Phương thức sống của Bào Ngư thay đổi theogiai
đoạn phát triển của cá thể. ở giai đoạn ấu trùng sống bơi
lội, giai đoạn trưởng thành sống bán cố đinh (Sống bám và
giá thể nhưng có khả năng di chuyển nhờ chân có thể bò).
Bào Ngư có thể bò trên đá nhưng không thể bò trên cát.
Chân bám vào đá rất chắc, đặc biệt khi có kẻ thù. Bào Ngư
là loài sợ ánh sáng do đó ban ngày sống ẩn nấp, ban đêm
mới đi kiếm mồi
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3059 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đặc điểm sinh học, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi một số loài chân bụng có giá trị kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, KỸ THUẬT SẢN XUẤT
GIỐNG VÀ NUÔI MỘT SỐ LOÀI CHÂN BỤNG CÓ
GIÁ TRỊ KINH TẾ
2.1. Một số đặc điểm sinh học
2.1.1. Bào Ngư
a) Hình thái và phân bố
Có 4 loài Bào Ngư phân bố chủ yếu ở biển nước ta.
Chúng được phân biệt thông qua đặc điểm hình thái vỏ và
địa lý phân bố.
Hình 40. Hình thái ngoài của Bào Ngư
Bào Ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor Reeve, 1846): Vỏ
có dạng hình vành tai người, chiều rộng bằng 2/3, chiều cao
bằng 1/4 chiều dài. Thông thường có 3 tần xoắn ốc. Bắt đầu
từ mép vỏ của tần xoắn ốc thứ hai có nhiều gờ nhô sắp xếp
có thứ tự đến tận mép của miệng vỏ, 7 - 9 gờ nhô cuối cùng
đầu không kín, dạng lỗ. Mặt ngoài vỏ gờ xoắn ốc và gờ
sinh trưởng cắt nhau có dạng mặt vải sợi thô. Mặt trong của
vỏ là tầng xà cừ phát triển óng ánh. Thường bắt gặp các cá
thể có vỏ dài 60 - 90 mm. Bào Ngư chín lỗ thường phân bố
ở khu vực biển phía Bắc, nhất là ven đảo Cô Tô, Minh
Châu, Quan Lạn (Quảng Ninh), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng),
sống ở khu vực có độ sâu 5 - 10 m nước, nơi có sóng gió,
đáy đá sỏi, độ muối 25 - 32 ppt, nhiệt độ thích hợp 20 -
28oC.
Bào Ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791): Vỏ dạng
hình bầu dục, có 4 tầng xoắn ốc. Mặt vỏ gồ ghề có nhiều gờ
cong dạng phóng xạ, trong đó có 4 -6 ụ nhô cuối cùng trên
gờ xoắn ốc gần mép vỏ biến thành dạng lỗ. Mặt ngoài vỏ
màu nâu hồng hoặc nâu xám tro có xen lẫn các phiến vân
màu vàng sẫm. Mặt trong vỏ óng ánh kim loại bạc, lồi lõm
tương ứng với gờ phóng xạ mặt ngoài vỏ. Trong quần thể
tự nhiên thường thu được vỏ dài 21 - 85 mm, rộng 14 - 65
mm, cao 9 - 20 mm. Bào ngư bầu dục hầu như phân bố ở
các vùng biển Việt Nam, đặc biệt nhiều ở ven đảo như Phú
Quý (Bình Thuận), Trường Sa (Khánh Hoà), Phú Quốc
(Kiên Giang). Bào Ngư bầu dục thích hợp ở độ muối 30 -
35 ppt, đô sâu 1 -10 m, chất đáy đá sỏi.
Bào Ngư vành tai (Haliotis asinina Linne', 1758): Vỏ dạng
bầu dục dài, dạng tai người, hơi cong lõm ở mặt bụng.
Chiều rộng vỏ bằng 1/2 chiều dài, chiều cao bằng 1/6 chiều
dài; vỏ có 3 tầng xoắn ốc. Số gờ nhô trên vỏ khoảng 30,
trong đó 5-7 gờ nhô cuối cùng dạng lỗ. Gờ sinh trưởng
mịn, sắp xếp khít nhau. Từ đỉnh vỏ dọc theo mặt lưng có 4
gờ xoắn ốc nhỏ mịn. Da vỏ trơn bóng, trên đó có nhiều vân
màu nâu sẫm hoặc vàng dạng hình tam giác sắp xếp không
thứ tự. Mựt trong vỏ tầng xà cừ óng ánh kim loại bạc, trơn
bóng. Thường bắt gặp cá thể dài 50 - 65 mm. Chúng phân
bố hầu hết các vùng biển từ Quảng Nam đến Kiên Giang, ở
độ sâu 10 - 15 m nước, độ muối ổn định 30 - 34 ppt.
Bào Ngư dài (Haliotis varia Linne', 1758): Vỏ hình bầu
dục dài, mặt vỏ gồ ghề có nhiều gờ cong dạng phóng xạ,
trong đó có 5 ụ nhô cuối cùng của gờ xoắn ốc gần mép vỏ
biến thành dạng lỗ. Các đường sinh trưởng phần trước vỏ
thô hơn ở phần sau. Gờ xoắn ốc và đường sinh trưởng cắt
nhau rõ nét. Mặt ngoài vỏ màu đỏ nâu, có pha màu lục
nhạt. Mép nggoài miệng vỏ mỏng, gợn răng cưa. ở cá thể
trưởng thành vỏ có kích thước dài trên 50 mm, rộng 32
mm, cao 12 mm. Chúng phân bố ở ven các đảo, ở độ sâu từ
tuyến hạ triều đến một vài mét nước.
b) Phương thức sống
Phương thức sống của Bào Ngư thay đổi theo giai
đoạn phát triển của cá thể. ở giai đoạn ấu trùng sống bơi
lội, giai đoạn trưởng thành sống bán cố đinh (Sống bám và
giá thể nhưng có khả năng di chuyển nhờ chân có thể bò).
Bào Ngư có thể bò trên đá nhưng không thể bò trên cát.
Chân bám vào đá rất chắc, đặc biệt khi có kẻ thù. Bào Ngư
là loài sợ ánh sáng do đó ban ngày sống ẩn nấp, ban đêm
mới đi kiếm mồi
c) Thức ăn và phương thức bắt mồi
- Thức ăn của Bào Ngư phụ thuộc vào các giai đoạn
sinh trưởng và phát triển của cơ thể:
+ Giai đoạn ấu trùng bánh xe (Trochophora), ấu trùng Diện
bàn (Veliger) không ăn thức ăn ngoài, sinh trưởng dựa vào
nguồn dinh dưỡng noãn hoàng của trứng. Ở Mỹ người ta đã
thành công ương ấu trùng trong nước vô trùng. Tuy nhiên,
theo quy trình truyền thống của Nhật Bản thì ấu trùng Bào
Ngư được ương trong môi trường có cung cấp tảo tươi cho
kết quả tốt hơn.
+ Khi kết thúc giai đoạn ấu trùng phù du chúng chuyển
sang sống bám, ấu trùng bám (Spat) dùng lưỡi sừng để cạp
các tảo san hô (coralline) hoặc lớp chất nhầy trên bề mặt đá
(slime) lấy thức ăn. Chất nhầy trên mặt đá bao gồm các tảo
đơn bào và các vi khuẩn tạo thành. Các loài tảo đơn bào đó
là các loài tảo silic sống đáy như Navicula spp., Nitzschia
spp,...có kích thước nhỏ tới 5 m. Khi miệng của ấu trùng
mở rộng và các cơ quan của cơ thể phát triển, ấu trùng ăn
nhiều tảo đáy. Khối lượng thức ăn tăng đáng kể khi Bào
Ngư con phát triển đến giai đoạn có lỗ hô hấp đầu tiên trên
vỏ. Hoạt bắt mồi lúc này cũng tích cực hơn.
+ Ở Giai đoạn trưởng thành, thức ăn của Bào Ngư là các
loài rong biển (Seaweed) như rong câu (Gracilaria), rong
nâu (Laminaria), rong lục (Ulva), rong mơ (Sargassum).
Thí nghiệm về chọn lọc thức ăn cho thấy, Bào Ngư Nhật
Bản (Haliotis discus Hannai) ăn rong nâu (Laminaria)
53%, rong lục (Ulva) 6% và rong đỏ (Porphyra) 2% (FAO,
1990). Hiệu suất sử dụng thức ăn của Bào Ngư phụ thuộc
vào giống loài, các loại thức ăn và thay đổi theo kích thước
của cơ thể.
d) Đặc điểm sinh trưởng:
Bào Ngư là động vật sinh trưởng chậm. Năm thứ nhất
ưsinh trưởng về kích thước, năm thứ hai sinh trưởng về
phần thân mềm, lớn hơn 4 tuổi là ngừng sinh trưởng
Bào Ngư vành tai có tốc độ sinh trưởng từ 2 - 35,6 mm
trong vòng 6 tháng, 55 mm trong vòng 1 năm và 75 mm
trong 3 năm (Mc Namara, 1995).
Trong điều kiện ương nuôi phòng thí nghiệm, loài Bào Ngư
Nhật Bản (Haliotis discus hannai) có tốc độ sinh trưởng tới
3 cm trong năm đầu tiên, 5,5 cm trong thứ 2; 7,5 cm trong
năm thứ 3 và trong năm thứ 4 là 9,5 cm. Trọng lượng phần
mềm tăng nhanh hơn phần vỏ. Nếu chiều dài vỏ tăng hai
lần thì trọng lượng phần mềm tăng 8 lần (FAO, 1990). Kết
quả nghiên cứu trong điều kiện thí nghiệm của Foster về
loài Bào Ngư Châu âu (Haliotis tuberculata) ở vùng biển
Guernsey cho thấy tốc độ sinh trưởng hàng năm giảm
xuống đáng kể chỉ đạt 50 mm sau 3,5 năm (Foster, 1982).
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của Bào Ngư:
+ Thức ăn: Kết quả nghiên cứu ở Thái Lan cho thấy, Bào
Ngư vành tai nếu chỉ ăn một loại rong câu (Grạcilaria
salicornia) thì tốc độ sinh trưởng sẽ chậm lại 5 tháng tuổi.
Nguồn thức ăn đơn điệu làm thiếu chất dinh dưỡng thiết
yếu cho sinh trưởng của Bào Ngư trong một thời gian lâu
dài. thức ăn rong tảo còn đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển của buồng trứng Bào Ngư. Hai loài rong nâu
(Laminaria và Undaria) là thức ăn có khả năng kích thích
sự thành thục sinh dục của buồng trứng loài Bào Ngư Nhật
Bản (Haliotis discus Hannai). Rong câu chỉ vàng
(Gracilaria verrucosa) cũng kích thích buồng trứng Bào
Ngư vành tai thành thụ sinh dục. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, trong điều kiện nhân tạo, với thức ăn là rau câu chỉ
vàng, Bào Ngư vành tai đã thành thục sinh dục sau 17 - 20
ngày nuôi phát dục.
+ Nhiệt độ nước, một mặt làm tăng khả năng sinh trưởng
của Bào Ngư, mặt khác có thể làm giảm sự sinh trưởng của
chúng. Nhiệt độ tăng cao trùng với mùa vụ sinh sản của
một số loài Bào Ngư. Nghiên cứu của Saika về Bào Ngư
Nhật Bản cho thấy tốc độ sinh trưởng giảm hẳn khi Bào
Ngư sinh sản vào các tháng mùa hè (Saika, 1962). Trong
khi đó, nghiên cứu của Mc Namara về Bào Ngư vành tai ở
Australia chỉ ra tốc độ sinh trưởng của chúng tăng cao về
mùa đông là mùa không sinh sản.
e) Đặc điểm sinh sản
- Giới tính: Bào Ngư vành tai là động vật phân tính
đực cái và quá trình thụ tinh diễn ra ở môi trường nước bên
ngoài cơ thể. Tuyến sinh dục của con đực và con cái bao
bọc quanh tuyến gan và có hình dạng như chiếc sừng trâu
ôm lấy 2/3 cơ khép vỏ. Có thể phân biệt được con đực, con
cái khi tuyến sinh dục thành thục. Khi thành thục sinh dục,
tuyến sinh dục của con đực có màu vàng kem, con cái có
màu xanh lá cây đậm hoặc màu xanh biển.
- Mùa vụ sinh sản: Mùa vụ sinh sản của Bào Ngư thay đổi
tuỳ theo loài và liên quan chặt chẽ đến các điều kiện môi
trường nơi sinh sống. Nghiên cứu cho thấy mùa vụ sinh sản
của Bào Ngư vành tai kéo dài quanh năm, nhưng thời gian
đẻ rộ từ tháng 3 – 4 đến tháng 8 – 9 hàng năm .
- Quá trình phát triển của tuyến sinh dục: Quá trình phát
triển của tuyến sinh dục của Bào Ngư trải qua 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn I: Mắt thường không phân biệt được đực, cái.
Tuyến sinh dục nhỏ, lép, noãn bào nhỏ (10 – 50 m), hình
tròn, có nhân rộng và rõ.
+ Giai đoạn II: Tế bào sinh dục đang phát triển. Bằng mắt
thường có thể phân biệt được đực cái, tuyến sinh dục của
con cái có màu xanh lá cây nhạt, con đực có màu hơi vàng.
Noãn bào có dạng quả lê, cuống dài, nhân rộng to, rõ, kích
thước dao động từ 50 – 100 m. Tinh tử bắt đầu hoạt hoá.
+ Giai đoạn III: Giai đoạn thành thục và đẻ. Tuyến sinh dụ
của con cái có màu xanh lá cây đậm hoặc xanh biển, con
đực có màu vàng kem, căng phồng, mập ở đầu mút và ôm
lấy 2/3 cơ khép vỏ. Đầu tiên tế bào trứng có hình đa giác
nhọn, sau đó tròn, nhân bé lại, mờ, lệch về một bên và Hầu
như tan biến trước khi đẻ. Màng keo dày bao quanh trứng.
Đường kính trứng đạt tới 150 –180 m. Tinh trùng lấp đầy
xoang và hoạt động mạnh.
+ Giai đoạn IV: Giai đoạn đẻ xong. Tuyến sinh dục con
đực, con cái xẹp lại và nhăn nheo. Qua lát cắt mô có thể
thấy trong buồng trứng có các noãn bào chưa thành thục,
trứng gần thành thục và một số ít thành thục, chứng tỏ Bào
Ngư đẻ phân đợt.
- Tế bào sinh dục: Trứng Bào Ngư khi thành thục tròn,
đường kính dao động từ 150 - 180 m, có màng tế bào và
màng keo bao bọc xung quanh. Trứng Bào Ngư có 3 loại:
Trứng bình thường, trứng không có màng tế bào và trứng
không có màng keo. Hai loại trứng cuối cùng chưa thành
thục và khi đẻ ra thường bị bón cục. Loại trứng này ít được
thụ tinh và nếu thụ tinh được thì phôi cũng phát triển không
bình thường. Tinh trùng có đầu dạng cây mác rõ nét và
đuôi dài. Chiều dài của đầu và đuôi tinh trùng là 8 và 50
m. Tế bào tinh trùng hoạt động tích cực ngay sau khi được
phóng ra môi trường nước. Thời gian sống ngoài môi
trường nước, khả năng thụ tinh của tinh trùng liên quan
chặt chẽ đến nhiệt độ nước và mức độ thành thục của tuyến
sinh dục. Tinh trùng và có khả năng thụ tinh sau 2 giờ ở
ngoài môi trường nước có nhiệt độ 26 - 29oC. Tinh trùng
chưa thành thục có cấu tạo đầu chưa định hình, đuôi rất
ngắn, chuyển động khó khăn và chết trong vòng một giờ
sau khi được phóng ra khỏi tuyến sinh dục.
- Tập tính sinh sản: Bào Ngư là động vật phân tính đực cái,
đẻ phân đợt và thụ tinh ngoài. Bào Ngư vành tai thường đẻ
vào buổi chiều lúc tranh tối tranh sáng hoặc vào rạng sáng.
Con đực thường phóng tinh trước và kích thích con cái đẻ
trứng. Sự phóng tinh hoặc đẻ trứng của một cá thể trong
quần đàn thường kích thích các cá thể xung quanh phóng
tinh hoặc đẻ tiếp theo. Con đực thường ở tại chổ phóng
tinh, trong khi đó con cái vừa bò vừa đẻ trứng. Tinh trùng và
trứng đựơc phóng và đẻ ra qua lỗ hô háp thứ 2, thứ 3 ở trên
vỏ. Sự phóng tinh của con đực giống như vệt khói thuốc lá
màu trắng đục lan toả khắp bể đẻ. Con cái đẻ trứng thành
một lớp màu xanh lá cây nhạt trên đáy bể.
f) Quá trình phát triển phôi và biến thái của ấu trùng
Trứng thụ tinh của Bào Ngư vành tai có đường kính
170 – 190 m và bắt đầu tiến hành phân cắt. Sự phân cắt
của trứng Bào Ngư là sự phân cắt hoàn toàn, không đều và
theo kiểu xoắn ốc.
Ở nhiệt độ nước biển 27 - 30oC, sau khi thụ tinh 10 phút,
trứng xuất hiện thể cực thứ nhất và sau đó 15 phút xuất
hiện thể cực thứ 2. Sự phân cắt lần một xảy ra sau 20 - 25
phút, sau 30 phút phân cắt lần 2 và sau 40 - 60 phút phân
cắt lần 3. Kết quả tạo thành 4 phôi bào nhỏ ở cực động vật
và 4 phôi bào lớn ở cực thực vật. Phôi bào phát triển tiếp
tục chuyển qua phôi dâu, phôi nang, và cuối cùng là phôi vị
trong thời gian từ 70 - 120 phút. Sau khi thụ tinh 5 - 7 giờ,
xuất hiện ấu trùng bánh xe (Trocophora). Ấu trùng bánh xe
mới nở có kích thước 180 - 190 m và có đặc tính hướng
quang nên bơi lội tự do ở lớp nước tầng mặt.
Sau 9 - 10 giờ, ấu trùng phát triển vỏ trong suốt và chuyển
sang giai đoạn ấu trùng tiền diện bàn (Veliger). Ở giai đoạn
này, vùng đỉnh đầu của ấu trùng dẹt, diềm tiêm mao có
tiêm mao phát triển dài.
Sau 24 - 27 giờ, xuất hiện ấu trùng diện bàn giai đoạn cuối,
ấu trùng diện bàn giai đoạn này hình thành mắt, xúc tu đầu
và nắp mang.
Sau 29 - 32 giờ, hầu hết ấu trùng diện bàn biến thái, chuyển
qua ấu trùng bám (spat). Ở giai đoạn này diềm tiêm mao
thoái hoá và chân bắt đầu phát triển, ấu trùng bám vào giá
bám và chuyển từ kiểu sống phù du sang sống đáy. Đặc
điểm của ấu trùng ở giai đoạn này là phát triển các xúc tu ở
thùy bên chân và hình thành cơ khép vỏ bám chặt vào gía
bám để ăn khuê tảo đáy và chống lại địch hại.
Sau 30 - 40 ngày, hình thành Bào Ngư con với đặc điểm là
có 1 lỗ hô hấp trên vỏ. Bào Ngư con dài 2,4 mm và có 10
đôi xúc tu ở thùy bên chân.
2.1.2. Ốc Hương
a) Hình thái ngoài
Hình 42. Hình thái ngoài của Ốc Hương
Ốc hương có vỏ mỏng nhưng chắc chắn, dạng bậc thang,
tháp vỏ bằng 1/2 chiều dài của vỏ. Da vỏ màu trắng có
điểm những hàng phiến vân màu tím, nâu, nâu đậm hình
chữ nhật, hình thoi. Trên tầng thân có 3 hàng phiến vân
màu, mỗi vòng xoắn ở tháp vỏ chỉ có một hàng. Miệng vỏ
có hình bán nguyệt, mặt trong vỏ có màu trắng sứ, lỗ trục
vỏ sâu, rõ ràng.
b) Sinh thái và phân bố
Ốc Hương phân bố chủ yếu ở biển nhiệt đới Ấn Độ -Thái
Bình Dương. Biển Ấn Độ có loài Babylonia spirata và loài
Babylonia zeylonica phân bố ở độ sâu 5-20 m nước. Vịnh
Thái Lan có loài Babylonia areolata phân bố ở độ sâu 5 -
15 m. Ngoài ra Ốc Hương còn phân bố ở một số vùng biển
thuộc Srilanca, Trung Quốc và Nhật Bản. Ở Việt Nam Ốc
Hương phân bố rải rác dọc ven biển từ Bắc đến Nam, trong
đó khu vực phân bố chính thuộc các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và đặc biệt nhiều ở
Bình Thuận, Vũng Tàu.
Ốc Hương trưởng thành sống chủ yếu ở nền đáy cát, cát
bùn hoặc cát có pha lẫn vỏ động vật thân mềm. Chúng
thường vùi mình trong đáy và chỉ ngoi lên khi đi kiếm mồi.
Chất đáy cứng như san hô, đá sỏi, vùng đáy bùn hoặc bùn
cát gần cửa sông hoặc bãi bồi không có ốc hương phân bố.
ốc hương con thường bắt gặp ở vùng đáy cát có lớp bùn
mềm trên bề mặt ở độ sâu thấp hơn so với ốc trưởng thành.
Ốc thường vùi tập trung thành đám dày hoặc phân bố rãi
rác dưới lớp cát bề mặt.
c) Đặc điểm dinh dưỡng
Dinh dưỡng của Ốc Hương thay đổi theo giai đoạn
phát triển của cơ thể. Giai đoạn phát triển trong bọc trứng,
ấu trùng dinh dưỡng chủ yếu bằng noãn hoàng. Hoạt động
của cơ quan tiêu hoá chỉ bắt đầu khi ấu trùng veliger nở ra.
Ở giai đoạn này ấu trùng có khả năng ăn lọc các loài tảo
đơn bào kích thước nhỏ như Nannochloropsis oculata,
Chaetoceros mulleri, Chlorella sp.. Hoạt động liên tục của
hai cánh tiêm mao không chỉ giúp ấu trùng bơi mà còn tạo
dòng nước đưa thức ăn vào miệng. Sau một tuần nở ra, ấu
trùng có thể ăn các loài tảo có kích thước lớn hơn như
Platymonas sp.. Giai đoạn biến thái là thời gian ấu trùng
hoàn thiện cơ quan tiêu hoá để thích nghi với đời sống đáy
và phương thức ăn thịt. Thức ăn ưa thích của ốc hương là
động vật thân mềm hai vỏ (Trai, Sò, Nghêu, sút, mực...),
các loài giáp xác (tôm, cua, ghẹ...), cá. Hệ số thức ăn dao
động tuỳ thuộc vào môi trường nuôi, loại thắc ăn sử dụng
và giai đoạn sinh trưởng, từ 3,5 - 7,2% (trung bình 5,2%).
Lượng thức ăn tiêu thụ trên ngày dao động từ 5 - 22%
(trung bình 12%) tuỳ thuộc vào loại thức ăn ưa thích và
điều kiện môi trường nuôi.
d) Đặc điểm sinh trưởng
Sinh trưởng của Ốc Hương thể hiện qua sự lớn lên về
kích thước vỏ và trọng lượng cơ thể. Trong diều kiện bình
thường sinh trưởng diễn ra một cách liên tục. Tuy nhiên sự
lớn lên của Ốc Hương phụ thuộc vào giai đoạn phát triển và
nhóm kích thước.
- Theo giai đoạn phát triển:
+ Giai đoạn ấu trùng nổi (veliger): Trong điều kiện nuôi
nhân tạo, tốc độ tăng trưởng bình quân và tỷ lệ tăng trưởng
được xác định là 26,5m/ngày và 3,98%/ngày.
+ Giai đoạn ấu trùng bò lê: ốc bắt dầu lớn nhanh. Tỷ lệ tăng
trưởng bình quân ngày giảm dần ở những ngày tiếp theo.
Nhìn chung so với các loài động vật thân mềm khác Ốc
Hương là loài có tốc độ tăng trưởng nhanh
- Theo nhóm kích thước:Tốc độ tăng trưởng của Ốc Hương
ở các nhóm kích thước khác nhau là khác nhau. Ốc có kích
thước càng nhỏ thì tốc độ tăng trưởng càng nhanh, nhanh
nhất ở nhóm kích thước 1-10 mm và 10-20 mm và chậm
nhất, gần như không đáng kể ở nhóm kích thước trên 40
mm. Điều này phù hợp với quy luật sinh trưởng của động
vật nói chung và động vật thân mềm nói riêng: thời kỳ nhỏ
tăng trưởng nhanh về kích thước, thời kỳ lớn tăng trưởng
nhanh về trọng lượng, thời kỳ thành thục sinh dục hầu như
không tăng trưởng, năng lượng chủ yếu dùng cho tích luỹ
sinh dục và sinh sản.
e) Đặc điểm sinh sản
- Giới tính: Ốc Hương là loài có giới tính phân biệt và
thụ tinh trong. Quan sát vỏ ngoài không thể phân biệt ốc
đực ốc cái. Đặc điểm phân biệt chính để phân biệt giữa con
đực và con cái như sau:
Cơ quan Ốc đực Ốc cái
Cơ quan sinh dục Gai giao cấu Lỗ sinh dục
Tuyến sinh dục Màu vàng cam Màu nâu tối
Tuyến Albumin Không có Có
Tuyến sinh bọc
trứng
Không có Có
ống dẫn tinh Có Không có
Buồng thụ tinh Không có Có
Trong đó 2 đặc điểm dễ quan sát nhất để phân biệt
đực, cái qua hình dạng bên ngoài là:
- Con đực có gai giao cấu ở gốc xúc tu phải, đó là một
nếp thịt có thể co giãn, nối với một ống dẫn nhỏ đi từ tuyến
sinh dục.
- Con cái có lỗ sinh dục ở mặt dưới bàn chân, cách 1/4
chiều dài bàn chân. Tỷ lệ giới tính trung bình được xác
định là 1: 1,49 .
- Kích thước sinh sản lần đầu: Kích thước sinh sản lần đầu
của ốc hương tự nhiên được xác định trong khoảng từ 40-
50 mm chiều cao vỏ và không khác nhau nhiều về kích
thước giữa con đực và con cái. Ốc Hương nuôi trong bể xi
Hình 42. Đặc điểm hình thái giới tính của ốc hương B. areolata
A. ốc đực; B. ốc cái; pn: Gai giao cấu; fo: Lỗ sinh dục
măng từ con giống nhân tạo đẻ trứng lần đầu sau 7 tháng
tính từ khi mới nở ở kích thước 40 -51 mm (trung bình 43,9
mm) đối với con cái và 37 - 49 mm (trung bình 43,9 mm)
đối với con đực.
- Tập tính sinh sản: Trong mùa sinh sản, Ốc thường kết cặp
vào chiều tối và ban đêm trước khi đẻ trứng. Tinh trùng của
con đực theo ống dẫn tinh qua gai giao cấu chuyển sang cơ
thể con cái và giữ lại trong buồng thụ tinh. Trứng thành
thục giai đoạn 4 theo ống dẫn trứng ra buồng thụ tinh và tại
đây gặp tinh trùng và được thụ tinh trước khi đẻ ra ngoài.
Ốc đẻ lần lượt từng bọc trứng và chúng thường vài chục
bọc trong một lần đẻ. Ốc di chuyển dần sau mỗi lần đẻ một
bọc trứng và bọc trứng đẻ ra dính vào đáy cát tạo thành
những dãi bọc trứng liên tiếp. Ốc đẻ trứng vào ban đêm,
cũng có khi bắt đầu vào buổi chiều và kết thúc vào sáng
hôm sau.
Hình thái bọc trứng: Bọc trứng (egg capsules) của Ốc
Hương là một túi trong suốt có hình tam giác ngược, bên
trong chứa đầy trứng và dung dịch Albumin keo nhầy. Phần
cuối của túi trứng dính vào một cuống nhỏ va bám vào đáy
bể bằng một đế bám. Bọc trứng căng phồng dịch có tác
dụng như một phao nổi, cuống nhỏ và dài giữ cho bọc
trứng luôn lơ lững trên tầng đáy và đế bám giữ cho bọc
trứng ở nguyên vị trí không bị dịch chuyển bởi dòng chảy.
Kích thước trung bình của bọc trứng là: Chiều dài tổng
cộng (gồm cả hai phần trứng và cuống) 29,94 mm; Chiều
dài bọc chứa trứng 20,8 mm; chiều rộng bọc trứng 9,75
mm; chiều dài cuống 9,14 mm.
Hình 43. Hình thái của bọc trứng Ốc Hương
A. Bọc trứng mới đẻ , B. Bọc trứng đang nở
- Mùa vụ sinh sản: Ốc Hương có khả năng thành thục
quanh năm. Tỷ lệ thành thục cao nhất đạt từ tháng 3 đến
tháng 10 (60 - 90%). Tháng 11 và tháng 12 tuy vẫn bắt gặp
các cá thể thành thục nhưng tỷ lệ thấp, không đáng kể. Ốc
Hương thường đẻ nhiều nhất vào những đêm thuộc kỳ triều
cường.
- Sức sinh sản: Ốc cái mỗi lần đẻ khoảng từ 18 -75 (trung
bình 38) bọc trứng. Mỗi bọc trứng chứa 168 -1849 trứng
(trung bình 743 trứng). Sức sinh sản tính trung bình cho
một con cái thành thục trong điều kiện tự nhiên là 56424
trứng/lần đẻ. Sức sinh sản trung bình cho một con cái thành
thục trong bể nuôi nhân tạo là 38677 trứng/lần đẻ.
f) Các giai đoạn phát triển phôi và ấu trùng
- Phát triển trong bọc trứng:Trứng thụ tinh có hình
cầu, đường kính trung bình 242 m. Phân cắt tế bào và
phôi kéo dài trong 48 giờ. Phôi vị dạng khối hơi dài, kích
thước trung bình 355 x 255 m. Sau 60 giờ phôi chuyển
sang giai đoạn ấu trùng quay (Trochophora). ấu trùng dài,
có vỏ mỏn và đối xứng hai bên; đĩa tiêm mao hai bên đầu
dày, tiêm mao ngắn, hoạt động quay yếu. Càng về sau vỏ
hình thành rõ hơn, hơi tròn ở đuôi. Đĩa tiêm mao lớn dần,
mỏng như hai cánh bướm, tiêm mao rõ, dài, hoạt động liên
tục, quay nhanh. Kích thước ấu trùng từ 336 - 396 m.
Giai đoạn ấu trùng veliger có chiều dài vỏ 395- 419 m. Vỏ
trong suốt, hình bầu dục hơi xoắn (đỉnh và miệng vỏ nằm
trên một mặt phẳng), có nắp vỏ, hai thuỳ tiêm mao có viền
chấm sắc tố viền đậm có thể nhìn thấy chân nhỏ và hai
điểm mắt. Nội quan dần dần hình thành và mất đối xứng
hai bên. Ấu trùng hoạt động trong bọc trứng. Tỷ lệ thụ tinh
trung bình dạt 85%
- Hoạt động thoát ra khỏi bọc trứng: ở điều kiện nhiệt
độ nước 26-27oC, độ mặn 33-35‰, sau 6 ngày ấu trùng
veliger thoát ra khỏi bọc trứng và phát triển tự do trong môi
trường nước. Đến thời điểm này có một cơ chế sinh hoá
nào đó- chưa xác định được- lỗ thoát (escape aparter) nằm
ở mép trên bọc trứng mở ra, ấu trùng lần lượt rời khỏi bọc
trứng bơi ra ngoài môi trường nước. Thời gian cho toàn bộ
ấu trùng thoát ra khỏi bọc trứng dài khoảng 24 giờ. Do phôi
được bảo vệ và phát triển trong bọc trứng nên tỷ lệ nử khá
cao, đạt 90%. Tuy nhiên khi ấp trứng ở nhiệt độ cao (29-
31oC), ấu trùng nở sớm hơn (sau 5 ngày) nhưng bị dị hình
nhiều, sự xâm nhập của nấm, nguyên sinh động vật làm tỷ
lệ nở thấp hơn.
- Phát triển ấu trùng sau khi thoát ra khỏi bọc trứng:
Cũng như các loài động vật thân mềm chân bụng khác ấu
trùng Ốc Hương phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn ấu
trùng veliger sống trôi nổi và giai đoạn ấu trùng bò lê sống
đáy khác nhau về hình thái cấu tạo, phương thức sống và
hình thức dinh dưỡng bắt mồi.
+ Giai đoạn sống trôi nổi: ấu trùng veliger mới nở có chiều
dài vỏ từ 435 - 440 m, sống phù du và có tính hướng
quang, cơ quan tiêu hoá bắt đầu hoạt động và ấu trùng ăn
được tảo đơn bào. Khoảng 6 -7 ngày sau khi nở có thể nhìn
thấy hai xúc tu, vỏ ấu trùng dày hơn và tầng thân hình
thành một vòng xoắn, kích thước ấu trùng 659 m. ấu trùng
veliger ngày thứ 11 bắt đầu quá trình biến thái vỏ có hai
vòng xoắn, chân dài hơn, hai cánh tiêm mao tiêu dần, hình
thành ống hút nước. Sau khoảng 18 - 20 ngày sống phù du
ấu trùng veliger biến thái thành ấu trùng bò lê có chiều dài
khoảng 1349 m.
+ Giai đoạn sống đáy: ấu trùng bò lê bắt đầu sống đáy bằng
cách thay đổi hình thức vận động, chân phát triển dài ra,
tiêm mao tiêu biến dần. Chúng chuyển tính ăn từ thực vật
sang động vật. Nền đáy cát mịn trở nên quan trọng đối với
ấu trùng để vùi mình. Ngày thứ 3 của giai đoạn này ốc con
đã có màu sắc vỏ, có thể bò theo thành bể lên khỏi mặt
nước, thỉnh thoảng treo ngược mình nổi lên nhờ màng chân
để lấy thức ăn. Chúng ăn liên tục và nhanh lớn, tỷ lệ sống
đạt 80-100% từ 2 tháng trở đi.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 90_6871.pdf