Lời mở đầu 1
Chương I: Tổng quan về cạnh tranh 3
I. Các quan niệm về khả năng cạnh tranh 3
1.Khái niệm 3
2. Vai trò của cạnh tranh 3
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh 5
1. Các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh 5
2. nhóm các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế của đất nước 6
3. Nhóm yếu tố thuộc về môi trường kinh tế của doanh nghiệp 6
4. Nhóm các yếu tố thuộc về hoạt động của doanh nghiệp 7
III. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp 7
1. Các chỉ tiêu về chất lượng 7
2. Các chỉ tiêu về số lượng 8
IV. Các công cụ chủ yếu để cạnh tranh trong kinh doanh 8
1. Cạnh tranh thông qua sản phẩm 8
2. Cạnh tranh qua giá cả 9
3. Cạnh tranh thông qua hệ thống kênh phân phối 10
4. Cạnh tranh qua hoạt động xúc tiến hỗn hợp 11
Chương II: Thực trạng 12
I. Những chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam 12
1. Vị trí và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam 12
2. Những chỉ tiêu đánh giá ngành dệt may 13
II. Thực trạng 13
1. Khái quát chung 13
2. Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam 14
2.1 Góc độ thị trường tiêu thụ 14
2.1.1 Thị trường nước ngoài 14
2.1.2 Thị trường trong nước 18
2.2 Góc độ sản phẩm 18
2.3 Hội nhập kinh tế thế giới của sản phẩm ngành dệt may Việt Nam 21
3. Đánh giá chung về thực trạng khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam 22
Chương III: Những biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh 23
I. Những trở ngại của hàng dệt may Việt Nam 23
II. Mục tiêu và định hướng chiến lược của ngành 24
1. Mục tiêu 24
2. Định hướng 24
3. Định hướng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của ngành 26
III. Các giải pháp chủ yếu 27
1. Giải pháp về thị trường 27
2. Giải pháp về quản lý điều hành và phát triển nguồn nhân lực 29
3. Giải pháp về tài chính 29
4. Giải pháp về đầu tư 30
Kết luận 31
Danh mục tài liệu tham khảo 32
34 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2572 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá chung về thực trạng khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được nó vậy. Đây có thể nói là điều quan trọng nhất trong công cụ này.
4. Cạnh tranh qua hoạt động xúc tiến hỗn hợp
Đây là cách tập hợp các phương pháp và công cụ hướng tới người tiêu dùng để có thể hỗ trợ thúc đẩy khách hàng kích thích tiêu dùng. Xúc tiến hỗn hợp bao gồm các hoạt động như quảng cáo khuyến mại. Quảng cáo là chiến lược truyền thông tin vào mục tiêu thương mại thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Khuyến mại là phương pháp làm kích thích nhu cầu khách hàng tăng mức hàng tức thì. Ngoài ra còn có hình thức khác như: chuyên thông bán hàng cá nhân. Các hình thức này được sử dụng kết hợp nhằm mục đích thúc đẩy và kích thích tiêu dùng.
Tóm lại: các công cụ cạnh tranh đưa ra ở trên mang tính liệt kê. Để xây dựng thành công chiến lược kinh doanh trên cơ sở chiến lược cạnh tranh doanh nghiệp phải biết kết hợp các công cụ cạnh tranh theo đặc điểm sản phẩm sản xuất. Ngày nay tạo ra lợi thế cạnh tranh bằng các công cụ trên dường như ngày càng mong manh và không dài lâu. Ngay cả khi giá cả rẻ, sản phẩm có tính năng ưu việt thì cung không thu hút được khách hàng trong dài hạn. Khách hàng luôn đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao hơn và giá cả chưa chắc đã phải là yếu tố mà họ quan tâm. Tương tự lợi thế về kênh phân phối cũng vậy tữ xa xưa các công ty, các hãng lớn thường nổi tiếng về thương hiệu của mình. Vậy tại sao chúng ta không xây dựng thưong hiệu mang lại lợi thế cho các doanh nghiệp. Đây là một điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp dệt may khi tham gia vào thị trường quốc tế.
Chương II: Thực trạng
I. Những chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam
1. Vị trí và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đã, đang và sẽ là hàng xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI. Với mức tăng trưởng hàng năm cao từ 30% - 40% liên tục và ổn định trong 10 năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt qua các mặt hàng chủ lực vưon lên vị trí số một trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 1998. Tỷ trọng kim ngạch hàng xuất khẩu dệt may trong cơ cấu hàng xuất khẩu cũng ngày càng tăng và chiếm một tỷ lệ quan trọng, chiếm khoảng 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay vươn kên vị trí thứ 2 chỉ sau dầu mỏ.
Xuất khẩu hàng dệt may hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức gia công xuất khẩu là chủ yếu, chiếm khoảng 75 – 80% đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước khoảng 300 tỷ USD. Điều quan trọng hơn là giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động trên mọi miền đất nước trong khi chúng ta đang thiếu vốn thừa lao động. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế khu vực nước ta không tránh khỏi bị ảnh hưởng nặng nề, mặcdù kúc đầu có quan điểm là nước ta có mức độ hội nhập chưa cao nên ít bị ảnh hưởng. Thực ra không hoàn toàn như vậy, nước ta đang là nước chậm phát triển,lại đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nên chúng ta bị ảnh hưởng không nhỏ khi tham gia thị trường thế giới.
Năm 1998 do tác động của khủng hoảng thị trường kinh tế khu vực, xuất khẩu chỉ tăng 2,4% bằng khoảng 41% mức tăng GDP. Bốn tháng đầu năm 1999 lại càng giảm mạnh. Giá xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực của ta như: giàu thô, gạo, cà phê, … biến động mạnh theo hướng bất lợi cho xuất khẩu. Trong khi đó xuất khẩu hàng dệt may vẫn giữ được mức tăng trưởng khá cao khoảng 25%, đạt giá trị 420 triệu USD. Điều này càng khẳng định xuất khẩu dệt may đã và sẽ giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược xuất khẩu và ổn định xã hội trong những năm sắp tới.
Bởi vậy muốn tăng nhanh và vững chắc chúng ta phải tậ trung vào xuất khẩu những nhóm hàng công nghiệp nhẹ trong đó có hàng dệt may. Đây là một ngành đươc phát triển lâu đời, nó vừa mang tính lịch sử vừa mang tính chiến lược đúng đắn, nó càng được phát triển và củng cố trên thị trường và thực sự phát triển từ những năm 1990 đến nay. Đây là ngành được coi là thế mạnh của đất nước, sử dụng lợi thế so sánh lao đông rẻ, giải quyết công ăn việc làm, thu ngoại tệ cho đất nước.
2. Những chỉ tiêu đánh giá ngành dệt may
Chỉ tiêu đánh giá là những chuẩn mực những thước đo mang tính chiến lược. Đánh giá theo đúng tiêu chuẩn về kĩ thuật, chất lượng, khả năng quản lý vấn đề môi trường, … Như ISO 9000, ISO 9001, ISO 9002, … những chỉ tiêu đã nêu ở trên ngành dệt may thể hiện ở khía cạnh sản phẩm, sự cạnh tranh của nó trên thị trường, tinh cạnh tranh của sản phẩm,… được thị trường chấp nhận, thông qua việc kí kết các hiệp định thương mại, khả năng đảm bảo các tiêu chuẩn thương mại và hợp tác kinh tế. Về điểm này sẽ được làm rõ ở các phần tiếp theo.
II. Thực trạng
1. Khái quát chung
Trong quá trình chuyển dịch sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với các ngành khác của nền kinh tế ngành dệt may đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, đóng góp một phần không nhỏ vào mức tăng trưởng GDP và vào việc xây dựng đất nước, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá. Để đạt đượoc điều đó toàn ngành không ngừng đổi mới hoàn thiện để đạt được mục tiêu cuối cùng cho ra những sản phẩm có chất lượng và hoà nhập thị trường thế giới…
- Đã có 187 doanhnghiệp dệt may Nhà nước, trong đó có 70 doanh nghiệp dệt và 117 doanh nghiệp may.
- Gần 800 công ty trách nhiệm hữu hạn cổ phần tư nhân
- Có 500 dự án đầu tư liên doanh và 100% vốn nước ngoài trên các lĩnh vực, đang dệt nhuộm may mặc phụ tùng với số vốn đăng kí 2,6 tỉ USD.
- Thu hút khoảng 1,6 triệu lao động
- Chiếm khoảng 8,58% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước
- Chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước
- Thiệt bị hiện có 1,05 triệu cọc sợi, 0,14 triệu máy dệt các loại, 450 máy dệt kim…
- Năng lực hiện đạt 0,9 triệu tấn các loại sợi trên năm, trong đó 22% sợi chảo kĩ, còn lại là sợi thô và các loại, 380 triệu mét vải trên năm khổ 80 đáp ứng khoảng 30% làm hàng xuất khẩu, 2200 tấn/năm vải dệt kim, khăn bông các loại và 400 triệu sản phẩm may.
- Tổng giá trị xuất khẩu toàn ngành năm 2001 đạt 15,1 tỉ USD, trong đó ngành dệt may đạt 2 tỉ USD chiếm tỉ trọng 13,3%.
2. Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam
Để đánh giá chi tiết khả năng cạnh tranh của ngành dệt may hiện nay ta cần xem xét chúng dưới hai góc độ, góc độ thị trường và góc độ sản phẩm
2.1 Góc độ thị trường tiêu thụ
Đây có thể nói là một mặt hàng bao gồm cả hai yếu tố thiết yếu và cao cấp. Chúng khó có thể thay thế được ở nhu cầu của con người nói riêng va øthị trường nói chung, để hiểu rõ vấn để này chúng ta tìm hiểu ở thị trường nước ngoài và trong nước
2.1.1 Thị trường nước ngoài
Thị trương nước ngoài là một hướng đi quan trọng trong chiến lược ngành dệt may, ở đây có thể nói đến các thị trường khổng lồ và uy tín như: EU, Mỹ, Nhật,… vì ở đây mức độ tiêu thụ tương đối lớn cả về tính chất xa xỉ và thiết yếu. Mặt khác ở đó tập trung nhiều du khách và qua đó tạo khẳ năng quảng bá sản phẩm trên phạm vi rộng.
Việt Nam đã đặt đại diện ở các nước kể trên, hai thị trường xuất khẩu chính là Nhật Bản và thị trường EU chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu của ta. Hiện nay chúng ta đang mở rộng ra thị trường Mỹ, thể hiện ở bước đầu việc kí kết hiệp định dệt may Việt Nam – Hoa Kỳ. Tuy nhiên chúng ta còn rất khiêm tốn và vấp phải những đối thủ cạnh tranh lớn như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, … và đặc biệt hơn khi Mỹ quy định hạn ngạch dệt may với nước ta, đây là một bất lợi lớn mà chúng ta cần xem xét
* Đối với thị trường EU
Kể từ khi kí hiệp định thương mại Việt Nam - EU ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ 01/01/1993, qua nhiều lần kí kết và đàm phán tiếp theo sản phẩm của chúng ta càng được khẳng định. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên với tỉ lệ tăng bình quân là 40% trong khoảng thời gian 1993 - 2000. Đây là cơ sở quan trọng dưa hàng dệt may Việt Nam xâm nhập vào thị trường thế giới. Năm 2001 tổng kim ngạch của hàng xuất khẩu dệt may đạt trên 2 tỉ USD gấp 16,9 lần so với năm 1990 và chiếm 13,25% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Trong 7 tháng đầu năm 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt khoảng 1,304 tỉ USD tăng 11,5% so với cùng kì 2001, chỉ riêng tháng 7 kim ngạch xuất khâue đạt 280 triệu USD. Các thị trường chính là EU 368 triệu USD chiếm 28,3%, theo sau là thị trường Mỹ đạt 320 triệu chiếm khoảng 25%, thị trường Nhật Bản chiếm khoảng 260 triệu USD chiếm 20%, Đài Loan 130 triệu USD chiếm 14%, …
(bảng 1 trang 77 những vấn đề kinh tế thế giới số 82 năm 2003)
Trên thực tế tình hình xuất khẩu sau sự kiện 11/09 sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên quy mô toàn cầu tạo không ít khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh và xuất khẩu. Do vậy tình hình xuất khẩu sang EU đã giảm đáng kể do sức mua giảm sút, do sự cạnh tranh khốc liệt và đặc biệt do sự mất giá mạnh của đồng EURO so với đồng USD. Và đặc biệt hơn khi hạn ngạch phân bổ quá ít, thêm vào đó là sự xoá bỏ hạn ngạch sau hiệp định ATC với các nước xuất khẩu dệt may. Đây là điều kiện bất lợi cho doanh nghiệp ta.
Sở dĩ có mức doanh thu lớn ở thị trường EU là do chúng ta liên kết với Đài Loan, Hồng Kông,…đối với thị trường này Việt Nam thực hiện tiêu thụ bằng cách chính là: gia công cho đối tác nước ngoài hoặc trụ sở của EU có mặt ở châu Á, các công ty EU đầu tư tại Việt Nam. Xuất khẩu trực tiêp của các công ty Việt Nam vào thị trường EU, trong khi đó chúng ta xuất khẩu chủ yếu dựa vào gia công chiếm 70%, và lợi nhuận các doanh nghiệp đạt được chỉ chiếm dưới 30% so với sản xuất và xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay xuất khẩu sang thị trường EU đã có chuyển biến và chúng ta lần lượt lấy lại vị trí của mình.
* Thị trường Mỹ
Có thể nói đây là thị trường khổng lồ hàng năm nhập khẩu khoảng 1000 tỉ USD và chiếm 1/5 tổng kim ngạch thế giới. Với mức thu nhập cao có ảnh hưởng lớn đến sức mua vào loại nhất thế giới. Hơn nữa đây là một thị trường uy tín rộng lớn mà hàng dệt may Việt Nam có nhiều lợi thế so sánh hơn hàng chính quốc.
Tính từ khi lệnh cấm vận được bãi bỏ, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ liên tục tăng nhanh. Nếu 1994 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ là 50,4 triệu USD thì năm 2001 là 1065,3 triệu USD tăng gấp 11 lần so với năm 1994, làm cho kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ tăng 7,26% trong tổng kimngạch xuất khẩu. Tuy nhiên nếu nhìn vào cơ cấu hàng xuất khẩu thì ta lại thấy thực trạng không mấy khả quan, đó là tỉ trọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ lại có xu hướng giảm dần. Nếu năm 1995 chiếm 8,4% sang Mỹ thì năm 1999 là 5,8% và năm 2001 chỉ còn 4,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi tổng kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng, cụ thể là năm 1996 kim ngạch xuất khẩu là 8,7 triệu USD thì năm 2001 là 46,4 triệu USD và đặc biệt tháng 10 năm 2003 đã hoàn thành kế hoạch xuất khẩu sang Mỹ.
Hiện nay Mỹ nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu từ Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Trung Quốc. Những nước này chiếm khoảng 1/2 khối lượng hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Hiện nay hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã có hiệu lựcm mức thuế suất hàng may mặc giảm từ 68,9% xuống còn 13,4% và hàng dệt từ 51,1% xuống còn 10,3%. Nếu tới đây Việt Nam được hưởng mức thuế suất này thì chắc chắn hàng dệt may Việt Nam sẽ ra tăng mạnh mẽ cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ.
Về mặt hàng dệt may vào thị trường Mỹ cũng chủ yếu là một số hàng còn một số chủng loại có khi còn nhập từ Mỹ. Trong khi đó chúng ta còn nhiều đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc và Đài Loan, riêng hàng dệt may Mỹ thực hiện nhập khẩu hàng may mặc của Việt Nam được thực hiện bằng phương thức gia công nên hiệu quả chưa cao, về mặt chất lượng và giá cả chưa hợp lý, uy tín chưa được khẳng định. Mặt khác trong giai đoạn hiện nay khi xuất khẩu sang thị trường này chúng ta gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện hạn ngạch.
Tuy nhiên đối với thị trường lớn nhất thế giới này chúng ta cần có những biện pháp tích luỹ và tiếp cận để doanh nghiệp có uy tín trên thị trường Mỹ. Đạt được kế hoạch cả năm 2003, đây là một thành tích lớn của hàng dệt may Việt Nam. Năm 2004 chúng ta đã đạt 2,7 tỉ USD
Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường Mỹ là Inđônêxia và Thái Lan… đây là những đối thủ mạnh và Trung Quốc đã gia nhập WTO nên nhận được nhiều ưu đãi khác
Qua điều tra một số nước ta có:
Bảng 1: Thị trường xuất khẩu hàng may mặc chính của một số nước:
Năm
Mỹ
EU
Nhật
Đông Á
Nước khác
Tổng
Việt Nam
1996
2,2
43,3
42,2
8,8
3,5
100
Trung Quốc
1990
11,3
10,9
48,6
49,2
14,6
100
1996
12,7
10,7
32,9
30,5
13,3
100
Inđônaxia
1990
38,1
35,6
6,5
6,4
13,5
100
1996
34,1
32
8,4
5,2
20,4
100
Thái Lan
1990
19,3
34,1
7,9
5,9
32,7
100
1996
44,1
29,9
16,9
4,5
4,7
100
Đơn vị: %
(Nguồn từ dự án phát triển Mêkôngnăm 2000).
Từ bảng trên ta thấy % xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị trường Mỹ còn rất nhỏ bé so với các nước. Chứng tỏ đây là một thị trường tiềm năng mà chúng ta cần tìm hiểu xem xét, cần đầu tư thoả đáng. Thêm vào đó chúng ta còn gặp khó khăn ở thị trường này đó là: Nhà nước chưa có một tổ chức chuyên trách nào để hộ trợ xuất khẩu sang thị trường này, thủ tục còn rườm rà, hiện tại mức thuế xuất khẩu vào thị trường này còn quá cao, khả năng sản xuất còn quá nhỏ chưa đáp ứng được đơn đặt hàng của Mỹ. Chưa gia nhập WTO, chưa được hưởng mức thuế suất MFN của Mỹ. Mặt khác các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa thích nghi được nên thường bị vi phạm luật thương mại, nên giá cả vẫn còn khá cao. Đối với thị trường này vấn đề hạn ngạch cũng là một trong những vấn đề mà chúng ta gặp phiền phức: Do quản lý không chặt chẽ nên hiện tượng hàng sang kém chất lượng bị trả về thực hiện thừa hạn ngạch. Để giải quyết vấn đề này doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã thực hiện quản lý hạn ngạch, còn nếu hàng đã sang thì thực hiện việc ứng trước hạn ngạch của năm sau. Hiện nay Mỹ còn quy định phải khai báo mặt hàng và một số thông tin về sản phẩm, theo nhiều nhà phân tích thì đây chính là hình thức của bảo hộ mậu dịch, đây có thể nói là một bất lợi lớn đối với hàng dệt may Việt Nam.
* Thị trường Nhật Bản:
Hiện nay đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu của dệt may Việt Nam, tại thị trường Nhật Bản hàng dệt may của Việt Nam được xếp ở vị trí thứ 5, sản lượng và giá trị xuất khẩu năm 2000 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này đã tăng lên 620 triệu USD, tuy nhiên nền kinh rế Nhật Bản đang gặp rất nhiều khó khăn hiện nay đòi hỏi rất khe khắt về tiêu chuẩn chất lượng từ nguyên liệu phụ đến quy trình sản xuất phải tuân thủ theo tiêu chuẩn chung JIS. Đây là thị trường không hạn ngạch lớn nhất hiện nay, kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 3 sau EU và Mỹ. Đây là thành tích đáng ghi nhận mà ngành dệt may đạt được. Cụ thể kim nghạch xuát khẩu sang thị trường Nhật Bản năm 2000 là 33,27% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam và 48,4% sang thị trường không hạn ngạch. Bên cạnh đó đối thủ cạnh tranh có nhiều lợi thế so sánh hơn như Trung Quốc và các nước ASEAN khác, nhưng Việt Nam có vị trí thuận lợi nên được Nhật chọn làm đối tác lớn nên dành nhiều ưu đãi cho chúng ta. Do vậy đây là điểm mạnh của doanh nghiệp Việt Nam cần phát huy và chúng ta đã sử dụng ngày càng có hiệu quả. Vì vậy thành tích này đáng ghi nhận, đặc biệt trên phương diện thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam.
Đối với các thị trường nước ngoài khác thị trường các nước SNG và Đông Âu có từ lâu đời. Đây là thị trường có sức mua thấp, các đối thủ cạnh tranh về giá cả, môi trường kinh tế và môi trường kinh doanh chưa ổn định, rủi ro thanh toán cao. Ở đây coi như Việt Nam không có lợi thế so sánh gì.
Với thị trường Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông,… cũng khá quan trọng. Nhưng khó khăn trong quá trình xuất khẩu trực tiếp là khu vực thị trường mà sản phẩm dệt may khó tìm được chỗ đứng.
2.1.2 Thị trường trong nước
Bên cạnh hướng xuất khẩu thị trường nội địa cũng tương đối quan trọng nhằm ổn định và tiết kiệm ngoại tệ. Đây là thị trường lớn nhằm tạo vốn thiết lập chỗ đứng và là bức thành đỡ khi xuất khẩu sản phẩm sang nước ngoài. Thị trường trong nước chủ yếu do tư nhân đảm nhiệm. Việc tiêu thụ sản phẩm trong nước thường thông qua hai kênh phân phối là trực tiếp và gián tiếp. Các mặt hàng này thông thường đã đáp ứng được nhu cầu thị trường tuy nhiên còn ảnh hưởng từ Trung Quốc, Hàn Quốc cạnh tranh ngay trên thị trường nước nhà với giá tương đối rẻ và chất lượng cũng tương đối. Do vậy chúng ta cần phát triển thị trường trong nước ngày càng tốt hơn.
2.2 Góc độ sản phẩm
Từ khi lý thuyết lợi thế so sánh ra đời quan hệ thế giới thay đổi, do đó lợi thế so sánh đã được hầu hết các nước sử dụng và phát huy nó. Điều này làm xâm hại đến lợi ích của các nước phát triển đối với ngành dệt may, đã chuyển dịch sang các nước đang phát triển và kém phát triển. Các nước này sử dụng lợi thế so sánh là lao động nhiều, giá thấp. Chính lợi thế này đã tạo ra sức cạnh tranh với các nước phát triển.
Cạnh tranh dưới góc độ sản phẩm nói chung nó bao gồm nhiều yếu tố cấu thành như: chất lượng sản phẩm, công nghệ, giá cả lao động, quy mô,…Chính các yếu tố này đã tạo nên sức cạnh tranh sản phẩm loại này. Vị thếâ của ngành dệt may ở giai đoạn công nghiệp hoá có được là nhờ dựa trên cơ sở sử dụng nhiều nhân công, với trình độ không cần cao, vốn đầu tư không cần lớn, mang lại nguồn thu cho đất nước giúp Việt Nam hoà nhập vào thị trường thế giới khi xu hướng toàn cầu hoá ngày càng được mở rộng. Chất lượng sản phẩm bao gồm các yếu tố như: kiểu dáng, mẫu mã, độ bền đẹp, … Tuy nhiên cái khó là ở chỗ hầu hết công nghệ trang thiết bị là nhập từ nước ngoài, nguyên vật liệu đầu vào ngay cả kiểu dáng mẫu mã cũng vậy, mặt khác chúng ta chủ yếu dựa vào gia công do vậy đây là điều kiện bát lợi cho ta. Để khắc phục điều này toàn ngành dệt may Việt Nam đã có kế hoạch xây dựng những vùng nguyên liệu, phát triển và đào tạo những nhà thiết kế mẫu và đặc biệt là thực hiện gia công sản phẩm cuối cùng nhằm hạn chế quy mô của các nước xuất khẩu. Sau đây là bảng thể hiện quy mô sản xuất công nghiệp dệt may của một số nước trên thế giới:
Bảng 2: So sánh ngành công nghiệp dệt may Việt Nam với các nước khác trong khu vực:
Tên nước
Khối lượng sợi (1000 tấn)
Khối lượng vải và lụa (triệu m2)
Sản phẩm may (triệu chiếc)
Doanh thu xuất khẩu (triệu USD)
Trung Quốc
5300
21000
10000
50000
ẤnĐộ
2100
23000
10000
12500
Bangladesh
200
1800
10000
4000
Thái Lan
1000
4200
2500
6500
Inđônêxia
1800
4400
3000
8000
Việt Nam
85
304
400
2000
(Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam)
Từ bảng trên cho thấy giữa công nghiệp dệt may Việt Nam và các nước khác có những khoảng cách rất lớn, do vậy chúng ta cần có những điều chỉnh hợp lý về mặt cơ cấu sản phẩm của chúng ta còn rất đơn điệu, khả năng đa dạng hoá sản phẩm không kịp với sự thay đổi của thị trường. Một số loại mặt hàng chúng ta còn chưa sản xuất được, đối tượng đó thường là khách hàng có thu nhập cao đòi hỏi phải có những sản phẩm mới. Trong thời gian qua sản phẩm của ta chủ yếu sử dụng lợi thế so sánh về giá lao động và tận dụng lao động nông thôn, lương lao động giản đơn thấp hơn các nước xuất khẩu khác có thu nhập thấp như Trung Quốc, Malaixia và Ấn Đoít nhất là 20% và chỉ bằng 1/3 mức lương của Thái Lan. Thể hiện trong bảng chi phí lao động sau so với các nước:
Bảng 3: Bảng chi phí lao động so với các nước:
Quốc gia
Chi phí lao động USD/H
Việt Nam
0,4
Trung Quốc
0,5
Hàn Quốc
4,0
Inđônêxia
0,5
ẤnĐộ
0,6
Philippin
1,0
Thái lan
1,4
Hồng Kông
4,4
Mỹ
11,9
Nhật Bản
25,6
(bảng chi phí lao động so sánh trong ngành dệt may năm 1994).
Tuy giá nhân công rẻ nhưng trình độ chưa cao và do một số khâu quản lý còn lỏng lẻo do vậy mà giá hàng Việt Nam vẫn chưa cao, chủ yếu do thuế cao mức lưu chuyển hàng hoá chậm. Chúng ta cần làm sao hạn chế yếu tố này. Trong mấy năm qua chúng ta đã liên tục kí kết các hiệp định như: Việt Nam – EU, Việt – Mỹ, Việt – Nhật… nên tình hình đã cải thiện đáng kể, hơn nữa các nước nhập khẩu chưa chắc đã quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà còn chý ý đến vị thế của nước xuất khẩu trên thị trường. Về lao động, lực lượng lao động Việt Nam làm trong ngành dệt may trình độ còn chưa cao, hiệnnay công nhân còn bỏ việc nhiều. Ở công ty may Việt Tiến, doanh nghiệp đứng đầu hiện nay, mức lương bình quân là hơn 1,6 triệu đồng/tháng, có lúc tuyển được 1700 người thì đến 1100 người bỏ việc ( thời báo kinh tế sài gòn 03/04/2003 – trang 18 ). Năng suất lao động chưa cao trình độ quản lý của các cán bộ quản lý trực tiếpcòn thấp, thiếu tác phong công nghiệp. Vì thiếu công nhân nên hiện nay ngành may có xu hướng chuyển về nông thôn với mức lương thấp từ 500 đến 600.000 đồng/ tháng. Và đặc biệt công nhân được gần gia đình với mưcù lương như vậy có thể nói là đủ sống ở nông thôn.
Về mặt thiết bị công nghệ chúng ta liên tục đổi mới và hoàn thiện, thực hiện mua và chuyển giao nhiều dây chuyền sản xuất tiên tiến, áp dụng và triển khai nhiều thành tựu khoa học vào sản xuất nên sản phẩm của chúng ta ngày càng đáp ứng nhu cầu đòi hỏi cao cuả thị trường. Về mặt nguyên phụ liệu chúng ta đã dần dần đưa chất liệu tự nhiên vào sản xuất, sử dụng nhiều công nghệ mới. Về mặt tổ chức chúng ta đã xây dựng những khu dành riêng cho những thị trường chủ yếu để cho xuất khẩu.
Về lao động, đã có những bộ phận chịu trách nhiệm triển khai đưa người đi học, xây dựng những trung tâm đào tạo, trung tâm nghiên cứu nhằm đào tạo và phát triển đội ngũ nhân lực. Hiện nay về đào tạo còn chưa hợp với nhu cầu, các doanh nghiệp đều nhận xét rằng: nguồn lao động từ các trung tâm đào tạo không đáp ứng được về chất lượng cũng như kĩ năng làm việc, chỉ thiên về lý thuyết mà thiếu kĩ năng thực hành. Về chất lượng sản phẩm chưa sản xuất được nguyên liệu phụ dủu chất lư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0107.doc