BÀI 8: CHỌN VÀ TRÌNH BÀY DẪN CHỨNG TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
1. Khái niệm:
-Nội dung bài văn nghị luận được tạo nên bởi lý lẽ và dẫn chứng. Cả hai cùng chung mục đích là làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận. Nếu lý lẽ nghiêng về việc làm cho người đọc hiểu, thì dẫn chứng thiên về việc làm cho người ta tin. Và, một khi đã hiểu và tin thì người đọc bị thuyết phục.
-Dẫn chứng là những sự vật, sự việc, số liệu, được rút ra từ thực tế hay từ sách vở để thuyết minh cho lý lẽ.
2.Các loại dẫn chứng: Trong bài văn nghị luận, dẫn chứng có 2 loại:
-Dẫn chứng bắt buộc: dẫn chứng nằm trong phạm vi yêu cầu của đề về tư liệu.
-Dẫn chứng mở rộng: dẫn chứng do người viết viện dẫn ra để liên hệ, đối chiếu, so sánh nhằm làm sáng tỏ thêm ý đang được bàn bạc.
Ví dụ: Phân tích bài thơ “Bánh Trôi nước” của Hồ Xuân Hương.
+Ở đề văn này, từ ngữ, hình ảnh, trong bài thơ được sử dụng làm dẫn chứng khi phân tích là dẫn chứng bắt buộc +Còn những tư liệu về cuộc đời Hồ Xuân Hương, về thời đại Hồ Xuân Hương sống, một số tác phẩm khác của Hồ Xuân Hương có đề cập đến thân phận người phụ nữ hoặc một số câu thơ, tác phẩm của người khác cùng thời, cùng trong nước hay nước ngoài viết về thân phận người phụ nữ, là dẫn chứng mở rộng.
4 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6344 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dàn bài gợi ý phân tích một số tác phẩm văn học 12, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuần 5-Bài 5 (Tiết 23-24):
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
(Trích "Hồi thứ mười bốn”)
*Ngô gia văn phái
I.VỀ TÁC PHẨM “HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ”:
(HS học kỹ phần I này để có thêm tư liệu làm những đề văn tổng hợp giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX)
1. Ngô gia văn phái:
Một tập thể tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc huyện Thanh Oai), tỉnh Hà Tây. 2.Hoàng Lê nhất thống chí (Ghi chép về sự nhất thống của vương triều nhà Lê):
a. Thể loại tác phẩm:
Tác phẩm văn xuôi chữ Hán được viết theo thể chí (một thể văn cổ vừa có tính chất văn học, vừa có tính chất lịch sử). Đây thực chất là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi (sách chia làm nhiều hồi; mỗi hồi mở đầu bằng 2 câu thơ làm đề và kết thúc bằng câu “Chưa biết sự thể thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ”). Cụ thể, tác phẩm gồm 17 hồi; trong đó có 2 tác giả chính là Ngô Thì Chí(1753-1788) viết 7 hồi đầu và Ngô Thì Du(1772-1840) viết 7 hồi tiếp theo, còn riêng 3 hồi cuối do một người khác viết (có tài liệu cho là Ngô Thì Thiến).
b. Giá trị nội dung:
Tác phẩm tái hiện chân thật bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đầy biến động khoảng 30 năm cuối thế kỷ XVII và mấy năm đầu thế kỷ XIX; trong đó, tập trung vào 2 nội dung chính:
(1)Vạch trần sự thối nát, mục ruỗng dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của các tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh:
-Khởi đầu là sự sa đọa, thối nát đến cực đôï của các nhân vật đứng đầu các tập đoàn phong kiến:
+Các ông vua chẳng ra vua của thời Lê mạt: Lê Hiển Tông chỉ biết “chắp tay rũ áo”, cam phận làm bù nhìn, bạc nhược đến mức phó mặc trách nhiệm cho nhà chúa “Trời sai nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui: mất chúa tức là cái lo về ta, ta còn vui gì”. Lê Chiêu Thống thì rước giặc vào nhà, “đê hèn, khuất phục” trước giặc Mãn Thanh để mong cứu vãn cái ngai vàng sắp sụp đổ. Lê Duy Mật thì “chỉ là một cục thịt trong cái túi da mà thôi”.
+Còn bên phủ chúa: Trịnh Sâm hoang dâm vô độ, say mê Đặng Thị Huệ dẫn đến việc phế con trưởng là Trịnh Tông, lập con thứ là Trịnh Cán lên làm thế tử. Khi Trịnh Sâm chết, nhà chúa loạn, gây nên loạn từ trong nhà, anh em đánh giết lẫn nhau.
-Rồi đến cảnh kiêu binh ỷ thế lộng hành và sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến.
(2) Ngợi ca phong trào nông dân khởi nghĩa Tây Sơn và người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ:
-Trong bối cảnh xã hội phong kiến rối ren, thối nát ấy, cuộc nổi dậy của phong trào nông dân Tây Sơn là một tất yếu. Người anh hùng Nguyễn Huệ liên tiếp lập nên những chiến công oanh liệt chống thù trong giặc ngoài, đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn.
-Nhưng cơ nghiệp nhà Tây Sơn ngắn ngủi. Chúa Nguyễn lại dần dần phục hồi thế lực, dẹp Tây Sơn, lập vương triều Gia Long (1802). Kết thúc tác phẩm là tình trạng thảm hại, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu Thống nương thân ở nước ngoài.
F Tất cả những sự kiện lịch sử trên được miêu tả một cách thật cụ thể, sinh động. Nổi bật lên trên cái nền thời đại ấy là vóc dáng của những con người thuộc các phe phái đối lập, đặc biệt là hình ảnh sáng ngời của vua Quang Trung Nguyễn Huệ-người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của cả dân tộc.
c. Giá trị nghệ thuật: Trong văn học trung đại Việt Nam, có thể xem “Hoàng Lê nhất thống chí” là một tác phẩm văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc về mặt nghệ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực tiểu thuyết.
II.VỀ ĐOẠN TRÍCH Ở HỒI THỨ 14 :
Đoạn trích miêu tả chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận lũ vua quan phản nước, hại dân:
1. Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ:
a.Con người hành động mạnh mẽ quyết đoán:
Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn thể hiện là một con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết: Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, chiếm cả một vùng đất đai rộng lớn, Nguyễn Huệ vẫn không hề nao núng, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: “tế cáo trời đất” lên ngôi hoàng đế, “đốc suất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An., phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
b. Trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
- Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, vua Quang Trung khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc “đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng”, nêu bật được dã tâm của giặc “bụng dạ ắt khác… giết hại nhân dân, vơ vét của cải”, nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta từ xưa, kêu gọi quân lính “đồng tâm hiệp lực”, ra kỷ luật nghiêm,… Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác dụng kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
- Trí tuệ ấy còn biểu hiện trong việc xét đoán và dùng người: Khi đến Tam Điệp, gặp Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân “đều mang gươm trên lưng và xin chịu tội”. Nguyễn Huệ xử trí vừa có lý, vừa có tình. Ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc.
c.Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng:
Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành lại được một tấc đất nào, vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng đối với một nước”lớn gấp mười nước mình” để có thể “dẹp việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”.
d. Tài dụng binh như thần:
Mãi đến hôm nay, kể lại, chúng ta vẫn còn kinh ngạc vì cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn do vua Quang Trung chỉ huy. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất quân ở Phú Xuân (Huế), một tuần lễ sau đã ra tới Tam Điệp (giáp giới Ninh Bình, Thanh Hóa, cách Huế 250 km). Vậy mà đêm 30 tháng chạp đã “lập tức lên đường” tiến quân ra Thăng Long. Mà tất cả đều là đi bộ. Có sách còn nói vua Quang Trung sử dụng cả biện pháp cáng, võng, cứ hai khiêng thì một người được nằm nghỉ, luân phiên nhau đi suốt đêm ngày. Từ Tam Điệp trở ra (khoảng hơn 150 km), vừa hành quân , vừa đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn Tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa liên tục như vậy, nhưng cơ nào đội nấy vẫn chỉnh tề, cũng nhờ tài tổ chức của người cầm quân: hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.
đ.Lẫm liệt trong chiến trận:
Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Oâng là một tổng chỉ huy chiến dịch thực sự: hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn, bày mưu tính kế… Đội quân của Quang Trung không phải toàn là lính thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy này đã đánh thắng những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở Phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hà Hồi, “quân lính luân phiên dạ ran” làm cho lính trong đồn “ai nấy rụng rời sợ hãi” đều xin hàng; công phá đồn Ngọc Hồi, lấy ván ghép phủ rơm dấp nước để làm mộc che, dàn trận tiến đánh, khi giáp la cà thì “quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới”,…). Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù phải khiếp vía (tưởng như “Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”) và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc họa lẫm liệt.
Trong trận đánh đồn Ngọc Hồi, giữa cảnh “khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì”, nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc”. Có cuốn sách sử đã ghi khi vào đến Thăng Long, tấm áo bào màu đỏ của nhà vua đã sạm đen khói súng.
2.Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh:
Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang An Nam là nhằm những lợi ích riêng, lại không muốn tốn nhiều xương máu. Hơn nữa, y còn là tên tướng bất tài, cầm quân mà không biết được tình hình thực hư ra sao, lại còn kiêu căng tự mãn, chủ quan khinh địch. Dù đã được vua tôi Lê Chiêu Thống báo trước, y vẫn không chút đề phòng, suốt mấy ngày Tết chỉ “chăm chú vào yến tiệc, vui mừng, không lo chi đến việc bất trắc”, cho quân lính mặc sức vui chơi.
Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp….chuồn trước qua cầu phao”; quân thì lúc lâm trận “ai nấy đều rụng rồ sợ hãi” xin ra hàng hoặc “bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, “quân sĩ các doanh nghe tin đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu qua sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều” đến nỗi “nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chỷ được nữa”. Cả đội binh hùng tướng mạnh chỉ còn biết tháo chạy, mạnh ai nấy chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”.
3. Số phận thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống:
Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược, lẽ tất nhiên họ phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh van xin, không còn đâu tư cách bậc quân vương và kết cục cũng phải chịu chung số phận bi thảm của kẻ vong quốc. Lê Chiêu Thống cùng mấy bề tôi thân tín “đưa thái hậu ra ngoài”, chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền dân để qua sông, “luôn mấy ngày không ăn”. May gặp người thổ hào thương tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp được Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”. Tình cảnh vua tôi Lê Chiêu Thống khi đã chạy sang Tàu phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống người Mãn Thanh và cuối cùng là gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người là một sự sỉ nhục.
]
]
TẬP LÀM VĂN:
BÀI 8: CHỌN VÀ TRÌNH BÀY DẪN CHỨNG TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
1. Khái niệm:
-Nội dung bài văn nghị luận được tạo nên bởi lý lẽ và dẫn chứng. Cả hai cùng chung mục đích là làm sáng tỏ vấn đề cần nghị luận. Nếu lý lẽ nghiêng về việc làm cho người đọc hiểu, thì dẫn chứng thiên về việc làm cho người ta tin. Và, một khi đã hiểu và tin thì người đọc bị thuyết phục.
-Dẫn chứng là những sự vật, sự việc, số liệu, … được rút ra từ thực tế hay từ sách vở để thuyết minh cho lý lẽ.
2.Các loại dẫn chứng: Trong bài văn nghị luận, dẫn chứng có 2 loại:
-Dẫn chứng bắt buộc: dẫn chứng nằm trong phạm vi yêu cầu của đề về tư liệu.
-Dẫn chứng mở rộng: dẫn chứng do người viết viện dẫn ra để liên hệ, đối chiếu, so sánh nhằm làm sáng tỏ thêm ý đang được bàn bạc.
Ví dụ: Phân tích bài thơ “Bánh Trôi nước” của Hồ Xuân Hương.
+Ở đề văn này, từ ngữ, hình ảnh,… trong bài thơ được sử dụng làm dẫn chứng khi phân tích là dẫn chứng bắt buộc +Còn những tư liệu về cuộc đời Hồ Xuân Hương, về thời đại Hồ Xuân Hương sống, một số tác phẩm khác của Hồ Xuân Hương có đề cập đến thân phận người phụ nữ hoặc một số câu thơ, tác phẩm của người khác cùng thời, cùng trong nước hay nước ngoài viết về thân phận người phụ nữ,… là dẫn chứng mở rộng.
3.Chọn dẫn chứng: Yêu cầu của việc chọn dẫn chứng:
(1) Dẫn chứng phải phù hợp với luận điểm và phải tiêu biểu: Đây là yêu cầu về chất của dẫn chứng.
+Phù hợp với luận điểm: phải dùng dẫn chứng thích hợp cho từng ý.
+Tiêu biểu: nếu dẫn chứng lấy từ người, sự vật, hiện tượng thì nhất thiết phải được nhiều người biết đến; nếu dẫn chứng lấy từ tác phẩm văn học phải có tính nghệ thuật cao.
(2) Dẫn chứng phải chính xác, đủ, không trùng lặp: Đây là yêu cầu về lượng của dẫn chứng.
+Chính xác: dẫn chứng phải đúng thời đại, đúng tác giả, trích đúng câu chữ.
+Đầy đủ : không nêu dẫn chứng tràn lan hay mang tính quân bình.
+Không trùng lặp: trong bài văn không nên lặp lại hai lần cùng một dẫn chứng.
4.Sắp xếp dẫn chứng: Tùy theo mục đích, yêu cầu nghị luận, ta có thể sắp xếp dẫn chứng theo nhiều cách:
(1)Theo trình tự thời gian. (2)Theo trình tự không gian. (3)Theo các khía cạnh của vấn đề.(3)Theo tâm lý tiếp nhận của người đọc.
5.Các hình thức nêu dẫn chứng: Có 3 hình thức:
(1)Trích nguyên văn: dẫn chứng nguyên văn cả câu, đoạn, văn bản ngắn (có đủ xuất xứ: tên tác phẩm, tác giả).
Ví dụ: Chàng trai nông dân ấy vô cùng vất vả “Cày đồng đang buổi ban trưa, Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” (Ca dao), nhưng không vì thế mà anh ta chán nản. Trái lại, anh vui vẻ gọi “Hỡi cô yếm thắm dải là, Lại đây đắp đập, trồng cà với anh” (Ca dao)
(2)Trích một số từ ngữ tiêu biểu: chỉ trích dẫn chứng một vài từ ngữ tiêu biểu, đặt chúng trong ngoặc kép và hòa xen vào lời văn của người viết.
Ví dụ: Chỉ vài nét cũng đủ khiến cả cái xã hội ghê tởm đó sống nhô nhúc dưới ngòi bút Nguyễn Du với cái màu da “nhờn nhợt” của Tú Bà, cái bộ mặt “mày râu nhẵn nhụi” của Mã Giám Sinh, cái vẻ “chải chuốt dịu dàng” của Sở Khanh, cái miệng thề xoen xoét của Bạc Bà, Bạc Hạnh.
(3) Tóm lược nội dung chính: thâu tóm ý thơ, ý văn; tóm tắt thật ngắn gọn cốt truyện hoặc nội dung chính của văn bản quá dài để làm dẫn chứng.
Ví dụ: Tinh thần đề cao cảnh giác giặc ngoại xâm trở thành bài học xương máu của dân tộc ta qua câu chuyện “Mỵ Châu-Trọng Thủy”: “Trái tim lầm chỗ để trên đầu, Nỏ thần vô ý trao tay giặc, Nên cả cơ đồ đắm bể sâu”.
* Lưu ý: Trong bài văn nghị luận, ta nên sử dụng phối hợp nhiều hình thức nêu dẫn chứng để tránh sự đơn điệu và tăng vẻ sinh động, hấp dẫn cho bài viết.
6.Phân tích dẫn chứng:
- Nêu dẫn chứng phải kèm theo phân tích, bình phẩm; nếu không bài văn nghị luận sẽ biến thành bảng liệt kê dẫn chứng. Có phân tích dẫn chứng, bình phẩm thì từ dẫn chứng, ta mới làm toát lên được vấn đề cần nói.
- Cách phân tích dẫn chứng thường theo các trình tự:
(1)Nêu dẫn chứng trước rồi phân tích sau:
Ví dụ1: Nêu dẫn chứng: Tình đồng chí của những người lính kháng chiến chống Pháp có cơ sở sâu xa, trước hết là sự gần gũi của những con người cùng cảnh ngộ xuất thân nghèo khó:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Phân tích: Trước khi về cùng đơn vị, cả hai cùng ở hai phương trời cách biệt nhau: một người ở miền xuôi, nước biển quanh năm tràn vào làm cho đồng chua nước mặn; một người ở tận miền trung du, quanh năm đất toàn cày lên sỏi đá./ Hai câu thơ dùng thành ngữ dân gian một cách nhuần nhị trong kết cấu song hành; tưởng là đối lời đối ý nhau, nhưng không hề có sự tương phản chút nào. Bởi nó cùng gợi cho người đọc thấy rõ thành phần xuất thân của người lính đều là những người nông dân nghèo khổ, cơ cực.
Ví dụ 2: Nêu dẫn chứng: Vũ trụ với cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
Phân tích: Đúng là một cảnh hoàng hôn ở trên biển được nhìn từ con thuyền đang chuẩn bị ra khơi. Khi mặt trời “xuống biển” là lúc đêm sập xuống. Mặt trời được ví như hòn than đỏ rực “hòn lửa” đang từ từ lăïn xuống biển. Vũ trụ bỗng chốc được liên tưởng như một ngôi nhà lớn; ở đó, những con sóng trên biển được nhân hoá thành những chiếc then cửa đã cài “sóng đã cài then”, còn màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ của ngôi nhà vĩ đại đó “đêm sập cửa”./ Cảnh thiên nhiên vốn bình thường, nhưng qua cảm hứng vũ trụ và cách liên tưởng trong lối so sánh và nhân hoá, nhà thơ đã tạo nên cảnh hoàng hôn trên biển thật đẹp, thật ấn tượng.
(2) Phân tích trước rồi nêu dẫn chứng sau:
Ví dụ1: Phân tích: Trước khi về cùng đơn vị, cả hai cùng ở hai phương trời cách biệt nhau: một người ở miền xuôi, nước biển quanh năm tràn vào làm cho đồng chua nước mặn; một người ở tận miền trung du, quanh năm đất toàn cày lên sỏi đá. Để diễn tả tình đồng chí của những người lính kháng chiến chống Pháp ấy, Chính Hữu đã dùng thành ngữ dân gian một cách nhuần nhị trong kết cấu song hành; tưởng là đối lời đối ý nhau, nhưng không hề có sự tương phản chút nào. Bởi nó cùng gợi cho người đọc thấy rõ thành phần xuất thân của người lính đều là những người nông dân nghèo khổ, cơ cực. / Nêu dẫn chứng: Đúng như vậy, tình đồng chí là tình cảm của những người lính có cùng cảnh ngộ xuất thân nghèo khó:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Ví dụ 2: Phân tích: Trước hết là cảnh hoàng hôn ở trên biển được nhìn từ con thuyền đang chuẩn bị ra khơi. Khi mặt trời “xuống biển” là lúc đêm sập xuống. Mặt trời được ví như hòn than đỏ rực “hòn lửa” đang từ từ lăïn xuống biển. Vũ trụ bỗng chốc được liên tưởng như một ngôi nhà lớn; ở đó, những con sóng trên biển được nhân hoá thành những chiếc then cửa đã cài “sóng đã cài then”, còn màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ của ngôi nhà vĩ đại đó “đêm sập cửa”./ Nêu dẫn chứng: Cảnh thiên nhiên vốn bình thường, nhưng qua cảm hứng vũ trụ và cách liên tưởng trong lối so sánh và nhân hoá, nhà thơ đã tạo nên cảnh hoàng hôn trên biển thật đẹp, thật ấn tượng:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
(3) Phân tích - nêu dẫn chứng – phân tích tiếp:
Ví dụ1: Phân tích: Trước khi về cùng đơn vị, cả hai cùng ở hai phương trời cách biệt nhau: một người ở miền xuôi, nước biển quanh năm tràn vào làm cho đồng chua nước mặn; một người ở tận miền trung du, quanh năm đất toàn cày lên sỏi đá:
Nêu dẫn chứng: “Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Phân tích tiếp: Hai câu thơ dùng thành ngữ dân gian một cách nhuần nhị trong kết cấu song hành; tưởng là đối lời đối ý nhau, nhưng không hề có sự tương phản chút nào. Bởi nó cùng gợi cho người đọc thấy rõ thành phần xuất thân của người lính đều là những người nông dân nghèo khổ, cơ cực.
Ví dụ 2: Phân tích: Trước hết là cảnh hoàng hôn ở trên biển được nhìn từ con thuyền đang chuẩn bị ra khơi. Khi mặt trời “xuống biển” là lúc đêm sập xuống. ”:
Nêu dẫn chứng:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
Phân tích tiếp: Mặt trời được ví như hòn than đỏ rực “hòn lửa” đang từ từ lăïn xuống biển. Vũ trụ bỗng chốc được liên tưởng như một ngôi nhà lớn; ở đó, những con sóng trên biển được nhân hoá thành những chiếc then cửa đã cài “sóng đã cài then”, còn màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ của ngôi nhà vĩ đại đó “đêm sập cửa. Cảnh thiên nhiên vốn bình thường, nhưng qua cảm hứng vũ trụ và cách liên tưởng trong lối so sánh và nhân hoá, nhà thơ đã tạo nên cảnh hoàng hôn trên biển thật đẹp, thật ấn tượng.