Đặc trưng ngôn ngữ trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng

Ngoài từ láy, Vũ Bằng còn rất thành công khi vận dụng tối đa các từ tượng thanh, tượng hình. Tạo tác dụng gợi âm thanh và hình ảnh, tăng tính nhịp điệu, biểu cảm cho trang văn. Người đọc như được sống thực sự trong thế giới của nhà văn, nghe từng âm thanh của sự sống, ngửi - nếm từng mùi vị của món ăn, chạm tay được mọi thứ nhà văn mô tả. Trước mắt, Hà Nội đang hiện hữu như Vũ Bằng chưa hề mộng và mơ. Và, người đọc đang cùng nhà văn tung tăng thưởng ngoạn khắp đất trời Bắc Việt.

Những từ tượng thanh như rền rền, riêu riêu, o o tạo nên một thứ âm thanh vừa phải, man mác. Không lạc ra ngoài tâm tưởng miên man của nhà văn. Mang đến cho câu văn tính động nhưng vẫn êm ái, trầm trầm. Trầm trầm chứ không trầm hẳn, cũng không thật bổng để gợi được những gì đã xa trong quá vãng của người con xa xứ đang hồi hương bằng tâm tưởng. Những âm thanh của sự sống mà Vũ Bằng đang tìm kiếm, vọng về.

 

doc49 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5623 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đặc trưng ngôn ngữ trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đất Bắc và tình cảm nhớ thương tha thiết của nhà văn nên cũng có thể xem là một bút kí. Nhưng, tác phẩm lại thể hiện rất sâu đậm nỗi lòng, tâm tư tình cảm của tác giả nên mang đặc tính của tùy bút. Tuy nhiên, chúng ta đều hiểu rõ, Vũ Bằng viết Thương nhớ mười hai để ghi lại những dòng cảm xúc chủ quan tuôn chảy trong suốt quãng đời xa quê. Ở đây, Tiêu Liêu Vũ Bằng không có chủ định viết nên một hồi kí, bút kí hay tùy bút. Căn cứ định nghĩa về tùy bút [7, tr 380], chúng ta nhận thấy Thương nhớ mười hai rất gần với thể loại này nên có thể xem đây là một tùy bút. Như vậy, ngay trong tác phẩm của Vũ Bằng đã có sự kết hợp rất độc đáo, đan xen tạo nên một Vũ Bằng với phong cách riêng biệt. Dù là hồi kí, bút kí hay tùy bút thì cũng đều nằm trong một thể loại chung. Nhà văn đã rất thành công trong việc kết hợp chúng. Chính sự kết hợp hài hòa, đặc sắc đó đã đưa đến những thành công đặc sắc về nội dung và độc đáo về nghệ thuật của tác phẩm. Thật hiếm có tác phẩm nào đưa đến cho ta vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên vừa hết sức quyến rũ, vừa rất đỗi thân quen, có sức cuốn hút làm say đắm lòng người như Thương nhớ mười hai. Tác phẩm thực sự là đỉnh cao của tùy bút Vũ Bằng. CHƯƠNG 2: CÁC PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ TRONG THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI CỦA VŨ BẰNG 2.1. Cách dùng từ ngữ của Vũ Bằng Thương nhớ mười hai là bức tranh hội tụ cái đẹp trong cuộc sống ở quê hương miền Bắc, một vùng văn hóa kết tinh đầy đủ bản sắc tâm hồn người Việt. Sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ ở tình yêu quê hương đất nước thiết tha mà còn bởi vẻ đẹp riêng, độc đáo của nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ gợi cảm, giàu chất thơ không phải là nét riêng biệt của Thương nhớ mười hai mà là đặc điểm, yêu cầu chung của thể loại tùy bút. Những ai đã đọc tùy bút của Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường chắc sẽ không quên những câu thơ văn xuôi tài hoa, say mê lòng người trong đó. Nhưng, cái đặc sắc của Vũ Bằng là nhà văn đã tạo cho tác phẩm những câu văn, những hình ảnh mang vẻ đẹp độc đáo, mới lạ qua ngôn từ theo cách của riêng mình. Không lẫn với ai, không giống ai cả. 2.1.1. Hệ thống các từ loại Thương nhớ mười hai làm say lòng người bằng những ngôn từ giản dị mà tràn đầy cảm xúc. Vũ Bằng viết về cảnh vật, con người quê hương bằng tình cảm yêu mến nồng nàn. Thậm chí là thành kính, thiêng liêng. Cảm xúc của nhà văn được bộc lộ rất thật, ngôn ngữ đa dạng giàu cảm xúc, tài hoa. 2.1.1.1. Tính từ Đây là một biệt tài của Vũ Bằng trong việc vận dụng sự đa thanh, đa nghĩa, phong phú của ngôn ngữ dân tộc. Tính từ được sử dụng với tần số cao trong Thương nhớ mười hai để chỉ về màu sắc, vẻ đẹp,…của con người và cảnh vật nơi đất Bắc. Việc sử dụng tính từ có hiệu quả đem lại cho trang văn tính biểu cảm, và giàu hình ảnh, giàu chất thơ: “…Ấy vậy mà một buổi chiều trở gió kia, ngồi cúi xuống lòng để hỏi chuyện tim mình, ta cảm như có hàng ngàn, hàng vạn con mọt nhỏ li ti vừa rụng cánh o o vừa đục khoắt con tim bệnh tật…đang đi đến chỗ mọt ruỗng, rã rời tan nát” [1, tr 10], “Mỗi nỗi buồn se sắt xâm chiếm đầu óc ta…” [1, tr 10]. Thậm chí, trong một trang văn, tính từ xuất hiện hơn bốn lần: trời đùng đục, niềm vui sáng sủa, nền trời trong trong, làn sáng hồng hồng,…[1, tr 20]. Ở Vũ Bằng, tính từ chỉ đặc tính, sắc thái,…thường được sử dụng theo cấu tạo “tính từ + từ chỉ mức độ”. Tính từ chỉ mức độ mạnh, tăng cấp mang đến cho trang văn sự sinh động, giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm: rét căm căm, buồn rười rượi, buồn se sắt, đẹp não nùng, nhỏ li ti, cứng quèo quèo, giòn rau ráu, giòn tanh tách, trong văn vắt, thơm lừ, ngọt xớt, …Hệ thống tính từ này làm giàu cho ngôn ngữ của Thương nhớ mười hai, tăng sức gợi, sức sống cho từng trang sách. Hơn nữa, nó lột tả được hết cảm xúc, dụng ý của nhà văn qua lớp ngôn từ. Ngoài ra, lớp tính từ chỉ mức độ nhẹ, không tăng cấp cũng góp phần đáng kể vào sự thành công ở phương diện ngôn ngữ của Vũ Bằng. Tả đúng, tả chính xác tính chất, sắc thái của từng hình ảnh, sự việc: mặn mặn, hăng hăng, lạnh tê tê, thơm ngan ngát,… Có sức gợi tả, biểu đạt lớn nhất trong Thương nhớ mười hai phải kể đến những tính từ chỉ màu sắc. Về cơ bản, trong tùy bút, tính từ chỉ màu sắc có hai dạng cấu tạo là “danh từ + tính từ chỉ màu sắc” và “tính từ + từ chỉ mức độ (màu sắc)”. Chúng ta nhận thấy, sau mỗi danh từ là một tính từ chỉ màu sắc đi kèm, biểu đạt sắc thái về màu sắc cho danh từ đứng trước: trăng bạc, chén vàng, sông xanh, núi tím, đêm xanh, cỏ biếc, xoan đào, trầm vàng, vỏ tía, cau xanh, lúa vàng,…Những tính từ đi kèm chỉ rõ đặc trưng của từng sự vật, hiện tượng, mang tính gợi hình và giàu sắc thái biểu đạt. Với những tính từ có từ chỉ mức độ đi kèm, sắc thái biểu cảm của trang văn rất cao và phong phú, giàu sức sống: vàng hanh hao, xanh mươn mướt, nền trời đùng đục, nền trời trong trong, làn sáng hồng hồng, đêm xanh biêng biếc, trắng toát, xanh mơn mởn, đỏ hây hây,… Từ chỉ mức độ chỉ rõ sự tinh tế, nhạy cảm của nhà văn trong cảm nhận và quan sát. Ở các mức độ khác nhau, tính từ chỉ màu sắc mới lột tả đúng sắc thái của sự vật, hiện tượng, mang lại cho trang văn sức biểu cảm và gợi tả cao: “Xanh mơn mởn” là màu xanh non, xanh của một sức sống đang tràn trề, tơt tươi; “nền trời đùng đục” là đục nhưng không đục lắm, vẫn còn có sắc trong, mức độ ở giữa của trong và đục;… Mỗi hình ảnh về thiên nhiên Bắc Việt đều gắn với một gam màu nhất định. Liễu ở Hồ Gươm trong hoài niệm của nhà văn là một màu “xanh mươn mướt” [1, tr 12], nền trời “trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột” [1, tr 20],… “Tôi yêu sông xanh, núi tím…có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh…” [1, tr 18]. Thiên nhiên, đất trời miền Bắc hiện ra trong hoài niệm của Vũ Bằng với đủ sắc màu nhưng màu xanh vẫn là màu chủ đạo. Khó có thể lí giải được vì sao nhà văn lại ưa dùng tính từ này như thế. Bởi đất trời Bắc Việt luôn tràn đầy sức sống, xanh tốt thế kia hay tại lòng tác giả luôn hoài niệm về một Hà Nội đẹp thơ mộng theo cảm quan của riêng mình. Có phải nỗi nhớ đã nhuộm xanh tất cả mọi thứ để Hà Nội luôn bất diệt trong nhà văn, trong lòng mỗi người con xa xứ? Màu xanh là màu của hi vọng, màu của sự sống. Dù thế nào đi nữa, qua lăng kính của nhà văn, Hà Nội với sắc xanh ở nhiều cung bậc đã đưa người đọc trở về với một không gian Bắc Việt xưa thật êm đềm, thơ mộng thiết tha: “Hà Nội! Bắc Việt của một ngày xa xưa ơi! Bây giờ liễu ở Hồ Gươm có còn xanh mươn mướt như hồi ta bước ra đi?...” [1, tr 12], “Đêm xanh biêng biếc, tuy có mưa dây, nhưng nhìn lên rõ từng cánh sếu bay…” [1, tr 21], “Nhìn lên, lá non xanh màu cám giót dún dẩy đu đưa một cách đa tình…như cây cối giơ những khăn tay bé nhỏ xanh xanh…” [1, tr 57]. Dùng linh hoạt nhất phải nói đến từ xanh biêng biếc, lột tả được cả tâm trạng, nỗi nhớ và tâm can của con người: Đêm xanh biêng biếc [1, tr 21], sầu biêng biếc [1, tr 41], cốm xanh biêng biếc [1, tr 190], bóng tối xanh biêng biếc [1, tr 252],…Một tính từ được dùng chỉ cho nhiều đối tượng nhưng vẫn rất hay, rất sinh động và đặc tả được cái đẹp của mảnh đất Bắc Việt xa xôi. 2.1.1.2. Động từ Ở Vũ Bằng, việc sử dụng động từ là một màn ảo thuật tài hoa. Động từ trong Thương nhớ mười hai được chắt lọc từ ngôn ngữ của cuộc sống, dùng rất đắt nhưng rất có sức gợi: nhảy nhót (nhảy có ý mừng vui), thấu (thông suốt),… Thể hiện nỗi nhớ thương trào dâng, tác giả dùng động từ nhớ gần gũi và quen thuộc. Trong tác phẩm (không tính lời đề tặng) có tới 232 lần nhà văn dùng động từ nhớ với nhiều dáng vẻ và sắc thái biểu cảm: nhớ đến, nhớ ngay đến, nhớ lại, nhớ về, nhớ thương, thương nhớ, tiếc nhớ, nhớ tiếc, nhớ nhung, sầu nhớ, nhớ ra, nhớ nhất, nhớ da diết, nhớ day dứt, nhớ ơi là nhớ, nhớ sao nhớ quá, nhớ quá chừng là nhớ,…. Cách diễn đạt ấy cho chúng ta thấy được cảm xúc trào dâng và sự phong phú, tài hoa trong việc sử dụng ngôn từ. Đọc Thương nhớ mười hai, chúng ta rất dễ nhận, Vũ Bằng sử dụng những động từ rất Bắc Việt. Đó là những động từ được lấy ra từ lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân xứ Bắc. Nó bước ra từ cuộc sống, đi vào trang văn làm cho từng câu chữ giàu sức sống và gắn liền với mạch cảm xúc hoài niệm miên man, tiếc nhớ của nhà văn. 2.1.1.3. Danh từ Trong hệ thống từ loại được sử dụng trong Thương nhớ mười hai, danh từ cũng chiếm số lượng khá lớn. Trong tác phẩm, nhà văn chủ yếu xoay quanh các danh từ riêng chỉ các địa phận ở miền Nam và Bắc Việt. Phải nhận thấy một điều, nhà văn biết và đi rất nhiều nơi ở Bắc Việt. Bắc Việt hiện lên trong hoài niệm của Vũ Bằng thật thân thương, thơ mộng. Các thức ngon vật lạ ở mỗi vùng đều khắc sâu trong trí nhớ của nhà văn. Từ Hưng Yên, Vụ Bản, Việt Trì, Sa Pa cho đến ba mươi sáu phố phường (Hàng Bạc, Hàng Gai, Hàng Bông, Hàng Hòm, Hàng Chiếu,…). Nơi nào cũng đáng nhớ, cũng làm cho nỗi nhớ của nhớ văn thêm phần sâu đậm, da diết. Nỗi nhớ thương da diết đã thôi thúc nhà văn tìm về với Bắc Việt thân yêu. Qua dòng hồi tưởng, nhà văn không quên tìm về và gọi những cái tên đã làm nên nỗi nhớ khôn nguôi: “…nhớ hoa sấu rụng đầu đường Hàng Trống, nhớ quả bàng ở Hải Hậu rụng xuống bờ sông Đào, nhớ sen Linh Đường thơm ngào ngạt cả bầu trời nhớ lên, nhớ nhãn Hưng Yên, vải Vụ Bản, cá anh vũ Việt Trì, na Láng, bưởi Vạn Phúc, cam Bố Hạ, đào Sa Pa, mà nhớ xuống” [1, tr 12] và “…ở vùng Bắc Giang, Hà Đông vào Vân Đình, Hương Tích, Đọi Đệp, chọ Đần, chợ Kẹo,…” [1, tr 125]. Tình yêu với Bắc Việt đã nâng lên thành tình yêu đất nước với một tình yêu rộng lớn, sâu đậm. Vũ Bằng gởi vào trang văn những địa danh gắn liền với những thức ngon, vật lạ của non sông mình: “cam Xã Đoài, xoài Bình Định, bưởi Đoan Hùng, mít Gio Linh, nhót Thanh Chương, tương Nam Đàn, nhãn Hưng Yên, giò Văn Điển, vịt Bầu Bến, gà trống thiến Lạng Sơn…dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét,…” [1, tr 123]. Hàng trăm địa danh, vùng quê của Bắc Việt, của non sông đất nước đã đi vào Thương nhớ mười hai với một tình yêu hồn hậu, sâu đậm của nhà văn - người chiến sĩ cách mạng. 2.1.2. Cách dùng từ láy, từ tượng thanh, tượng hình 2.1.2.1. Cách dùng từ láy Có thể nói, ngôn từ trong Thương nhớ mười hai đa dạng, phong phú, được lựa chọn theo hướng đơn giản, gần gũi nhưng hết sức tinh tế nhằm biểu đạt tình cảm chân thật nhưng không kém phần mãnh liệt của nhà văn - nhân vật trữ tình. Thật hiếm có tác phẩm nào đưa đến cho ta vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên vừa hết sức quyến rũ, vừa rất đỗi thân quen, có sức cuốn hút làm say đắm lòng người như Thương nhớ mười hai. Vẻ đẹp ấy được diễn tả qua ngòi bút tài hoa của một tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, cuộc sống. Và trên hết, là sự dụng công tài hoa ở ngôn ngữ. Hệ thống từ láy đa dạng, giàu tính nhạc được Vũ Bằng trải đều trên gần ba trăm trang văn lại một lần nữa khẳng định chân tài Vũ Bằng. Trong Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng chủ yếu dùng dạng láy đôi hết sức phong phú, đa dạng với các kiểu láy phụ âm đầu, láy vần và láy toàn bộ. Láy phụ âm đầu: rả rích, man mác, thấp thoáng, long lanh,…Láy vần: lỗ chỗ, li ti, lê thê, đìu hiu, lả tả, tưng bừng, bát ngát, thong dong, tèm lem, la cà, lem nhem, lỉnh kỉnh, êm đềm,…Nhiều nhất và đặc sắc nhất phải kể đến láy toàn bộ: đâu đâu, hơ hớ, mơn mởn, căm căm, mang mang, sâm sẩm, tí ti, hây hây, hồng hồng, mờ mờ, rau ráu, chiều chiều, mơn mởn, lắng lắng, quèo quèo, thanh thanh, mặn mặn, hăng hăng,… Từ láy góp phần tạo ra ngữ điệu, tiết tấu cho trang văn. Đến với Thương nhớ mười hai, chúng ta sẽ được lạc vào thế giới của thơ, của nhạc với sắc thái biểu cảm ở độ cao nhất. Vũ Bằng dùng láy không phải để có dùng mà dùng với tất cả sự tinh tế của mình. Mỗi sự vật đều gắn liền với những đặc điểm, trạng thái rất riêng tạo nên một tổng thể chung hài hòa, giàu màu sắc. Thật khó để thống kê được hết số lượng từ láy đã được Vũ Bằng sử dụng: đâu đâu, hơ hớ,…[1, tr. 9], li ti, o o, tê tê, dào dạt,…[1, tr 10], lê thê, đìu hiu, rầu rĩ,…[1, tr 11], mơn mởn, rền rền, lả tả, mươn mướt,…[1, tr 12],…Dường như, ở mỗi câu, mỗi đoạn, mỗi trang văn đều chứa từ láy. Thế mới thấy hết được sự tinh xảo trong kĩ thuật ngôn từ của Vũ Bằng. Mật độ dày đặc nhưng không hề gây nhàm chán. Trái lại, trang văn trở nên giàu hình ảnh, giàu sức gợi và cứ thế vút lên như khúc tình ca về Hà Nội với tình thương nỗi nhớ đong đầy. 2.1.2.2. Cách dùng từ tượng thanh, tượng hình Ngoài từ láy, Vũ Bằng còn rất thành công khi vận dụng tối đa các từ tượng thanh, tượng hình. Tạo tác dụng gợi âm thanh và hình ảnh, tăng tính nhịp điệu, biểu cảm cho trang văn. Người đọc như được sống thực sự trong thế giới của nhà văn, nghe từng âm thanh của sự sống, ngửi - nếm từng mùi vị của món ăn, chạm tay được mọi thứ nhà văn mô tả. Trước mắt, Hà Nội đang hiện hữu như Vũ Bằng chưa hề mộng và mơ. Và, người đọc đang cùng nhà văn tung tăng thưởng ngoạn khắp đất trời Bắc Việt. Những từ tượng thanh như rền rền, riêu riêu, o o…tạo nên một thứ âm thanh vừa phải, man mác. Không lạc ra ngoài tâm tưởng miên man của nhà văn. Mang đến cho câu văn tính động nhưng vẫn êm ái, trầm trầm. Trầm trầm chứ không trầm hẳn, cũng không thật bổng để gợi được những gì đã xa trong quá vãng của người con xa xứ đang hồi hương bằng tâm tưởng. Những âm thanh của sự sống mà Vũ Bằng đang tìm kiếm, vọng về. Cũng như từ tượng thanh, từ tượng hình mang đến cho câu văn tính sinh động, giàu hình ảnh. Từ tượng hình được Vũ Bằng vận dụng trong Thương nhớ mười hai như những cây cọ vẽ thần kì. Mỗi từ là một sắc màu, một đường nét: li ti, lê thê,…tất cả quyện vào nhau vẽ nên một bức tranh hoàn chỉnh về Bắc Việt với thiên nhiên, đất trời, con người, phong tục,…Không có từ tượng hình, vẫn có một Thương nhớ mười hai xao động lòng người. Nhưng, có sự góp phần của từ tượng hình, Thương nhớ mười hai trở nên hay đến từng con chữ, câu văn. Nỗi nhớ của nhà văn nhờ thế được tô điểm sâu đậm hơn, kí ức hiện về rõ ràng đến từng đường nét, từng dáng dấp. “Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ”. Thương nhớ mười hai đã khẳng định điều đó. Đã khẳng định với bao thế hệ độc giả một Vũ Bằng bất tử với thời gian. Một Vũ Bằng tinh xảo, tài hoa trong việc vận dụng hệ thống ngôn từ đa dạng, linh hoạt để dệt nên bức tranh Hà Nội với nỗi nhớ niềm thương vĩnh hằng. 2.2. Các kiểu lặp cấu trúc Quê hương luôn là một hình ảnh vô cùng thiêng liêng khắc sâu vào tâm trí để khi xa quê mỗi người luôn có ý thức hướng về. Bắc Việt vốn đã rất đẹp, nay trong kí ức Vũ Bằng lại càng đẹp, hấp dẫn và quyến rũ hơn. Trong nỗi nhớ thương mòn mỏi của người con xa xứ, không chỉ có thiên nhiên nồng nàn diễm tình mà con người cũng trở nên thanh lịch, đáng yêu. Thương nhớ mười hai là mười hai tháng thương, nhớ khôn nguôi đất Bắc. Có rất nhiều thứ để nhớ thương. Từ đất trời, thiên nhiên, con người với những phong tục đẹp, đậm chất văn hóa dân tộc,…Đặc biệt là nỗi nhớ thương tha thiết về người bạn đời Nguyễn Thị Quỳ: “Bắt đầu cuốn sách này thì là nhớ. Viết đến câu chót, (tháng chín) thì là thương. Thương không biết bao nhiêu, nhớ không biết ngần nào người bạn chiếu chăn: Nguyễn Thị Quỳ…” [1, tr 7]. Vũ Bằng vốn yêu tha thiết những gì thuộc về Hà Nội. Giờ trở thành người con xa xứ, nhà văn trút vào trang văn của mình những nỗi nhớ, tình yêu Hà Nội qua Thương nhớ mười hai. Nếu như Nguyễn Tuân ca ngợi phương diện kĩ thuật của các thú chơi và nâng phương diện kĩ thuật lên thành phương diện mĩ thuật, phương diện của cái đẹp thì Vũ Bằng trong Thương nhớ mười hai lại dành trọn tâm tư viết về mười hai tháng với thiên nhiên đất trời và con người Bắc Việt. Nhà văn đã dành trọn tác phẩm này để viết về văn hóa Hà Nội với chiều sâu lịch sử và vẻ đẹp của Hà Nội trong nỗi hoài niệm da diết. Những hồi ức, kỉ niệm của những tháng ngày sống êm đềm bên vợ con trên mảnh đất Bắc Việt thân thương cứ thế dội về trong tâm tưởng của nhà văn. Nỗi nhớ êm đềm nhưng dữ dội cứ thế nhân lên gấp bội. Chính điều này đã tạo nên cách viết rất riêng trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng: kiểu lặp cấu trúc. Điều dễ nhận thấy nhất ở Thương nhớ mười hai là lặp ở cách đặt tựa đề cho mỗi tháng trong năm. Vũ Bằng luôn sử dụng kiểu cấu trúc “thời gian, đặc trưng”: “Tháng giêng, mơ về trăng non rét ngọt” [1, tr 17], “Tháng hai, tương tư hoa đào” [1, tr 34],… “Tết, hỡi cô mặc cái yếm xanh” [1, tr 282]. Kiểu lặp này nhấn mạnh từng khoảng thời gian trong năm với những đặc trưng của từng tháng. Thật không sai khi người Bắc Việt luôn tự nhận rằng, quê hương của họ mùa nào thức nấy. Chúng ta nhận ra tình cảm yêu thương, nhớ nhung vô vàn của nhà văn dành cho quê hương Bắc Việt. Từng ngọn cỏ, hơi thở của quê hương, xứ sở tựa hồ như đã được khắc chạm, ăn sâu vào trong huyết mạch, xương tủy của Vũ Bằng. Nhà văn nhớ rất rõ, kể rất tỉ mỉ từng đặc trưng của các tháng trong mười hai tháng nhớ thương vời vợi về Bắc Việt yêu thương. Nhớ cảnh, nhớ người. Nỗi nhớ tuy hai nhưng là một. Từ nỗi nhớ vợ con, nhớ những kỉ niệm riêng của đôi vợ chồng tâm đầu ý hợp: “…nhớ không có cách gì quên được cái đêm Trung Thu năm ấy, hai vợ chồng quấn quýt tơ hồng…” [1, tr 173] và “Em ơi, em ơi, nhắc lại như thế thì nhớ quá. Nhớ cũng đúng vào cữ tháng ba như thế này, hai vợ chồng rảnh rang cùng đi về Vụ Bản thuê một căn nhà rơm để nghỉ mát thay vì đi lên núi,…” [1, tr 85 - 86]…Vũ Bằng đã nâng nỗi nhớ riêng thành nỗi nhớ chung. Nhớ Bắc Việt yêu thương. Nỗi nhớ Bắc Việt trở thành nỗi nhớ thường trực, sâu đậm trong lòng nhà văn. Ở thời khắc nào cũng nhớ, tháng ngày nào cũng nhớ. Nỗi nhớ được lặp đi lặp lại với nhớ và thương tha thiết: “Nhớ ơi, nhớ sao nhớ quá thế này?...cốm giót” [1, tr 85 - 86], “Nhớ quá, bất cứ cái gì của Hà Nội cũng nhớ, bất cứ cái gì của Bắc Việt cũng nhớ,…mà nhớ xuống” [1, tr 12] hay “Nhớ không biết chừng nào là nhớ, nhớ sao nhớ quá thế này!...đều kém người thương mình hết” [1, tr 13]… Thể hiện nỗi nhớ thương trào dâng, tác giả  dùng từ nhớ gần gũi và quen thuộc. Trong tác phẩm (không tính lời đề tặng) có tới 232 lần nhà văn dùng từ nhớ với nhiều dáng vẻ và sắc thái biểu cảm khác nhau (nhớ đến, nhớ ngay đến, nhớ lại, nhớ về, nhớ thương, thương nhớ, tiếc nhớ, nhớ tiếc, nhớ nhung, sầu nhớ, nhớ ra, nhớ nhất, nhớ da diết, nhớ day dứt, nhớ ơi là nhớ, nhớ sao nhớ quá, nhớ quá chừng là nhớ…). Nỗi nhớ thương được lặp lại liên tục như giằng xé tâm can nhà văn. Nỗi nhớ bao trùm lên tất cả. Nỗi nhớ được thốt nên lời: “Hỡi ôi là cái lòng thương nhớ của người ta…” [1, tr 89]. Cách lập luận lặp lại của nhà văn tạo cái riêng về cảm nhận và thể hiện: “Không. Cái đẹp lúc này là cái đẹp thành thực, hồn nhiên, mộc mạc,…mà chính vì cái chất đẹp ở trong người tiết ra” [1, tr 22], “Không. Có ai bỏ em đâu…cả người sống và người chết đều sung sướng” [1, tr 152] và “Không. Ngày tết ở Bắc, rỗi rãi mà đi xem hết hội này đến lễ kia như thế, phải nói thật quả là mình sung sướng như tiên…” [1, tr 293],… Trong Thương nhớ mười hai, nhà văn còn có cách lặp rất điển hình, tinh tế. Đó là kiểu lặp dạng chia tách từ: Kiết xơ kiết xác, chê ỏng chê eo, bùi ân ngọt ái, như nung như nấu,…Cách dụng công như thế tạo ra hiệu quả cao ở sắc thái biểu đạt và hiệu quả thẩm mĩ ở ngôn từ. “Tôi ghi lại Thương nhớ mười hai không nhằm mục đích gì cao rộng, chẳng qua chỉ là đánh dấu những ấn tượng hiện ra trong trí óc những buổi mây chiều gió sớm,…” [1, tr 305]. Chính vì thế, Thương nhớ mười hai có cách lặp của trình tự từng tháng qua cách tái hiện của nhà văn. Mỗi tháng với những đặc trưng riêng, rồi cảnh vật, con người, thức ngon từng tháng dần được Tiêu Liêu Vũ Bằng hoài niệm lại qua ngôn từ. Mỗi mùa một tiếng chim, một tín hiệu: tháng tư Tu hú gọi bầy, tháng chín gạo mới chim ngói,…Mỗi mùa một sắc hương: hoa đào rực rỡ, rét nàng Bân thơ mộng,…Tất cả quyện vào nhau thành nỗi nhớ triền miên, vĩnh hằng. 2.3. Các biện pháp tu từ đặc sắc Trong Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng đã sử dụng triệt để thủ pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ và nhân hóa. Đây cũng là nét đặc trưng về ngôn ngữ mà tác giả đã dày công xây dựng. Sự sành sỏi và sắc sảo toát ra từ ngòi bút tài hoa làm lòng người xao động, luyến lưu theo từng câu chữ. Các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ và nhân hóa được nhà văn vận dụng tối đa. Mang lại cho câu văn sự dồi dào về hình ảnh, ngập tràn cảm xúc. Người đọc cảm nhận được biết bao nỗi niềm nhà văn kí thác. Tâm hồn và trí tưởng tượng của con người nhờ thế được nâng lên, vươn xa hơn. 2.3.1. Biện pháp tu từ so sánh Có thể nói, trong Thương nhớ mười hai, nghệ thuật so sánh đã trở thành thủ pháp nghệ thuật chiếm ưu thế và mang lại nhiều giá trị nghệ thuật nhất cho tác phẩm với số lần sử dụng lên đến hàng trăm. Thủ pháp so sánh giúp cho tính tạo hình trong tác phẩm đạt đến trình độ cao. Đồng thời, giúp cho người đọc dễ dàng hình dung ra đối tượng được thể hiện. Thông qua so sánh, mọi sự vật, hiện tượng trở nên cụ thể, sống động. Tùy bút Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng gắn liền với hơi thở của cuộc sống và con người. Bởi vậy, thủ pháp so sánh trong tùy bút chủ yếu xoay quanh các hình ảnh về thiên nhiên - đồ vật - món ăn - con người,…Điều đầu tiên chúng ta có thể nhận thấy ở Thương nhớ mười hai là hình ảnh người con gái luôn được đưa ra làm tiêu chí cho cái đẹp. Cái đẹp của tự nhiên, tạo vật luôn được ví với những chuẩn mực cái đẹp ở con người: “Cái trăng tháng giêng, non như người con gái mơn mởn đào tơ, hình như cũng đẹp hơn các tháng khác trong năm thì phải: sáng nhưng không sáng lộng lẫy như trăng sáng mùa thu,…” [1, tr 29]. Trong đôi mắt của nhà văn, cái đẹp luôn gắn với con người và chỉ gắn với con người, cái đẹp mới thực sự được cảm nhận và chiêm ngưỡng. Và, cái đẹp mới tràn đầy sức sống: “Trên khắp mình đào ưng ửng hồng, có những sợi lông tơ óng ánh như lông trên mắt cô gái dậy thì…” [1, tr 42]. Không phải ngẫu nhiên mà Vũ Bằng dùng các hình ảnh gợi tả vẻ đẹp của người con gái để làm thước đo cho vẻ đẹp của thiên nhiên, vạn vật. Có thể, điều này bắt nguồn từ sự trân trọng, nâng niu những gì thuộc về người phụ nữ Bắc Việt đẹp nhất trong lòng nhà văn - Nguyễn Thị Quỳ. Song, chúng ta còn có thể nhận thấy, Vũ Bằng là một nhà văn hiểu rõ và ý thức được rằng: con người đẹp nhất và căng tròn nhựa sống nhất là ở độ tuổi thanh xuân. Và, người con gái là một hình tượng tiêu biểu. Tác giả ví von thiên nhiên với vẻ đẹp mĩ nhân khiến cảnh quan Hà Nội trở nên hấp dẫn, vừa sang trọng lại vừa tràn đầy sức sống. Vũ Bằng viết Thương nhớ mười hai trong dòng hồi ức của mình. Kỉ niệm cứ hiện về tự nhiên, da diết nên ngôn ngữ không trau chuốt, cầu kì mà man mác, chân chất như chính cuộc sống đang dần được tái hiện. Qua thủ pháp so sánh, ngôn ngữ được nâng lên một tầm cao hơn, tạo cho trang văn của Vũ Bằng vẻ đẹp, vẻ tài hoa hết mực. Điểm nổi bật khác trong thủ pháp so sánh của Vũ Bằng là dùng những hình ảnh gợi cảm cụ thể để đặc tả các trạng thái cảm xúc tinh thần. Điều này lôi cuốn người đọc vào thế giới hoài niệm, miên man mà nhà văn đang tha thiết vọng về. Điều này, Tạ Hiếu cũng nhận định rằng: Thủ pháp so sánh của Vũ Bằng khiến người đọc như bị “thôi miên vào mê hồn trận của những so sánh”. Vũ Bằng trước hết đã tự lấy bản thân ra làm đối tượng so sánh: “Vậy mà không; lòng người xa nhà y như thể là khúc gỗ bị mối ăn, mục nát từ lúc nào không biết…” [1, tr 9], “Con tim của người khách tương tư cố lí cũng đau ốm y như là gỗ mục” [1, tr 9]. Rất nhiều hình ảnh trong Thương nhớ mười hai được nhà văn sử dụng để so sánh đã lột tả đầy đủ, sinh động các trạng thái cảm xúc tinh thần. Chẳng hạn như: “Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trỗi ra thành những cái lá nhỏ tí ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh” [1, tr 19] và “Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngầm…” [1, tr 18]. Việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh trong Thương nhớ mười hai đã giúp cho các hình ảnh, chi tiết trong tác phẩm trở nên đẹp sống động một cách lạ thường. Tâm tư tình cảm của chủ thể nhờ đó cũng được bộc lộ. Điều đặc biệt ở Vũ Bằng là lối so sánh rất tài hoa, dung dị. Nhà văn sử dụng biện pháp so sánh nhẹ nhàng, giản đơn trong từng câu văn, con chữ. Không gọt dũa, trau chuốt mà như lối trực ngôn, thấy sao phản ánh vậy. Chính sự tài hoa, tinh tế trong cách dụng công ở phương thức nghệ thuật này đã tạo cho ngôn ngữ của Vũ Bằng mang nét đặc sắc rất riêng, không lẫn với ai được. Ngôn ngữ trong Thương nhớ mười hai vì thế từ chỗ dung dị, không kiểu cách, giũa gọt đã trở nên mượt mà, tinh tế. Nhẹ nhàng mà sâu lắng, từng câu chữ đi sâu vào lòng người như mạch suối nguồn tươi mát. Thêm một chút bâng khuâng, chút nhớ nhung và thương yêu cho cõi lòng bao thế hệ người con xa xứ. Có những vật bình thường trong cuộc sống cũng đã được thơ hoá nhờ hình ảnh so sánh liên tưởng bất ngờ qua lối cảm nhận rất tình tứ, lãng mạn. Nhiều món ăn dân giã được Vũ Bằng quan sát tỉ mỉ và kể lại thật độc đáo: “Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng…” [1, tr 20]. Và “Vợ ngồi bổ dứa cắt từng khoanh, xếp vào trong đĩa tây trắng bóng ra, rắc đường tây, bỏ nước đá vào,…mà cũng thơm phưng phức như là mật ong!” [1, tr 123 - 124]. Bằng hình ảnh so sánh ấy, Vũ Bằng vừa ngợi ca sự chế tác phối hợp tài tình trong món ăn, vừa đem lại cho món ăn bình dị, dân giã ấy một vẻ đẹp hấp dẫn. Đây là điểm mà Vũ Bằng v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐặc trưng ngôn ngữ trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng.doc