độ trượt đạt tới
19m. Do còn thiếu các thông tin, đoạn tây nam
của đứt gãy này được giả định có cùng đường
phương và hướng dốc như phần đông bắc.
• Hệ đứt gãy Nam Côn Sơn (4) gồm nhiều
đứt gãy thành phần, bắt nguồn từ phía đông thềm
Phan Rang - Vũng Tàu, qua cụm đảo Phú Quý
tới đới nâng Côn Sơn, tạo ra các cấu trúc sụt bậc
về đông nam. Chúng có cấu trúc phức tạp, bị
phân cắt, dịch chuyển dọc theo các đứt gãy á kinh
tuyến với hoạt tính kiến tạo thể hiện bởi các đới
sụt dạng địa hào, bán địa hào quan sát được trên
các tuyến địa chấn cắt qua đông nam đảo Phú
Quý và các hoạt động động đất, núi lửa dọc theo
hệ đứt gãy [4, 13, 19].
• Hệ đứt gãy Tây Bắc Côn Sơn (5) bao gồm
một số đứt gãy cùng phương, bắt nguồn từ đông
bắc cụm đảo Phú Quý theo hướng tây nam, dọc
theo sườn tây bắc của khối nâng Côn Sơn. Hệ đứt
gãy được xác định khá rõ theo tài liệu trọng lực
và địa chấn dầu khí [17], có hướng dốc tây bắc,
phân cách khối nâng Côn Sơn phía đông nam với
bể Cửu Long phía tây bắc. Dọc theo đứt gãy đã
phát hiện gần 10 điểm có biểu hiện hoạt động
trong Pliocen - Đệ tứ cùng với một số chấn tâm
động đất yếu [4].
11 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm phân bố đứt gãy khu vực thềm biển Vũng Tàu - Phan Thiết theo tài liệu địa chấn, kiến tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(CTĐĐL) theo luận thuyết kiến tạo
mảng [6, 15], bao gồm các cấp cơ bản sau:
- Đứt gãy cấp 1 được xem là ranh giới của
các khối thạch quyển cấp I (các mảng thạch
quyển), hình thành dưới tác động địa động lực
dưới manti. Đó là các đới hút chìm, các đới tách
giãn và các đới chuyển dạng.
- Đứt gãy cấp 2 là đứt gãy nội mảng, ranh
giới giữa các khối thạch quyển cấp II (các vi
mảng), hình thành dưới tác động của trường ứng
suất do tương tác giữa các khối thạch quyển cấp
I gây ra.
- Đứt gãy cấp 3 là đứt gãy sinh kèm hoặc đứt
gãy lông chim của đứt gãy cấp II, đóng vai trò
ranh giới các khối thạch quyển cấp III hình thành
dưới tác động của trường ứng suất do tương tác
của các khối thạch quyển cấp II gây ra.
Theo Cao Đình Triều và nnk [15], các đứt
gãy cấp 2, 3, 4... phân cách các khối thạch quyển
cấp II, III, IV... tương đương với các cấp đứt gãy
1, 2, 3 đang được áp dụng ở Việt Nam. Theo đó,
các đứt gãy cấp 1 được xem là ranh giới giữa các
vi mảng, các miền cấu trúc địa động lực
(CTĐĐL); đứt gãy cấp 2 là ranh giới giữa các
khối CTĐĐL; đứt gãy cấp 3 đóng vai trò phân
cách các phụ khối CTĐĐL; các đứt gãy bậc cao
hơn là ranh giới của các kiến trúc bậc cao.
Mai Thanh Tân và nnk [12], dựa trên hệ
thống đứt gãy được phân cấp nêu trên, cùng với
việc phân tích các tài liệu thăm dò dầu khí, kiến
tạo, địa chất khác đã phân chia 08 đơn vị cấu trúc
kiến tạo Kainozoi trong khu vực nghiên cứu
(hình 2).
17
Hình 2. Sơ đồ phân vùng kiến tạo Kainozoi
khu vực đông nam thềm lục
Việt Nam [12]
Chú giải:
1- Thềm Phan Rang-Vũng Tàu
2- Bể Cửu Long
3- Đới nâng Côn Sơn
4- Địa lũy Hòn Hải
5- Bể Nam Côn Sơn
6- Bể Vũng Mây-Tư Chính
7- Bể Ma Lay-Thổ Chu
8- Vòm nâng Natuna
Các tài liệu, kết quả nghiên cứu nêu trên
được sử dụng làm tiền đề để thực hiện các nghiên
cứu được trình bày trong bài báo này.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp địa chấn - địa tầng trong
nghiên cứu cấu trúc địa chất
Phương pháp địa chấn - địa tầng trong quá
trình phân tích tài liệu địa chấn nghiên cứu cấu
trúc bao gồm các nhiệm vụ sau:
- Phân tích các tập địa chấn, xác định các
ranh giới địa tầng;
- Xác định mối quan hệ giữa các chu kỳ trầm
tích với quá trình dao động mực nước biển;
- Liên kết tài liệu địa chấn với các tài liệu địa
chất - địa vật lý khác;
- Phân tích tướng địa chấn;
- Phân tích môi trường trầm tích và thạch
học.
Việc liên kết tài liệu ĐCNPGC và địa chấn
dầu khí là rất cần thiết trong nghiên cứu trầm tích
Pliocen - Đệ tứ. Tài liệu ĐCNPGC cho phép xác
định các chu kỳ trầm tích và phân chia lát cắt một
cách chi tiết, nhưng hạn chế của tài liệu này là
chiều sâu khảo sát không lớn, chỉ đạt khoảng vài
trăm mét, tối đa là 400 - 500m. Trong khi đó, tài
liệu địa chấn dầu khí có tần số thấp, không
nghiên cứu được tỷ mỉ phần nông của lát cắt,
nhưng độ sâu khảo sát lớn, cho phép phân tích
đặc điểm lát cắt tới đáy Pliocen, đặc biệt là vùng
thềm ngoài, nơi chiều sâu đáy Pliocen đạt tới trên
nghìn mét. Việc liên kết giữa hai loại tài liệu này
cho phép nghiên cứu hoàn chỉnh các thành tạo
trầm tích Pliocen - Đệ tứ, trong đó tài liệu
ĐCNPGC được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu
địa tầng trầm tích Pleistocen giữa - muộn -
Holocen, tài liệu địa chấn dầu khí được sử dụng
để phân tích đặc điểm địa chất Pliocen -
Pleistocen sớm.
2.2.2. Phương pháp địa chấn - địa tầng trong
nghiên cứu các yếu tố kiến tạo trẻ
• Trường sóng địa chấn thể hiện hoạt động
đứt gãy được xác định căn cứ vào sự biến đổi đặc
điểm của trường sóng phản xạ trên các mặt cắt
địa chấn (hình 3). Dọc theo đới phá hủy, các trục
đồng pha bị đứt đoạn và dịch chuyển có hệ thống
theo một hướng xác định và thường có sự tương
đồng với nhau về độ sâu, biên độ cũng như các
đặc trưng hình học khác. Các phá huỷ kiến tạo có
hình dạng, thế nằm, giới hạn trên và dưới tương
tự nhau xuất hiện trên các tuyến gần nhau được
liên kết trên bản đồ để xác định sự phát triển của
chúng trong không gian. Đường nối các điểm
biểu hiện đứt gãy có các đặc điểm tương đồng
(về đường phương và hướng dốc) được xem là
một phương án liên kết đứt gãy theo tài liệu địa
chấn.
Hình 3. Biểu hiện của hoạt động đứt gãy gây
sụt-trượt đáy biển theo tài liệu ĐCNPGC [5]
18
Việc phân tích tương quan không gian - thời
gian giữa đứt gãy với đặc điểm biến dạng của các
tập trầm tích Pliocen - Đệ tứ liền kề, cho phép
đánh giá sơ bộ thời gian hoạt động của đứt gãy.
Khi đó, các đứt gãy cắt qua và làm biến dạng tầng
trầm tích Pliocen - Đệ tứ được xếp vào loại đứt
gãy trẻ; các đứt gãy cắt qua và làm biến dạng
trầm tích Holocen tới bề mặt đáy biển được xem
là đứt gãy hiện đại.
Trường sóng liên quan đến các hoạt động
bazan, núi lửa được nhận dạng thông qua các đặc
điểm sau:
- Tồn tại thể địa chấn dạng sóng "trắng", chỉ
chứa các mặt phản xạ ngắn, hỗn độn liên quan
với phông nhiễu ngẫu nhiên với các biên độ sóng
phản xạ mạnh từ trên nóc.
- Các ranh giới kề áp liên quan với các lớp
trầm tích trẻ phủ kề áp vào sườn khối phun trào
dốc đứng.
- Tồn tại các trục đồng pha uốn cong liên
quan đến sóng tán xạ từ mép của các khối phun
trào.
Việc phân tích tương quan không gian-thời
gian giữa các yếu tố kiến tạo trẻ (đứt gãy, núi lửa)
với đặc điểm biến dạng của các tập trầm tích
Pliocen - Đệ tứ, cho phép đánh giá sơ bộ các
khoảng thời gian hình thành chúng. Các đứt gãy
cắt qua và làm biến dạng tầng trầm tích Pliocen
- Đệ tứ được xếp vào loại đứt gãy trẻ, các đứt gãy
cắt qua và làm biến dạng tầng trầm tích Holocen
tới bề mặt đáy biển được xem là đứt gãy hiện đại.
Các tập trầm tích hình thành trước núi lửa sẽ bị
biến dạng và dịch chuyển một cách có hệ thống
theo sườn. Trường hợp ngược lại, trầm tích phía
ngoài không bị biến dạng, các trục đồng pha song
song nhau với các dấu hiệu kề áp tại sườn núi lửa
(hình 4).
Hình 4. Mặt cắt ĐCNPGC (a) và minh giải địa
chất (b): Các khối bazan xuyên cắt và làm biến
dạng các lớp trầm tích vây quanh phía tây nam
Đảo Phú Qúy [IMGG]
Đối với các vùng thềm lục địa, các số liệu
động đất, núi lửa, phun/thoát khí, các bản đồ cấu
trúc đáy Pliocen, Đệ tứ và các bản đồ đẳng dày
trầm tích Pliocen - Đệ tứ rất cần thiết cho mục
tiêu xác định định lượng các yếu tố kiến tạo trẻ.
Các tài liệu địa chấn dầu khí và động đất
cũng cho thấy biểu hiện của đới đứt gãy Thuận
Hải - Minh Hải cắt trầm tích Holocen và phát
triển tới tận Miocen với các mặt cắt rõ ràng trong
đoạn từ Cà Ná tới Phan Thiết (hình 5). Dọc theo
đứt gãy hiện tại vẫn có biểu hiện hoạt động động
đất với cực đại phát sinh động đất có thể đạt
M=6,1 độ Richter (động đất 1882, 1887 -
NOOA). Nguyễn Đình Xuyên [20] cũng cho
rằng cực đại phát sinh động đất dọc theo đới đứt
gãy có thể đạt 5,1 - 5,5 độ Richter.
Hình 5. Mặt cắt địa chấn dầu khí cắt qua hệ
thống đứt gãy Thuận Hải - Minh Hải [6]
3. Đặc điểm phân bố đứt gãy khu vực thềm
biển Vũng Tàu - Phan Thiết
3.1. Kết quả xác định các biểu hiện đứt gãy
theo tài liệu địa chấn
Số liệu địa chấn (ĐCNPGC và địa chấn dầu
khí) từ các nguồn khác nhau được phân tích chi
Mặt cắt địa chấn qua cấu tạo F theo phương Tây Bắc-Đông Nam
NW SE
F
19
tiết cho mục tiêu xác định hệ thống đứt gãy trong
khu vực nghiên cứu. Tại mỗi một điểm biểu hiện
đứt gãy trên mặt cắt địa chấn, các đặc trưng về
đường phương, hướng dốc của đứt gãy được thể
hiện. Trong thực tế, các tuyến địa chấn có thể
không vuông góc với phương các đứt gãy, mà tạo
thành một góc bất kì nào đó so với chúng. Vì thế,
các đặc trưng quy ước sẽ có những sai khác nhất
định so với thực tế. Tuy nhiên, những sai khác
này sẽ được giảm thiểu trên cơ sở phân tích, liên
kết một số lớn các điểm có các đặc điểm biểu
hiện đứt gãy tương đồng, cho phép xác lập tương
đối tin cậy các phương án liên kết đứt gãy ở khu
vực nghiên cứu.
3.2. Các hệ thống đứt gãy khu vực thềm biển
Vũng Tàu - Phan Thiết
Trên cơ sở phân tích tổng hợp, xác lập các
phương án liên kết đứt gãy theo tài liệu địa chấn
thăm dò, đồng thời liên kết, đối sánh với các bình
đồ đứt gãy đã có theo tài liệu địa chấn [4, 8, 19],
trọng lực [3, 17, 18], địa chất - địa mạo [12], sơ
đồ phân bố đứt gãy hoạt động khu vực thềm biển
Vũng Tàu - Phan Thiết đã được thành lập, bao
gồm 12 đứt gãy: 2 đứt gãy cấp 1 (theo tiêu chuẩn
Việt Nam), 4 đứt gãy cấp 2 và 6 đứt gãy cấp 3.
Đặc điểm cấu trúc, hình thái động học và
hoạt tính kiến tạo của các hệ đứt gãy được mô tả
ngắn gọn theo thứ tự được đánh số trên hình 6.
Hình 6. Sơ đồ phân bố đứt gãy khu vực thềm biển Vũng Tàu - Phan Thiết
(số hiệu đứt gãy theo thứ tự mô tả)
3.2.1. Các đứt gãy cấp 1
• Hệ đứt gãy Kinh tuyến 1090 (KT. 1090) (1)
có chiều dài trên 1000 km, bắt nguồn từ phía nam
đảo Hải Nam, trải dài qua sườn lục địa miền
Trung, phía đông bể Nam Côn Sơn và tiếp tục
phát triển xuống tới eo biển Sunda. Các tài liệu
địa chất - địa vật lý [4, 8, 13] cho thấy, đứt gãy
có chiều sâu xuyên vỏ, được hình thành vào cuối
Mesozoi, biểu hiện hoạt động mạnh trong
Kainozoi. Trong Pliocen - Đệ tứ và hiện đại, đứt
gãy này vẫn có khả năng tiếp tục hoạt động với
các biểu hiện núi lửa, phun khí, sụt - trượt đáy
biển theo các bề mặt trượt dốc hướng đông
[7, 8]. Phía nam đới cắt trượt Tuy Hòa, hệ đứt
gãy này mở rộng theo phương đông-tây, kéo theo
hàng loạt các đứt gãy bậc cao, phân bố trong diện
rộng hàng trăm km [17].
• Hệ đứt gãy Mãng Cầu - Phú Quý (2) được
xem là một đứt gãy thành phần của hệ đứt gãy
KT.1090 [4, 13], có phương á kinh tuyến, dốc
hướng đông, bắt nguồn từ phía đông mũi Cà Ná,
chạy qua phía đông các cụm đảo Phú Quý, Hòn
20
Tro, tiếp tục phát triển dọc theo đường kinh
tuyến 1090E xuống phía nam, qua phía tây đới
nâng Mãng Cầu, bể Nam Côn Sơn. Hệ đứt gãy
được đặt tên là Mãng Cầu-Phú Quý, được phân
tích một cách riêng biệt do vị trí, tầm quan trọng
cũng như các biểu hiện hoạt động phun trào
mạnh trong Pliocen-Đệ Tứ [4, 13, 19]. Trong
khoảng thời gian 1900-2012, tại đây đã xảy ra 8
trận động đất được nhận định có nguồn gốc núi
lửa [13].
3.2.2. Các đứt gãy cấp 2
Hệ đứt gãy Thuận Hải - Minh Hải (3) là
ranh giới đông nam địa khối Đông Dương, về tây
bắc tiếp giáp với các đới Hàm Thuận - Đa My,
Dầu Tiếng - Vũng Tàu thuộc khối Đà Lạt và đới
Sài Gòn thuộc khối Cần Thơ; về đông nam tiếp
giáp với bể Cửu Long và gờ nâng Côn Sơn - Hòn
Hải, thuộc đông nam thềm lục địa Việt Nam [13].
Đây là hệ đứt gãy có diện phân bố rộng và cấu
trúc phức tạp, bao gồm 2 đứt gãy thành phần
phương ĐB - TN, dốc hướng đông nam, được đặt
tên là Tây Bắc (TB) Thuận Hải-Minh Hải và
Đông Nam (ĐN) Thuận Hải - Minh Hải [5]:
+ Đứt gãy TB Thuận Hải - Minh Hải có
hướng dốc đông nam, theo cơ chế thuận - bằng
trái, với thành phần thuận chiếm ưu thế, tạo ra
các vách đá cao 20-30m, dốc hướng đông nam
ở khu vực Mũi Né - Cà Ná. Về phía tây nam, đứt
gãy chìm dưới lớp phủ trầm tích dày 20-30 m,
tạo ra các trũng sụt với biên độ và quy mô đáng
kể. Vị trí đứt gãy cách đất liền, tại Cà Ná, Liên
Hương, Mũi Né và Kê Gà lần lượt khoảng
12km, 15 km, 13 km và 11 km (Hình 7a, 7b).
+ Đứt gãy ĐN Thuận Hải - Minh Hải bắt
nguồn từ rìa phía đông thềm Phan Rang - Vũng
Tàu. Đứt gãy phát triển hướng ĐB-TN, với các
biểu hiện trên mặt cắt ĐCNPGC cách các mũi
Cà Ná, Liên Hương và Mũi Né tương ứng
khoảng 17 km, 25 km và 28 km. Ở phần đông
bắc, đứt gãy được xác định bởi 9 điểm trượt
thuận hướng đông nam, với biên độ trượt đạt tới
19m. Do còn thiếu các thông tin, đoạn tây nam
của đứt gãy này được giả định có cùng đường
phương và hướng dốc như phần đông bắc.
• Hệ đứt gãy Nam Côn Sơn (4) gồm nhiều
đứt gãy thành phần, bắt nguồn từ phía đông thềm
Phan Rang - Vũng Tàu, qua cụm đảo Phú Quý
tới đới nâng Côn Sơn, tạo ra các cấu trúc sụt bậc
về đông nam. Chúng có cấu trúc phức tạp, bị
phân cắt, dịch chuyển dọc theo các đứt gãy á kinh
tuyến với hoạt tính kiến tạo thể hiện bởi các đới
sụt dạng địa hào, bán địa hào quan sát được trên
các tuyến địa chấn cắt qua đông nam đảo Phú
Quý và các hoạt động động đất, núi lửa dọc theo
hệ đứt gãy [4, 13, 19].
• Hệ đứt gãy Tây Bắc Côn Sơn (5) bao gồm
một số đứt gãy cùng phương, bắt nguồn từ đông
bắc cụm đảo Phú Quý theo hướng tây nam, dọc
theo sườn tây bắc của khối nâng Côn Sơn. Hệ đứt
gãy được xác định khá rõ theo tài liệu trọng lực
và địa chấn dầu khí [17], có hướng dốc tây bắc,
phân cách khối nâng Côn Sơn phía đông nam với
bể Cửu Long phía tây bắc. Dọc theo đứt gãy đã
phát hiện gần 10 điểm có biểu hiện hoạt động
trong Pliocen - Đệ tứ cùng với một số chấn tâm
động đất yếu [4].
Hình 7a. Biểu hiện sụt trượt biên độ 19-20m
dọc theo đứt gãy TB Thuận Hải - Minh Hải[5]
Hình 7b. Biểu hiện hoạt động của đứt gãy TB
Thuận Hải - Minh Hải, tạo đới sụt ĐB – TN
ở ngoài khơi tỉnh Bến Tre [5]
21
• Hệ đứt gãy Sông Vàm Cỏ Đông (6) có
hướng dốc tây nam, độ sâu xuyên cắt lớn, phát
triển từ lãnh thổ Cam Pu Chia về phía Biển Đông
và bị chặn bởi đứt gãy sâu ĐN Thuận Hải - Minh
Hải. Trên đất liền, vị trí của đứt gãy là ranh giới
của các dải dị thường trọng lực và từ [6, 13].
Hoạt tính kiến tạo của đứt gãy được phản ánh bởi
sự cắt dịch đáy các tầng trầm tích Đệ tứ đoạn từ
Phước Hưng đến Vàm Láng [6]. Trên thềm lục
địa, hoạt động của hệ đứt gãy tạo nên các trũng
địa hào cùng phương, được lấp đầy bởi các trầm
tích tuổi Pleistocen-Holocen nguồn gốc hỗn hợp
sông biển [3] (hình 8).
Hình 8. Biểu hiện của hệ đứt gãy Vàm Cỏ Đông
trên mặt cắt MC-14 ngoài khơi Bến Tre [3]
• Hệ đứt gãy Tây Phú Quý (8) được xác định
khá rõ theo tài liệu trọng lực [3, 17, 18] và
ĐCNPGC [4, 17, 18, 19]. Hệ đứt gãy có phương
á kinh tuyến, dốc hướng tây, bao gồm một số đứt
gãy cùng phương, bắt nguồn từ khu vực mũi Liên
Hương - Bình Thuận, phát triển hướng nam qua
phía tây đảo Phú Quý và bị chặn ở phía nam bởi
hệ đứt gãy Nam Côn Sơn. Hệ đứt gãy nằm dọc
theo khối bazan phương á kinh tuyến, được phát
hiện khá rõ trên các mặt cắt ĐCNPGC [19].
Ngoài các cấu trúc núi lửa, hoạt tính kiến tạo của
hệ đứt gãy còn được biểu hiện bởi sự có mặt một
số chấn tâm động đất yếu phân bố ở phía tây hệ
đứt gãy [4].
• Hệ đứt gãy Mũi Né - Côn Sơn (9) được xác
định khá tin cậy theo tài liệu địa chấn [19] và
động đất [7, 8], bao gồm một số đứt gãy cùng
phương, dốc hướng đông, phân bố trong khoảng
1080-108040’E. Đứt gãy chính bắt nguồn từ đất
liền, chạy qua đông Mũi Né, qua bể Cửu Long
vào đới nâng Côn Sơn tới phía tây đới nâng
Mãng Cầu. Các đứt gãy thành phần có quy mô
nhỏ hơn, chiều dài từ vài chục đến gần 100 km,
phân bố về hai phía đứt gãy chính.
• Hệ đứt gãy Mũi Kê Gà (10) được xác định
khá rõ theo tài liệu trọng lực [17], địa chấn thăm
dò [4, 19] và số liệu khảo sát trên lục địa [6]. Hệ
đứt gãy này có phương BĐB-NTN, từ khu vực
sông Quao (Nam Trung Bộ), qua rìa đông Mũi
Kê Gà, bể Cửu Long, tiếp tục phát triển hướng
nam tây nam và có thể nhập vào hệ đứt gãy Nam
Côn Sơn ở phía Đông Côn Đảo. Hoạt tính kiến
tạo của hệ đứt gãy thể hiện bởi sự có mặt một số
chấn tâm động đất yếu, M ≤ 3,5, phân bố dọc
theo đới đứt gãy.
• Hệ đứt gãy Đak Mil - Bình Châu (11) được
xác định theo tài liệu viễn thám, địa chất, địa mạo,
ĐCNPGC và địa chấn dầu khí [4, 6, 13]. Hệ đứt gãy
phát triển phương á kinh tuyến qua các khu vực
Đak Mil, Đak Lak, Bình Châu tới bờ biển Bà Rịa-
Vũng Tàu (Phước Bửu), cắt ngang qua bể Cửu
Long xuống phía nam. Hoạt tính kiến tạo của hệ đứt
gãy được minh chứng bởi hai chấn tâm động đất
M ≥3,5 xảy ra trên thềm lục địa dọc theo hệ đứt gãy.
• Hệ đứt gãy Sông Đồng Nai (12) phương á
kinh tuyến, bao gồm một số đứt gãy cùng phương,
từ ven biển Tiền Giang - Vũng Tàu phát triển theo
hướng nam qua rìa tây bể Cửu Long và Nam Côn
Sơn. Biểu hiện của chúng khá rõ trên các mặt cắt
ĐCNPGC và địa chấn dầu khí [19]. Các dải sụt
phương á kinh tuyến ở phía tây bể Nam Côn Sơn
và khối nâng Côn Sơn trên các bản đồ cấu trúc
móng Pliocen - Đệ tứ được cho là hình thành do
hoạt động của hệ đứt gãy này [4, 13].
3.3. Đặc điểm phân bố theo độ sâu của hệ đứt
gãy khu vực nghiên cứu
Các hệ đứt gãy KT.1090, Thuận Hải - Minh
Hải, Nam Côn Sơn và Tây Bắc Côn Sơn được
xác định khá rõ trên móng trước Kainozoi [15].
Hầu hết các nhà địa chấn Việt Nam đều sử dụng
các giá trị độ sâu xuyên cắt khoảng 12 ÷ 20 km
cho hệ đứt gãy này trong các bài toán phân vùng,
đánh giá độ nguy hiểm động đất.
Trong nghiên cứu này, độ sâu đứt gãy khu
vực thềm biển Vũng Tàu - Phan Thiết được đánh
giá theo nguyên tắc địa chấn - kiến tạo: Các trận
động đất mạnh không xảy ra tại đáy đứt gãy, mà
xảy ra tại các điểm cách nó khoảng 2/3 bề dày
tầng hoạt động (độ sâu xuyên cắt của đứt gãy)
[20]. Độ sâu của động đất cực đại h(Mmax), độ sâu
tầng hoạt động H (độ sâu xuyên cắt của đứt gãy
sinh chấn) liên hệ với nhau bởi mối tương quan:
22
h(Mmax)=
2
3
𝐻 + 𝐻′ , (1)
với 𝐻′ là bề dày tầng trầm tích nằm trên móng
kết tinh, trung bình khoảng 1- 3 km tại các vùng
chấn tâm động đất.
Trong khu vực nghiên cứu, động đất chủ
yếu thuộc loại động đất nông, phân bố tại các độ
sâu từ một vài km đến khoảng 20km. Các trận
động đất mạnh với Mmax= 5,1 xảy ra trong hệ
đứt gãy Thuận Hải - Minh Hải vào các năm
1877 và 1884 có độ sâu chấn tiêu khoảng 10 km;
Mmax= 6,1 (1923), trong hệ đứt gãy Mãng Cầu -
Phú Quý ở độ sâu 17 km và Mmax = 5.2÷5.3
(2005, 2007) trong hệ đứt gãy Mũi Né - Côn
Sơn, tại
Sơn, tại các độ sâu 10-12 km [4, 13, 20].
Độ sâu xuyên cắt tính toán đối với 3 hệ đứt
gãy Thuận Hải-Minh Hải, Mũi Né-Côn Sơn và
Mãng Cầu-Phú Quý cho kết quả tương ứng là:
H= 13÷14 km; 15 km và 21 km. So sánh với kết
quả trên hình 9 [15] cho thấy phần đông bắc của
hệ đứt gãy Thuận Hải - Minh Hải cũng bao gồm
2 nhánh phương ĐB-TN, dốc hướng đông nam,
tương tự như kết quả của nghiên cứu này. Độ sâu
xuyên cắt của các hệ đứt gãy khác trong khu vực
nghiên cứu có thể được suy ra từ sự tương đồng
về cấp đứt gãy, cũng như quan hệ không gian
giữa chúng với 3 hệ đứt gãy trên (bảng 1).
Bảng 1. Danh mục các hệ đứt gãy khu vực thềm biển Vũng Tàu - Phan Thiết
TT Hệ đứt gãy Hình thái-động học Ghi chú
(tài liệu tham khảo) Phương Hướng dốc Độ xuyên cắt (km)
Đứt gãy cấp 1
1 KT.1090 AKT Đ 21
2 Mãng Cầu-Phú Quý AKT Đ 21
Đứt gãy cấp 2
3.1
3.2
TB Thuận Hải-Minh Hải
ĐN Thuận Hải-Minh Hải
ĐB-TN ĐN 13÷14
13÷14
12-17 [4, 7, 8, 10, 20]
4 Nam Côn Sơn ĐB-TN ĐN 13 13 [4]
5 Tây Bắc Côn Sơn ĐB-TN TB 13 13 [4]
6 Sông Vàm Cỏ Đông TB-ĐN TN 15 15 [4]
Đứt gãy cấp 3
7 Cà Ná-Vũng Tầu ĐB-TN ĐN 10 10 [4]
8 Tây Phú Quý AKT T 10
9 Mũi Né-Côn Sơn AKT Đ 14÷15 13-15 [4, 7, 8, 13]
10 Mũi Kê Gà AKT Đ 10 10-12 [4, 13]
11 Đak Mil-Bình Châu AKT T 10
12 Sông Đồng Nai AKT T 10
Hình 9. Bản đồ các hệ đứt gãy tại móng trước
Kainozoi [15]
Hình 10. Đặc điểm phân bố theo độ sâu của hệ
đứt gãy Thuận Hải - Minh Hải dọc theo tuyến
AA’ (xem hình 6)
23
Hình 10, từ tây sang đông, trình bày đặc
điểm phân bố theo độ sâu của các đứt gãy Cà Ná-
Vũng Tàu (7), Thuận Hải - Minh Hải (3), Tây
Bắc Côn Sơn (5), Mãng Cầu - Phú Quý (2), Nam
Côn Sơn (4), KT.1090 (1) dọc theo tuyến AA’
(xem hình 6) và một số đứt gãy bậc cao nằm trên
tuyến này. Nửa hình trên biểu diễn sự thay đổi
vận tốc sụt lún dọc theo tuyến - v (mm/năm),
được xác định bởi bề dày tập trầm tích Đệ tứ chia
cho khoảng thời gian tích tụ tập trầm tích này
(1,7 triệu năm).
Đường cong vận tốc sụt lún với các vị trí
phân bố đứt gãy theo tuyến AA’ cho thấy, các
đứt gãy hoạt động bởi cơ chế bằng - thuận (Mũi
Né - Côn Sơn) và thuận - bằng (Cà Ná - Vũng
Tàu, Thuận Hải - Minh Hải, Nam Côn Sơn, Tây
Bắc Côn Sơn) đều nằm trong các khu vực có vận
tốc sụt lún thấp (0,05÷0,12mm/năm), trong khi
các đứt gãy thuận (Tây Phú Quý, Mãng Cầu-Phú
Quý và KT.1090) liên quan đến các khu vực vận
tốc sụt lún cao (0,14÷0,18 mm/năm). Vùng giao
cắt của các đứt gãy Mãng Cầu - Phú Quý, Nam
Côn Sơn và Tây Bắc Côn Sơn trùng với vùng các
giá trị cực đại vmax= 0,16÷0,18 mm/năm, ở các
khoảng cách 105÷130 km từ mũi Kê Gà.
Kết luận
1) Kết quả phân tích các mặt cắt địa chấn
nông phân giải cao và địa chấn dầu khí cho phép
xác định các đặc trưng động học của đứt gãy
(đường phương, hướng dốc, biên độ dịch trượt)
tại 122 điểm khảo sát, tạo cơ sở cho việc xây
dựng các phương án liên kết đứt gãy và thành lập
sơ đồ phân bố đứt gãy khu vực thềm biển Vũng
Tàu - Phan Thiết.
2) Sơ đồ đứt gãy khu vực thềm biển Vũng
Tàu - Ninh Thuận được thành lập trên cơ sở phân
tích, đối sánh kết quả nghiên cứu đứt gãy theo tài
liệu địa chấn với các kết quả nghiên cứu đứt gãy
hiện có theo các nguồn tài liệu khác. Sơ đồ này
bao gồm 12 hệ đứt gãy, phát triển theo 3 hướng
chính là á kinh tuyến (7 hệ đứt gãy), ĐB - TN (4
hệ đứt gãy) và TB - ĐN (1 hệ đứt gãy). Các hệ
đứt gãy được phân cấp dựa vào vai trò khống
chế, chi phối các đơn vị CTĐĐL theo luận thuyết
kiến tạo mảng, bao gồm: 2 đứt gãy cấp 1; 4 đứt
gãy cấp 2 và 6 đứt gãy cấp 3.
3) Hệ đứt gãy Thuận Hải-Minh Hải có diện
phân bố rộng, cấu trúc phức tạp, bao gồm 2 đứt
gãy thành phần Tây Bắc Thuận Hải - Minh Hải
và Đông Nam Thuận Hải - Minh Hải, có phương
ĐB - TN, hướng dốc đông nam, độ sâu hoạt động
13÷14km. Các đứt gãy này hoạt động cơ chế
thuận-bằng trái với thành phần thuận chiếm ưu
thế, tạo các vách cao 20÷30m trong phần phía
đông bắc và các trũng Holocen sâu 20÷24m ở
phần tây nam.
Lời cảm ơn
Bài báo được thực hiện trong khuôn khổ Đề
tài NCKH cấp cơ sở năm 2015 của Phòng Địa
chấn - Viện Địa chất và Địa vật lý Biển, cùng với
sự tham gia tư vấn, cung cấp tài liệu liên quan
của TS. NCVCC. Nguyễn Văn Lương. Tập thể
tác giả xin trân trọng cám ơn các đóng góp, hỗ
trợ quý báu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lê Duy Bách, Cao Đình Triều, Ngô Gia
Thắng, 2007. Kiến tạo, địa động lực Kainozoi
muộn vùng thềm lục địa Đông Nam Việt Nam.
Tuyển tập báo cáo Hội nghị KHKT ĐVL Việt
Nam lần thứ 5, Nxb KH&KT Hà nội, tr. 21-30.
[2]. Nguyễn Biểu & nnk., 2001. Báo cáo kết quả
điều tra địa chất và khoáng sản biển nông ven bờ
0-30m nước Việt Nam tỷ lệ 1/500 000; Lưu trữ
tại Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.
[3]. Trần Tuấn Dũng, 2013. Bằng chứng trọng
lực về đứt gãy Thuận Hải-Minh Hải và hệ thống
đứt gãy trên thềm lục địa Nam Trung Bộ và Nam
Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển.
ISSN: 1859-3097, Vol. 3, tr. 234-240.
[4]. Dương Quốc Hưng & nnk., 2012. Nghiên
cứu trường ứng suất kiến tạo hiện đại, xác định
nguồn gốc các tai biến địa chất trong vùng thềm
lục địa Đông Nam Việt nam, Báo cáo Đề tài
KHCN cấp Viện HL KH và CN Việt Nam, Mã
số VAST 09.02/11-12.
[5]. Dương Quốc Hưng & nnk., 2014. Biểu hiện
của hoạt động kiến tạo trẻ trên thềm lục địa Nam
Việt Nam theo tài liệu địa chấn nông phân giải
cao; Tc. Các Khoa học về Trái Đất, T.36, Số 3,
tr. 329-334.
[6]. Đỗ Văn Lĩnh, 2010. Lịch sử phát triển kiến
tạo Kainozoi lãnh thổ Nam Trung Bộ và mối liên
quan với động đất. Luận án Tiến sỹ, 161 trang,
Đại học Quốc gia Tp. HCM.
24
[7]. Nguyễn Văn Lương & nnk, 2013. Đặc điểm
địa chấn - kiến tạo khu vực thềm lục địa Việt
Nam và lân cận, Tuyển tập báo cáo khoa học, Hội
nghị khoa học địa chất biển toàn quốc lần II, Hà
Nội - Hạ Long 10-12/10/2013, tr. 738-754.
[8]. Nguyễn Văn Lương & nnk, 2014. Đặc điểm
hoạt động kiến tạo trẻ khu vực thềm lục địa và
ven bờ miền Trung Việt Nam, Tạp chí KH và
CN, T.14, Số 4A, , tr. 66-77.
[9]. Phùng Văn Phách & nnk, 2005. Kiến tạo
Kainozoi và sự thành tạo các bể trầm tích Đệ tam
Nam Trung Bộ, Các công trình nghiên cứu ĐC
và ĐVL biển, T.VIII, HN, tr. 29-44.
[10]. Nguyễn Hồng Phương & nnk, 2014.
Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất và
sóng thần tại khu vực Ninh Thuận và lân cận
phục vụ công tác thẩm định địa điểm xây dựng
nhà máy điện hạt nhân, Báo cáo tổng kết đề tà
cấp Nhà nước,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_phan_bo_dut_gay_khu_vuc_them_bien_vung_tau_phan_thi.pdf