Phương thức sống của Bào Ngư thay đổi theogiai 
đoạn phát triển của cá thể. ở giai đoạn ấu trùng sống bơi 
lội, giai đoạn trưởng thành sống bán cố đinh (Sống bám và 
giá thể nhưng có khả năng di chuyển nhờ chân có thể bò). 
Bào Ngư có thể bò trên đá nhưng không thể bò trên cát. 
Chân bám vào đá rất chắc, đặc biệt khi có kẻ thù. Bào Ngư 
là loài sợ ánh sáng do đó ban ngày sống ẩn nấp, ban đêm 
mới đi kiếm mồi
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3247 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đặc điểm sinh học, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi một số loài chân bụng có giá trị kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, KỸ THUẬT SẢN XUẤT 
GIỐNG VÀ NUÔI MỘT SỐ LOÀI CHÂN BỤNG CÓ 
GIÁ TRỊ KINH TẾ 
2.1. Một số đặc điểm sinh học 
2.1.1. Bào Ngư 
a) Hình thái và phân bố 
 Có 4 loài Bào Ngư phân bố chủ yếu ở biển nước ta. 
Chúng được phân biệt thông qua đặc điểm hình thái vỏ và 
địa lý phân bố. 
Hình 40. Hình thái ngoài của Bào Ngư 
Bào Ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor Reeve, 1846): Vỏ 
có dạng hình vành tai người, chiều rộng bằng 2/3, chiều cao 
bằng 1/4 chiều dài. Thông thường có 3 tần xoắn ốc. Bắt đầu 
từ mép vỏ của tần xoắn ốc thứ hai có nhiều gờ nhô sắp xếp 
có thứ tự đến tận mép của miệng vỏ, 7 - 9 gờ nhô cuối cùng 
đầu không kín, dạng lỗ. Mặt ngoài vỏ gờ xoắn ốc và gờ 
sinh trưởng cắt nhau có dạng mặt vải sợi thô. Mặt trong của 
vỏ là tầng xà cừ phát triển óng ánh. Thường bắt gặp các cá 
thể có vỏ dài 60 - 90 mm. Bào Ngư chín lỗ thường phân bố 
ở khu vực biển phía Bắc, nhất là ven đảo Cô Tô, Minh 
Châu, Quan Lạn (Quảng Ninh), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), 
sống ở khu vực có độ sâu 5 - 10 m nước, nơi có sóng gió, 
đáy đá sỏi, độ muối 25 - 32 ppt, nhiệt độ thích hợp 20 - 
28oC. 
Bào Ngư bầu dục (Haliotis ovina Gmelin, 1791): Vỏ dạng 
hình bầu dục, có 4 tầng xoắn ốc. Mặt vỏ gồ ghề có nhiều gờ 
cong dạng phóng xạ, trong đó có 4 -6 ụ nhô cuối cùng trên 
gờ xoắn ốc gần mép vỏ biến thành dạng lỗ. Mặt ngoài vỏ 
màu nâu hồng hoặc nâu xám tro có xen lẫn các phiến vân 
màu vàng sẫm. Mặt trong vỏ óng ánh kim loại bạc, lồi lõm 
tương ứng với gờ phóng xạ mặt ngoài vỏ. Trong quần thể 
tự nhiên thường thu được vỏ dài 21 - 85 mm, rộng 14 - 65 
mm, cao 9 - 20 mm. Bào ngư bầu dục hầu như phân bố ở 
các vùng biển Việt Nam, đặc biệt nhiều ở ven đảo như Phú 
Quý (Bình Thuận), Trường Sa (Khánh Hoà), Phú Quốc 
(Kiên Giang). Bào Ngư bầu dục thích hợp ở độ muối 30 - 
35 ppt, đô sâu 1 -10 m, chất đáy đá sỏi. 
Bào Ngư vành tai (Haliotis asinina Linne', 1758): Vỏ dạng 
bầu dục dài, dạng tai người, hơi cong lõm ở mặt bụng. 
Chiều rộng vỏ bằng 1/2 chiều dài, chiều cao bằng 1/6 chiều 
dài; vỏ có 3 tầng xoắn ốc. Số gờ nhô trên vỏ khoảng 30, 
trong đó 5-7 gờ nhô cuối cùng dạng lỗ. Gờ sinh trưởng 
mịn, sắp xếp khít nhau. Từ đỉnh vỏ dọc theo mặt lưng có 4 
gờ xoắn ốc nhỏ mịn. Da vỏ trơn bóng, trên đó có nhiều vân 
màu nâu sẫm hoặc vàng dạng hình tam giác sắp xếp không 
thứ tự. Mựt trong vỏ tầng xà cừ óng ánh kim loại bạc, trơn 
bóng. Thường bắt gặp cá thể dài 50 - 65 mm. Chúng phân 
bố hầu hết các vùng biển từ Quảng Nam đến Kiên Giang, ở 
độ sâu 10 - 15 m nước, độ muối ổn định 30 - 34 ppt. 
Bào Ngư dài (Haliotis varia Linne', 1758): Vỏ hình bầu 
dục dài, mặt vỏ gồ ghề có nhiều gờ cong dạng phóng xạ, 
trong đó có 5 ụ nhô cuối cùng của gờ xoắn ốc gần mép vỏ 
biến thành dạng lỗ. Các đường sinh trưởng phần trước vỏ 
thô hơn ở phần sau. Gờ xoắn ốc và đường sinh trưởng cắt 
nhau rõ nét. Mặt ngoài vỏ màu đỏ nâu, có pha màu lục 
nhạt. Mép nggoài miệng vỏ mỏng, gợn răng cưa. ở cá thể 
trưởng thành vỏ có kích thước dài trên 50 mm, rộng 32 
mm, cao 12 mm. Chúng phân bố ở ven các đảo, ở độ sâu từ 
tuyến hạ triều đến một vài mét nước. 
b) Phương thức sống 
 Phương thức sống của Bào Ngư thay đổi theo giai 
đoạn phát triển của cá thể. ở giai đoạn ấu trùng sống bơi 
lội, giai đoạn trưởng thành sống bán cố đinh (Sống bám và 
giá thể nhưng có khả năng di chuyển nhờ chân có thể bò). 
Bào Ngư có thể bò trên đá nhưng không thể bò trên cát. 
Chân bám vào đá rất chắc, đặc biệt khi có kẻ thù. Bào Ngư 
là loài sợ ánh sáng do đó ban ngày sống ẩn nấp, ban đêm 
mới đi kiếm mồi 
c) Thức ăn và phương thức bắt mồi 
 - Thức ăn của Bào Ngư phụ thuộc vào các giai đoạn 
sinh trưởng và phát triển của cơ thể: 
+ Giai đoạn ấu trùng bánh xe (Trochophora), ấu trùng Diện 
bàn (Veliger) không ăn thức ăn ngoài, sinh trưởng dựa vào 
nguồn dinh dưỡng noãn hoàng của trứng. Ở Mỹ người ta đã 
thành công ương ấu trùng trong nước vô trùng. Tuy nhiên, 
theo quy trình truyền thống của Nhật Bản thì ấu trùng Bào 
Ngư được ương trong môi trường có cung cấp tảo tươi cho 
kết quả tốt hơn. 
+ Khi kết thúc giai đoạn ấu trùng phù du chúng chuyển 
sang sống bám, ấu trùng bám (Spat) dùng lưỡi sừng để cạp 
các tảo san hô (coralline) hoặc lớp chất nhầy trên bề mặt đá 
(slime) lấy thức ăn. Chất nhầy trên mặt đá bao gồm các tảo 
đơn bào và các vi khuẩn tạo thành. Các loài tảo đơn bào đó 
là các loài tảo silic sống đáy như Navicula spp., Nitzschia 
spp,...có kích thước nhỏ tới 5 m. Khi miệng của ấu trùng 
mở rộng và các cơ quan của cơ thể phát triển, ấu trùng ăn 
nhiều tảo đáy. Khối lượng thức ăn tăng đáng kể khi Bào 
Ngư con phát triển đến giai đoạn có lỗ hô hấp đầu tiên trên 
vỏ. Hoạt bắt mồi lúc này cũng tích cực hơn. 
+ Ở Giai đoạn trưởng thành, thức ăn của Bào Ngư là các 
loài rong biển (Seaweed) như rong câu (Gracilaria), rong 
nâu (Laminaria), rong lục (Ulva), rong mơ (Sargassum). 
Thí nghiệm về chọn lọc thức ăn cho thấy, Bào Ngư Nhật 
Bản (Haliotis discus Hannai) ăn rong nâu (Laminaria) 
53%, rong lục (Ulva) 6% và rong đỏ (Porphyra) 2% (FAO, 
1990). Hiệu suất sử dụng thức ăn của Bào Ngư phụ thuộc 
vào giống loài, các loại thức ăn và thay đổi theo kích thước 
của cơ thể. 
d) Đặc điểm sinh trưởng: 
 Bào Ngư là động vật sinh trưởng chậm. Năm thứ nhất 
ưsinh trưởng về kích thước, năm thứ hai sinh trưởng về 
phần thân mềm, lớn hơn 4 tuổi là ngừng sinh trưởng 
Bào Ngư vành tai có tốc độ sinh trưởng từ 2 - 35,6 mm 
trong vòng 6 tháng, 55 mm trong vòng 1 năm và 75 mm 
trong 3 năm (Mc Namara, 1995). 
Trong điều kiện ương nuôi phòng thí nghiệm, loài Bào Ngư 
Nhật Bản (Haliotis discus hannai) có tốc độ sinh trưởng tới 
3 cm trong năm đầu tiên, 5,5 cm trong thứ 2; 7,5 cm trong 
năm thứ 3 và trong năm thứ 4 là 9,5 cm. Trọng lượng phần 
mềm tăng nhanh hơn phần vỏ. Nếu chiều dài vỏ tăng hai 
lần thì trọng lượng phần mềm tăng 8 lần (FAO, 1990). Kết 
quả nghiên cứu trong điều kiện thí nghiệm của Foster về 
loài Bào Ngư Châu âu (Haliotis tuberculata) ở vùng biển 
Guernsey cho thấy tốc độ sinh trưởng hàng năm giảm 
xuống đáng kể chỉ đạt 50 mm sau 3,5 năm (Foster, 1982). 
 - Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của Bào Ngư: 
+ Thức ăn: Kết quả nghiên cứu ở Thái Lan cho thấy, Bào 
Ngư vành tai nếu chỉ ăn một loại rong câu (Grạcilaria 
salicornia) thì tốc độ sinh trưởng sẽ chậm lại 5 tháng tuổi. 
Nguồn thức ăn đơn điệu làm thiếu chất dinh dưỡng thiết 
yếu cho sinh trưởng của Bào Ngư trong một thời gian lâu 
dài. thức ăn rong tảo còn đóng vai trò quan trọng trong sự 
phát triển của buồng trứng Bào Ngư. Hai loài rong nâu 
(Laminaria và Undaria) là thức ăn có khả năng kích thích 
sự thành thục sinh dục của buồng trứng loài Bào Ngư Nhật 
Bản (Haliotis discus Hannai). Rong câu chỉ vàng 
(Gracilaria verrucosa) cũng kích thích buồng trứng Bào 
Ngư vành tai thành thụ sinh dục. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy, trong điều kiện nhân tạo, với thức ăn là rau câu chỉ 
vàng, Bào Ngư vành tai đã thành thục sinh dục sau 17 - 20 
ngày nuôi phát dục. 
+ Nhiệt độ nước, một mặt làm tăng khả năng sinh trưởng 
của Bào Ngư, mặt khác có thể làm giảm sự sinh trưởng của 
chúng. Nhiệt độ tăng cao trùng với mùa vụ sinh sản của 
một số loài Bào Ngư. Nghiên cứu của Saika về Bào Ngư 
Nhật Bản cho thấy tốc độ sinh trưởng giảm hẳn khi Bào 
Ngư sinh sản vào các tháng mùa hè (Saika, 1962). Trong 
khi đó, nghiên cứu của Mc Namara về Bào Ngư vành tai ở 
Australia chỉ ra tốc độ sinh trưởng của chúng tăng cao về 
mùa đông là mùa không sinh sản. 
e) Đặc điểm sinh sản 
 - Giới tính: Bào Ngư vành tai là động vật phân tính 
đực cái và quá trình thụ tinh diễn ra ở môi trường nước bên 
ngoài cơ thể. Tuyến sinh dục của con đực và con cái bao 
bọc quanh tuyến gan và có hình dạng như chiếc sừng trâu 
ôm lấy 2/3 cơ khép vỏ. Có thể phân biệt được con đực, con 
cái khi tuyến sinh dục thành thục. Khi thành thục sinh dục, 
tuyến sinh dục của con đực có màu vàng kem, con cái có 
màu xanh lá cây đậm hoặc màu xanh biển. 
- Mùa vụ sinh sản: Mùa vụ sinh sản của Bào Ngư thay đổi 
tuỳ theo loài và liên quan chặt chẽ đến các điều kiện môi 
trường nơi sinh sống. Nghiên cứu cho thấy mùa vụ sinh sản 
của Bào Ngư vành tai kéo dài quanh năm, nhưng thời gian 
đẻ rộ từ tháng 3 – 4 đến tháng 8 – 9 hàng năm . 
- Quá trình phát triển của tuyến sinh dục: Quá trình phát 
triển của tuyến sinh dục của Bào Ngư trải qua 4 giai đoạn: 
+ Giai đoạn I: Mắt thường không phân biệt được đực, cái. 
Tuyến sinh dục nhỏ, lép, noãn bào nhỏ (10 – 50 m), hình 
tròn, có nhân rộng và rõ. 
+ Giai đoạn II: Tế bào sinh dục đang phát triển. Bằng mắt 
thường có thể phân biệt được đực cái, tuyến sinh dục của 
con cái có màu xanh lá cây nhạt, con đực có màu hơi vàng. 
Noãn bào có dạng quả lê, cuống dài, nhân rộng to, rõ, kích 
thước dao động từ 50 – 100 m. Tinh tử bắt đầu hoạt hoá. 
+ Giai đoạn III: Giai đoạn thành thục và đẻ. Tuyến sinh dụ 
của con cái có màu xanh lá cây đậm hoặc xanh biển, con 
đực có màu vàng kem, căng phồng, mập ở đầu mút và ôm 
lấy 2/3 cơ khép vỏ. Đầu tiên tế bào trứng có hình đa giác 
nhọn, sau đó tròn, nhân bé lại, mờ, lệch về một bên và Hầu 
như tan biến trước khi đẻ. Màng keo dày bao quanh trứng. 
Đường kính trứng đạt tới 150 –180 m. Tinh trùng lấp đầy 
xoang và hoạt động mạnh. 
+ Giai đoạn IV: Giai đoạn đẻ xong. Tuyến sinh dục con 
đực, con cái xẹp lại và nhăn nheo. Qua lát cắt mô có thể 
thấy trong buồng trứng có các noãn bào chưa thành thục, 
trứng gần thành thục và một số ít thành thục, chứng tỏ Bào 
Ngư đẻ phân đợt. 
- Tế bào sinh dục: Trứng Bào Ngư khi thành thục tròn, 
đường kính dao động từ 150 - 180 m, có màng tế bào và 
màng keo bao bọc xung quanh. Trứng Bào Ngư có 3 loại: 
Trứng bình thường, trứng không có màng tế bào và trứng 
không có màng keo. Hai loại trứng cuối cùng chưa thành 
thục và khi đẻ ra thường bị bón cục. Loại trứng này ít được 
thụ tinh và nếu thụ tinh được thì phôi cũng phát triển không 
bình thường. Tinh trùng có đầu dạng cây mác rõ nét và 
đuôi dài. Chiều dài của đầu và đuôi tinh trùng là 8 và 50 
m. Tế bào tinh trùng hoạt động tích cực ngay sau khi được 
phóng ra môi trường nước. Thời gian sống ngoài môi 
trường nước, khả năng thụ tinh của tinh trùng liên quan 
chặt chẽ đến nhiệt độ nước và mức độ thành thục của tuyến 
sinh dục. Tinh trùng và có khả năng thụ tinh sau 2 giờ ở 
ngoài môi trường nước có nhiệt độ 26 - 29oC. Tinh trùng 
chưa thành thục có cấu tạo đầu chưa định hình, đuôi rất 
ngắn, chuyển động khó khăn và chết trong vòng một giờ 
sau khi được phóng ra khỏi tuyến sinh dục. 
- Tập tính sinh sản: Bào Ngư là động vật phân tính đực cái, 
đẻ phân đợt và thụ tinh ngoài. Bào Ngư vành tai thường đẻ 
vào buổi chiều lúc tranh tối tranh sáng hoặc vào rạng sáng. 
Con đực thường phóng tinh trước và kích thích con cái đẻ 
trứng. Sự phóng tinh hoặc đẻ trứng của một cá thể trong 
quần đàn thường kích thích các cá thể xung quanh phóng 
tinh hoặc đẻ tiếp theo. Con đực thường ở tại chổ phóng 
tinh, trong khi đó con cái vừa bò vừa đẻ trứng. Tinh trùng và 
trứng đựơc phóng và đẻ ra qua lỗ hô háp thứ 2, thứ 3 ở trên 
vỏ. Sự phóng tinh của con đực giống như vệt khói thuốc lá 
màu trắng đục lan toả khắp bể đẻ. Con cái đẻ trứng thành 
một lớp màu xanh lá cây nhạt trên đáy bể. 
f) Quá trình phát triển phôi và biến thái của ấu trùng 
 Trứng thụ tinh của Bào Ngư vành tai có đường kính 
170 – 190 m và bắt đầu tiến hành phân cắt. Sự phân cắt 
của trứng Bào Ngư là sự phân cắt hoàn toàn, không đều và 
theo kiểu xoắn ốc. 
Ở nhiệt độ nước biển 27 - 30oC, sau khi thụ tinh 10 phút, 
trứng xuất hiện thể cực thứ nhất và sau đó 15 phút xuất 
hiện thể cực thứ 2. Sự phân cắt lần một xảy ra sau 20 - 25 
phút, sau 30 phút phân cắt lần 2 và sau 40 - 60 phút phân 
cắt lần 3. Kết quả tạo thành 4 phôi bào nhỏ ở cực động vật 
và 4 phôi bào lớn ở cực thực vật. Phôi bào phát triển tiếp 
tục chuyển qua phôi dâu, phôi nang, và cuối cùng là phôi vị 
trong thời gian từ 70 - 120 phút. Sau khi thụ tinh 5 - 7 giờ, 
xuất hiện ấu trùng bánh xe (Trocophora). Ấu trùng bánh xe 
mới nở có kích thước 180 - 190 m và có đặc tính hướng 
quang nên bơi lội tự do ở lớp nước tầng mặt. 
Sau 9 - 10 giờ, ấu trùng phát triển vỏ trong suốt và chuyển 
sang giai đoạn ấu trùng tiền diện bàn (Veliger). Ở giai đoạn 
này, vùng đỉnh đầu của ấu trùng dẹt, diềm tiêm mao có 
tiêm mao phát triển dài. 
Sau 24 - 27 giờ, xuất hiện ấu trùng diện bàn giai đoạn cuối, 
ấu trùng diện bàn giai đoạn này hình thành mắt, xúc tu đầu 
và nắp mang. 
Sau 29 - 32 giờ, hầu hết ấu trùng diện bàn biến thái, chuyển 
qua ấu trùng bám (spat). Ở giai đoạn này diềm tiêm mao 
thoái hoá và chân bắt đầu phát triển, ấu trùng bám vào giá 
bám và chuyển từ kiểu sống phù du sang sống đáy. Đặc 
điểm của ấu trùng ở giai đoạn này là phát triển các xúc tu ở 
thùy bên chân và hình thành cơ khép vỏ bám chặt vào gía 
bám để ăn khuê tảo đáy và chống lại địch hại. 
Sau 30 - 40 ngày, hình thành Bào Ngư con với đặc điểm là 
có 1 lỗ hô hấp trên vỏ. Bào Ngư con dài 2,4 mm và có 10 
đôi xúc tu ở thùy bên chân. 
2.1.2. Ốc Hương 
a) Hình thái ngoài 
Hình 42. Hình thái ngoài của Ốc Hương 
Ốc hương có vỏ mỏng nhưng chắc chắn, dạng bậc thang, 
tháp vỏ bằng 1/2 chiều dài của vỏ. Da vỏ màu trắng có 
điểm những hàng phiến vân màu tím, nâu, nâu đậm hình 
chữ nhật, hình thoi. Trên tầng thân có 3 hàng phiến vân 
màu, mỗi vòng xoắn ở tháp vỏ chỉ có một hàng. Miệng vỏ 
có hình bán nguyệt, mặt trong vỏ có màu trắng sứ, lỗ trục 
vỏ sâu, rõ ràng. 
b) Sinh thái và phân bố 
Ốc Hương phân bố chủ yếu ở biển nhiệt đới Ấn Độ -Thái 
Bình Dương. Biển Ấn Độ có loài Babylonia spirata và loài 
Babylonia zeylonica phân bố ở độ sâu 5-20 m nước. Vịnh 
Thái Lan có loài Babylonia areolata phân bố ở độ sâu 5 - 
15 m. Ngoài ra Ốc Hương còn phân bố ở một số vùng biển 
thuộc Srilanca, Trung Quốc và Nhật Bản. Ở Việt Nam Ốc 
Hương phân bố rải rác dọc ven biển từ Bắc đến Nam, trong 
đó khu vực phân bố chính thuộc các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ 
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và đặc biệt nhiều ở 
Bình Thuận, Vũng Tàu. 
Ốc Hương trưởng thành sống chủ yếu ở nền đáy cát, cát 
bùn hoặc cát có pha lẫn vỏ động vật thân mềm. Chúng 
thường vùi mình trong đáy và chỉ ngoi lên khi đi kiếm mồi. 
Chất đáy cứng như san hô, đá sỏi, vùng đáy bùn hoặc bùn 
cát gần cửa sông hoặc bãi bồi không có ốc hương phân bố. 
ốc hương con thường bắt gặp ở vùng đáy cát có lớp bùn 
mềm trên bề mặt ở độ sâu thấp hơn so với ốc trưởng thành. 
Ốc thường vùi tập trung thành đám dày hoặc phân bố rãi 
rác dưới lớp cát bề mặt. 
c) Đặc điểm dinh dưỡng 
 Dinh dưỡng của Ốc Hương thay đổi theo giai đoạn 
phát triển của cơ thể. Giai đoạn phát triển trong bọc trứng, 
ấu trùng dinh dưỡng chủ yếu bằng noãn hoàng. Hoạt động 
của cơ quan tiêu hoá chỉ bắt đầu khi ấu trùng veliger nở ra. 
Ở giai đoạn này ấu trùng có khả năng ăn lọc các loài tảo 
đơn bào kích thước nhỏ như Nannochloropsis oculata, 
Chaetoceros mulleri, Chlorella sp.. Hoạt động liên tục của 
hai cánh tiêm mao không chỉ giúp ấu trùng bơi mà còn tạo 
dòng nước đưa thức ăn vào miệng. Sau một tuần nở ra, ấu 
trùng có thể ăn các loài tảo có kích thước lớn hơn như 
Platymonas sp.. Giai đoạn biến thái là thời gian ấu trùng 
hoàn thiện cơ quan tiêu hoá để thích nghi với đời sống đáy 
và phương thức ăn thịt. Thức ăn ưa thích của ốc hương là 
động vật thân mềm hai vỏ (Trai, Sò, Nghêu, sút, mực...), 
các loài giáp xác (tôm, cua, ghẹ...), cá. Hệ số thức ăn dao 
động tuỳ thuộc vào môi trường nuôi, loại thắc ăn sử dụng 
và giai đoạn sinh trưởng, từ 3,5 - 7,2% (trung bình 5,2%). 
Lượng thức ăn tiêu thụ trên ngày dao động từ 5 - 22% 
(trung bình 12%) tuỳ thuộc vào loại thức ăn ưa thích và 
điều kiện môi trường nuôi. 
d) Đặc điểm sinh trưởng 
 Sinh trưởng của Ốc Hương thể hiện qua sự lớn lên về 
kích thước vỏ và trọng lượng cơ thể. Trong diều kiện bình 
thường sinh trưởng diễn ra một cách liên tục. Tuy nhiên sự 
lớn lên của Ốc Hương phụ thuộc vào giai đoạn phát triển và 
nhóm kích thước. 
- Theo giai đoạn phát triển: 
+ Giai đoạn ấu trùng nổi (veliger): Trong điều kiện nuôi 
nhân tạo, tốc độ tăng trưởng bình quân và tỷ lệ tăng trưởng 
được xác định là 26,5m/ngày và 3,98%/ngày. 
+ Giai đoạn ấu trùng bò lê: ốc bắt dầu lớn nhanh. Tỷ lệ tăng 
trưởng bình quân ngày giảm dần ở những ngày tiếp theo. 
Nhìn chung so với các loài động vật thân mềm khác Ốc 
Hương là loài có tốc độ tăng trưởng nhanh 
- Theo nhóm kích thước:Tốc độ tăng trưởng của Ốc Hương 
ở các nhóm kích thước khác nhau là khác nhau. Ốc có kích 
thước càng nhỏ thì tốc độ tăng trưởng càng nhanh, nhanh 
nhất ở nhóm kích thước 1-10 mm và 10-20 mm và chậm 
nhất, gần như không đáng kể ở nhóm kích thước trên 40 
mm. Điều này phù hợp với quy luật sinh trưởng của động 
vật nói chung và động vật thân mềm nói riêng: thời kỳ nhỏ 
tăng trưởng nhanh về kích thước, thời kỳ lớn tăng trưởng 
nhanh về trọng lượng, thời kỳ thành thục sinh dục hầu như 
không tăng trưởng, năng lượng chủ yếu dùng cho tích luỹ 
sinh dục và sinh sản. 
e) Đặc điểm sinh sản 
 - Giới tính: Ốc Hương là loài có giới tính phân biệt và 
thụ tinh trong. Quan sát vỏ ngoài không thể phân biệt ốc 
đực ốc cái. Đặc điểm phân biệt chính để phân biệt giữa con 
đực và con cái như sau: 
Cơ quan Ốc đực Ốc cái 
Cơ quan sinh dục Gai giao cấu Lỗ sinh dục 
Tuyến sinh dục Màu vàng cam Màu nâu tối 
Tuyến Albumin Không có Có 
Tuyến sinh bọc 
trứng 
Không có Có 
ống dẫn tinh Có Không có 
Buồng thụ tinh Không có Có 
 Trong đó 2 đặc điểm dễ quan sát nhất để phân biệt 
đực, cái qua hình dạng bên ngoài là: 
 - Con đực có gai giao cấu ở gốc xúc tu phải, đó là một 
nếp thịt có thể co giãn, nối với một ống dẫn nhỏ đi từ tuyến 
sinh dục. 
 - Con cái có lỗ sinh dục ở mặt dưới bàn chân, cách 1/4 
chiều dài bàn chân. Tỷ lệ giới tính trung bình được xác 
định là 1: 1,49 . 
- Kích thước sinh sản lần đầu: Kích thước sinh sản lần đầu 
của ốc hương tự nhiên được xác định trong khoảng từ 40-
50 mm chiều cao vỏ và không khác nhau nhiều về kích 
thước giữa con đực và con cái. Ốc Hương nuôi trong bể xi 
Hình 42. Đặc điểm hình thái giới tính của ốc hương B. areolata 
A. ốc đực; B. ốc cái; pn: Gai giao cấu; fo: Lỗ sinh dục 
măng từ con giống nhân tạo đẻ trứng lần đầu sau 7 tháng 
tính từ khi mới nở ở kích thước 40 -51 mm (trung bình 43,9 
mm) đối với con cái và 37 - 49 mm (trung bình 43,9 mm) 
đối với con đực. 
- Tập tính sinh sản: Trong mùa sinh sản, Ốc thường kết cặp 
vào chiều tối và ban đêm trước khi đẻ trứng. Tinh trùng của 
con đực theo ống dẫn tinh qua gai giao cấu chuyển sang cơ 
thể con cái và giữ lại trong buồng thụ tinh. Trứng thành 
thục giai đoạn 4 theo ống dẫn trứng ra buồng thụ tinh và tại 
đây gặp tinh trùng và được thụ tinh trước khi đẻ ra ngoài. 
Ốc đẻ lần lượt từng bọc trứng và chúng thường vài chục 
bọc trong một lần đẻ. Ốc di chuyển dần sau mỗi lần đẻ một 
bọc trứng và bọc trứng đẻ ra dính vào đáy cát tạo thành 
những dãi bọc trứng liên tiếp. Ốc đẻ trứng vào ban đêm, 
cũng có khi bắt đầu vào buổi chiều và kết thúc vào sáng 
hôm sau. 
Hình thái bọc trứng: Bọc trứng (egg capsules) của Ốc 
Hương là một túi trong suốt có hình tam giác ngược, bên 
trong chứa đầy trứng và dung dịch Albumin keo nhầy. Phần 
cuối của túi trứng dính vào một cuống nhỏ va bám vào đáy 
bể bằng một đế bám. Bọc trứng căng phồng dịch có tác 
dụng như một phao nổi, cuống nhỏ và dài giữ cho bọc 
trứng luôn lơ lững trên tầng đáy và đế bám giữ cho bọc 
trứng ở nguyên vị trí không bị dịch chuyển bởi dòng chảy. 
Kích thước trung bình của bọc trứng là: Chiều dài tổng 
cộng (gồm cả hai phần trứng và cuống) 29,94 mm; Chiều 
dài bọc chứa trứng 20,8 mm; chiều rộng bọc trứng 9,75 
mm; chiều dài cuống 9,14 mm. 
Hình 43. Hình thái của bọc trứng Ốc Hương 
A. Bọc trứng mới đẻ , B. Bọc trứng đang nở 
- Mùa vụ sinh sản: Ốc Hương có khả năng thành thục 
quanh năm. Tỷ lệ thành thục cao nhất đạt từ tháng 3 đến 
tháng 10 (60 - 90%). Tháng 11 và tháng 12 tuy vẫn bắt gặp 
các cá thể thành thục nhưng tỷ lệ thấp, không đáng kể. Ốc 
Hương thường đẻ nhiều nhất vào những đêm thuộc kỳ triều 
cường. 
- Sức sinh sản: Ốc cái mỗi lần đẻ khoảng từ 18 -75 (trung 
bình 38) bọc trứng. Mỗi bọc trứng chứa 168 -1849 trứng 
(trung bình 743 trứng). Sức sinh sản tính trung bình cho 
một con cái thành thục trong điều kiện tự nhiên là 56424 
trứng/lần đẻ. Sức sinh sản trung bình cho một con cái thành 
thục trong bể nuôi nhân tạo là 38677 trứng/lần đẻ. 
f) Các giai đoạn phát triển phôi và ấu trùng 
 - Phát triển trong bọc trứng:Trứng thụ tinh có hình 
cầu, đường kính trung bình 242 m. Phân cắt tế bào và 
phôi kéo dài trong 48 giờ. Phôi vị dạng khối hơi dài, kích 
thước trung bình 355 x 255 m. Sau 60 giờ phôi chuyển 
sang giai đoạn ấu trùng quay (Trochophora). ấu trùng dài, 
có vỏ mỏn và đối xứng hai bên; đĩa tiêm mao hai bên đầu 
dày, tiêm mao ngắn, hoạt động quay yếu. Càng về sau vỏ 
hình thành rõ hơn, hơi tròn ở đuôi. Đĩa tiêm mao lớn dần, 
mỏng như hai cánh bướm, tiêm mao rõ, dài, hoạt động liên 
tục, quay nhanh. Kích thước ấu trùng từ 336 - 396 m. 
Giai đoạn ấu trùng veliger có chiều dài vỏ 395- 419 m. Vỏ 
trong suốt, hình bầu dục hơi xoắn (đỉnh và miệng vỏ nằm 
trên một mặt phẳng), có nắp vỏ, hai thuỳ tiêm mao có viền 
chấm sắc tố viền đậm có thể nhìn thấy chân nhỏ và hai 
điểm mắt. Nội quan dần dần hình thành và mất đối xứng 
hai bên. Ấu trùng hoạt động trong bọc trứng. Tỷ lệ thụ tinh 
trung bình dạt 85% 
 - Hoạt động thoát ra khỏi bọc trứng: ở điều kiện nhiệt 
độ nước 26-27oC, độ mặn 33-35‰, sau 6 ngày ấu trùng 
veliger thoát ra khỏi bọc trứng và phát triển tự do trong môi 
trường nước. Đến thời điểm này có một cơ chế sinh hoá 
nào đó- chưa xác định được- lỗ thoát (escape aparter) nằm 
ở mép trên bọc trứng mở ra, ấu trùng lần lượt rời khỏi bọc 
trứng bơi ra ngoài môi trường nước. Thời gian cho toàn bộ 
ấu trùng thoát ra khỏi bọc trứng dài khoảng 24 giờ. Do phôi 
được bảo vệ và phát triển trong bọc trứng nên tỷ lệ nử khá 
cao, đạt 90%. Tuy nhiên khi ấp trứng ở nhiệt độ cao (29-
31oC), ấu trùng nở sớm hơn (sau 5 ngày) nhưng bị dị hình 
nhiều, sự xâm nhập của nấm, nguyên sinh động vật làm tỷ 
lệ nở thấp hơn. 
 - Phát triển ấu trùng sau khi thoát ra khỏi bọc trứng: 
Cũng như các loài động vật thân mềm chân bụng khác ấu 
trùng Ốc Hương phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn ấu 
trùng veliger sống trôi nổi và giai đoạn ấu trùng bò lê sống 
đáy khác nhau về hình thái cấu tạo, phương thức sống và 
hình thức dinh dưỡng bắt mồi. 
+ Giai đoạn sống trôi nổi: ấu trùng veliger mới nở có chiều 
dài vỏ từ 435 - 440 m, sống phù du và có tính hướng 
quang, cơ quan tiêu hoá bắt đầu hoạt động và ấu trùng ăn 
được tảo đơn bào. Khoảng 6 -7 ngày sau khi nở có thể nhìn 
thấy hai xúc tu, vỏ ấu trùng dày hơn và tầng thân hình 
thành một vòng xoắn, kích thước ấu trùng 659 m. ấu trùng 
veliger ngày thứ 11 bắt đầu quá trình biến thái vỏ có hai 
vòng xoắn, chân dài hơn, hai cánh tiêm mao tiêu dần, hình 
thành ống hút nước. Sau khoảng 18 - 20 ngày sống phù du 
ấu trùng veliger biến thái thành ấu trùng bò lê có chiều dài 
khoảng 1349 m. 
+ Giai đoạn sống đáy: ấu trùng bò lê bắt đầu sống đáy bằng 
cách thay đổi hình thức vận động, chân phát triển dài ra, 
tiêm mao tiêu biến dần. Chúng chuyển tính ăn từ thực vật 
sang động vật. Nền đáy cát mịn trở nên quan trọng đối với 
ấu trùng để vùi mình. Ngày thứ 3 của giai đoạn này ốc con 
đã có màu sắc vỏ, có thể bò theo thành bể lên khỏi mặt 
nước, thỉnh thoảng treo ngược mình nổi lên nhờ màng chân 
để lấy thức ăn. Chúng ăn liên tục và nhanh lớn, tỷ lệ sống 
đạt 80-100% từ 2 tháng trở đi. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 90_6871.pdf 90_6871.pdf