Các chương trình điều tra biển ở Miền Bắc và Miền Nam trước 1975
Các chương trình điều tra tổng hợp biển ở Miền Bắc
Do có điều kiện hợp tác nghiên cứu biển giữa Việt Nam với Trung Quốc và Liên
Xô trước đây các chương trình điều tra tổng hợp Vịnh Bắc Bộ đã được tổ chức
thực hiện khá bài bản theo quy trình chuẩn phù hợp quốc tế. Chương trình điều tra
tổng hợp Vịnh Bắc Bộ 1959 -1962, Chương trình điều tra nguồn lợi cá đáy vịnh
Bắc Bộ. Hai chương trình này đều do UBKHNN (Bộ Khoa học và Công nghệ ngày
nay) chủ trì. Nội dung điều tra cơ bản tổng hợp bao gồm các yếu tố Khí tượng, Hải
dương học với các lĩnh vực thủy hóa, địa chất biển, sinh vật nổi, sinh vật đáy, trứng
cá. trên phạm vi đồng bộ toàn Vịnh Bắc Bộ mô tả rất kỹ phân bố mùa các yếu tố.
Sản phẩm của các chương trình này là bộ Atlas vịnh Bắc Bộ tỷ lệ 1:200.000 mô tả
các yếu tố thủy hóa động lực, địa chất biển và bộ sưu tập chuẩn sinh vật vịnh Bắc
Bộ. Các kết quả điều tra khảo sát theo các mặt cắt đồng bộ không gian và thời gian
đã để lại giá trị khoa học cho đến ngày nay.
Các chương trình hợp tác điều tra của các Bộ chuyên ngành với Liên Xô trước đây
Trong 2 năm 1960 -1961 Tổng cục Thủy sản Việt Nam kết hợp với Viện Hải
dương học nghề cá Thái Bình Dương (TINRO) thực hiện 5 chuyến khảo sát theo
Hiệp định ký giữa 2 Chính phủ Việt Nam và Liên Xô trước đây. Kết quả hợp tác
điều tra này ngoài việc đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác cá vịnh Bắc Bộ
còn đánh giá được mức độ biến động mùa của các yếu tố thủy hóa, động lực biển
từ tầng mặt tới tầng đáy vịnh Bắc Bộ. Giá trị điều tra khảo sát đồng bộ theo không
gian và thời gian theo các mặt cắt chuẩn đã đáp ứng được mục tiêu, sản phẩm của
một chương trình khoa học.
Các chương trình điều tra biển ven bờ của các chuyên ngành
Có hai yếu tố cần được nhấn mạnh một là do kết quả hợp tác với Liên Xô và Trung
Quốc các quy chuẩn, quy phạm điều tra khảo sát được tuân thủ nghiêm ngặt, các
thiết bị chủ yếu là cơ học. Yếu tố thứ hai là cán bộ tham gia khảo sát, nghiên cứu
với số lượng chưa nhiều song được đào tạo cơ bản về ngành nghề, đồng lương ổn
định, tiêu cực xã hội rất ít. Các bộ số liệu được chỉnh lý và công bố rộng rãi hầu
như không có việc mua bán số liệu.
Thời kỳ này phải kể đến các đơn vị nghiên cứu như Viện Nghiên cứu biển Hải
Phòng, Nha Khí tượng với hoạt động của hệ thống trạm quan trắc cố định ven bờ,
hải đảo và Phòng Hải văn Nghiên cứu, Khảo sát biển. Viện Ngiên cứu biển với các
chương trình điều tra địa chất địa hình ven bờ vịnh Bắc Bộ (1976-1969), điều tra
tổng hợp ven bờ Quảng Ninh – Hải Phòng (1971-1972) với các yếu tố Khí tượng
Thủy văn, Địa chất, Thủy hóa, Sinh vật. Chương trình điều tra nguồn lợi và (1965-
1975).
11 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 523 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiện trạng điều tra - Nghiên cứu khoa học cơ bản về tự nhiên môi trường biển, hải đảo Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nhất về điều tra cơ bản biển là khoảng 100 năm gần đây
tương ứng với giai đoạn 5 của thế giới, có vai trò quan trọng trong việc tạo ra Bộ
cơ sở dữ liệu biển quốc gia phục vụ quy hoạch phát triển các ngành kinh tế biển,
bảo vệ an ninh chủ quyền biển, đảo và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, cứu hộ-cứu
nạn trên biển.
Thời gian dài từ thời cổ đại đến thời đại phát minh địa lý vĩ đại là thời tiền
sử của ngành Đại dương học. Đặc điểm của thời gian này là giới thiệu những vùng
biển đã được đi qua lại. Những nhà hàng hải tiên phong thời này là dân gốc
Polynexia, Mã Lai, Crit, Ai Cập và Phi Nhi Kia. Họ đã có những khái niệm về hình
dạng địa lý những vùng biển quen thuộc cùng với gió và dòng chảy. Những tài liệu
đầu tiên chép tay và bản đồ về biển của người Hy Lạp và Rôm (Italia ngày nay).
Họ lập nên tập kết quả về phân bố nước và đất trên Trái Đất và viết về nhiều hiện
tượng vật lý ở biển. Gerodot (thế kỷ V trước công nguyên), Posidoni (thế kỷ V
trước công nguyên), Plinhi bố (năm đầu sau công nguyên) đã miêu tả dao động
thuỷ triều nước biển và tự tìm quan hệ của chúng với vị trí Mặt Trăng và Trái Đất.
Aristotel chỉ ra sự khác biệt giữa nhiệt độ nước biển tầng mặt và tầng sâu. Như vậy
các nhà khoa học cổ đại đã biết phần nào về địa lý và tính chất vật lý của đại
dương, biển. Thời trung cổ người Ả Rập đã thực hiện những chuyến hàng hải đến
Trung Quốc và Ấn Độ, dân Nóc-ma-nhi đến Greenlandia và bờ vùng Đông Bắc
châu Mỹ, dân Nga đến biển Ba ren, Karxcoie. Họ đã mở rộng tầm nhìn địa lý của
thời này nhưng chưa có biến chuyển về ngành nghiên cứu biển so với thời cổ đại.
Lịch sử phát triển của hoạt động điều tra cơ bản-nghiên cứu biển của thế giới đã có
những chuyển biến mạnh mẽ. Các hoạt động này được chia ra làm 5 giai đoạn
chính như sau.
Giai đoạn thứ nhất - Giai đoạn đầu của điều tra cơ bản (ĐTCB) biển (thế kỷ 15 -
bắt đầu thế kỷ 18). Đặc trưng cho giai đoạn này là tàu bè đi không phương hướng
với mục đích chính là tìm kiếm đất mới và mục đích buôn bán, thương mại. Những
khái niệm mới về biển, đại dương và địa hình thu được cùng với chuyến tàu đi.
Các nhà hàng hải Bồ Đào Nha phát hiện ra dòng chảy Ca-na-ra, Gvi-ney, Ben-gen
trong Đại Tây Dương. Năm 1513 ông Alminos - người Tây Ban Nha đầu tiên
thông báo về dòng Golfstrim (Gulfstream). Cristofor Columb đã tiến hành quan sát
trên dòng chảy giữa đại dương và dòng Bắc Passat. Tàu bơi ven bờ Đại Tây Dương
châu Mỹ tìm thấy dòng Bra-xin và Gvi-an.
Giai đoạn 2 - Thời gian đầu thế kỷ 18 đến những năm 70 của thế kỷ 19, đây là giai
đoạn nghiên cứu và khảo sát đại dương thế giới. Trong thời gian này đã tiến hành
nhiều chuyến khảo sát biển, đại dương đặc biệt. Thành phần đoàn thám hiểm đi
biển bao gồm cả các nhà bác học thực nghiệm khoa học tự nhiên. Những kết quả
đáng kể đầu tiên mang lại là của nhà thám hiểm như Be-ring (năm 1728) và Be-
ring cùng Chi-ri-cov (năm 1741) trên vùng biển Bắc Thái Bình Dương. Kết quả
tương đối nhiều của ba chuyến khảo sát vòng quanh đại dương thế giơí của J.Cuca
(1768 - 1779). Nhiều kết quả mới về vùng Tây Thái Bình Dương đem đến từ
chuyến đi của Bu-gen-vin (1768) và La-pe-ru-za (1785 - 1788). Vào những năm
1803 - 1806 Kru-zen-stern và Li-si-an-ski đầu tiên xác định được nhiệt độ và trọng
lượng riêng của nước biển tại các độ sâu khác nhau. Len-xo (1823 - 1826) - người
đầu tiên xác định được hướng chuyển động nước sâu lạnh về phía xích đạo, nước
ấm mặt về phía ngược lại. Trong giai đoạn này các thông tin về biển trước được chi
tiết hóa và khẳng định lại. Lo-mo-no-xop (1760) đề nghị thực hiện phân loại băng
đá đại dương và sơ đồ dòng chảy trên các đại dương. Mar-si-li (1725) cho xuất bản
“Lịch sử vật lý biển” và đây được coi là ấn phẩm đầu về vật lý hải dương viết về
nhiệt độ, trọng lượng riêng, màu sắc nước biển, về địa hình đáy và trầm tích biển.
Mo-ri (1848) cho xuất bản “Tập bản đồ gió và dòng chảy” cho các vùng trục giao
thông hàng hải. For-gam-mer (1865) lần đầu tiên xác định tương đối chính xác các
thành phần muối nước biển.
Giai đoạn ba - Từ những năm 70 của thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, tiến hành khảo
sát thám hiểm, nghiên cứu đại dương áp dụng những phương pháp nghiên cứu của
ngành khoa học Hải dương học. Đầu tiên những nghiên cứu mang phong cách
miêu tả - tức là thu thập số liệu thực tế và một phần nào giải thích các hiện tược
quan trắc thấy. Chuyến thám hiểm Hải dương học đầu tiên của các nhà khoa học
Anh (1872-1876) dùng tầu Challenger nghiên cứu quan trắc tổng thể tại 362 trạm
nước sâu trên khắp Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. Khối lượng
kết quả rất vĩ đại và đã được 70 nhà khoa học nghiên cứu trong vòng 20 năm. Kết
quả khoa học thu được mang lại rất nhiều điều lý thú và bổ ích. Dit-mar tìm thấy
sự ổn định không thay đổi của các thành phần muối nước biển. Me-rey và Re-na
đưa ra phân loại trầm tích đáy biển. Ngoài ra trong thời gian thám hiểm cũng tìm
thấy sự sống ở độ sâu 5000m.
Giai đoạn bốn - Giai đoạn phát triển bậc cao của hoạt động điều tra-nghiên cứu
biển, đó là thời kỳ nghiên cứu chi tiết các đại dương và biển (thời gian đại chiến
thế giới thứ nhất và thứ hai). Đặc trưng cho giai đoạn này nghiên cứu một cách có
hệ thống. Các công trình đáng kể mang lại do tầu Na Uy “Mode” (1918 - 1920)
dọc bờ các biển Bắc từ Na Uy đến Aliaska (Mỹ) và tầu “Dana” (1921 - 1922) trên
Bắc Đại Tây Dương. Tàu Đức “Meteor” (1925 - 1937) đã thực hiện đo đạc hệ
thống thường kỳ tại 14 mặt cắt của Đại Tây Dương và cho biết khái niệm tương
đối chính xác về cấu trúc không gian các khối nước và sự hoàn lưu của chúng.
Trong giai đoạn này các nhà Hải dương học đã chỉ ra các qui luật quan trọng về
phát triển của các quá trình vật lý, hoá học, sinh học và địa chất diễn ra trong nước
đại dương và vùng trên kề bờ, đáy và cả khí quyển trên biển.
Giai đoạn năm - Hiện nay, tập trung vào nghiên cứu vấn đề, chuyên môn cụ thể
các biển, đại dương. Đó là nghiên cứu bằng phương pháp thám hiểm tổng hợp với
các công nghệ đo đạc hiện đại tự ghi, vệ tinh, radar, thí nghiệm và lý thuyết cho
từng vấn đề lớn như dòng chảy, thủy triều, sóng, băng đá biển, âm học biển Và
trên thế giới đã xây dựng nhiều tàu biển chuyên nghiên cứu khoa học và thường
xuyên quan trắc thời tiết biển trên đại dương thế giới. Thời gian này đã có rất nhiều
phát minh Hải dương học. Những năm 60 phát hiện ra dòng chảy ngược nước sâu
xích đạo. Crom-well (Mỹ) tại vùng xích đạo Thái Bình Dương, phía dòng Nam
Passat đã tìm thấy dòng nước có kích thước (cao 300m và rộng 300km) hướng
sang Đông có vận tốc 150 cm/s. Đó chính là dòng Cromwell. Trong thời kỳ này
phát hiện ra dòng Lomonoxop, Atilo-Gvian, Angola. Một phát hiện quan trọng như
trong khí quyển đó là các xoáy Sinop trên biển và ngoài đại dương. Và cũng xác
định đước lớp mỏng bề mặt, kênh âm dưới nước, vũng và mô đáy biển.
2. Thành tựu hoạt động điều tra cơ bản-nghiên cứu biển Việt Nam.
Chúng ta có hoạt động điều tra cơ bản biển thuộc giai đoạn thứ 5 của thế giới– giai
đoạn hiện đại, và Việt Nam hiện đã thông qua các giai đoạn sau:
1. Các chương trình điều tra tổng hợp biển thời kỳ thuộc Pháp theo các mặt cắt
chuẩn quốc tế. Thực sự công việc triển khai quan trắc và điều tra nghiên cứu biển
được bắt đầu từ thời kỳ thuộc Pháp với sự ra đời của Đài Quan trắc Khí tượng
Vũng Tầu 1897 theo Quyết định của Toàn quyền Đông dương Paul Doumer sau
kết quả Hội đồng Khoa học do Đại tá Hải quân Dou Zans, Tư lệnh Hạm đội Nam
Kỳ làm chủ tịch theo. Cũng theo tài liệu ngành Khí tượng và Địa chất Đông dương
được hình thành từ Ban Kinh tế thuộc Phủ Toàn Quyền Đông dương do Tiến sỹ
khoa học Capuytx Capus là Trưởng ban năm 1898. Tuy nhiên ở Việt Nam sự ra
đời Đài Thiên Văn Vật lý Địa cầu Phủ Liễn (1922) và viện Hải dương học Nha
Trang (9/1922) gắn liền với mạng lưới quan trắc Khí tượng, Vật lý Địa cầu và khởi
đầu cho công tác điều tra cơ bản về biển Việt Nam. Mạng lưới quan trắc Khí
tượng Hải văn trên toàn xứ Đông Dương được bắt đầu từ theo quyết định toàn
quyền Paul Doumer. Sự ra đời của viện Hải dương học Nha Trang gắn liền với các
chuyến khảo sát biển bằng tầu nghiên cứu biển của Pháp. Từ khi thành lập cho đến
1945, Viện Hải dương học Nha Trang sử dụng tầu nghiên cứu biển De Lanessan và
các tầu khác của hải quân Pháp thực hiện đo đạc, quan trắc theo các mặt cắt cố
định với số lượng trạm phân bố trong vịnh Bắc Bộ, thềm lục địa Trung Bộ, Nam
Bộ Việt Nam, vùng biển thuộc Căm Puchia, Thái Lan và vùng biển đông và nam
Biển Đông. Các hạng mục đo đạc, quan trắc trong hệ thống mặt cắt được xây dựng
từ tầng mặt tói tầng đáy là: Các yếu tố khí tượng tầng mặt, các yếu tố hóa lý nước
từ tầng mặt tới tầng đáy, địa hình, địa chất, sinh vật nổi, sinh vật đáy và đánh bắt cá
thí nghiệm.
Các kết quả đo đạc về dòng chảy ven bờ Việt Nam, và lưu lượng nước qua các eo
biển lớn của Biển Đông với vùng nước Thái Bình Dương đã hình thành được bản
đồ hoàn lưu nước Biển Đông và có được những kết luận quan trọng về hệ thống
dòng chảy Bắc Nam đo ven bờ Việt Nam. Các quan trắc thực nghiệm về vật thể
trôi của Wirtky (1930) thực hiện trên vùng Biển Đông đã đưa ra bản đồ dòng trôi
tầng mặt trên toàn vùng Biển Đông. Giá trị của các kết quả quan trắc này hiện nay
vẫn còn nguyên giá trị tham khảo trong nhiều công trình nghiên cứu.
Công việc đo đạc, khảo sát tổng hợp bằng tầu nghiên cứu biển theo các mặt cắt cố
định đã được thực hiện bởi khá nhiều các nhà Hải dương học nổi tiếng như Krempf
A, E Saurin... Nguồn số liệu thu được trong giai đoạn này hiện vẫn được lưu trữ và
khai thác có hiệu quả trong rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học ở Việt
Nam.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng để có được các kết quả khoa học có giá trị
cần phải dựa trên các bộ số liệu quan trắc có mức đảm bảo cao về chất lượng quan
trắc và độ dài, tính liên tục của bộ số liệu đó. Có thể nói trước giai đoạn 1945 với
sự có mặt của tầu nghiên cứu biển Pháp cùng với hệ thống mặt cắt chuẩn đã để lại
những kết luận khoa học rất có giá trị về hoàn lưu nước, sinh vật và địa chất vùng
Biển Đông và lân cận.
2. Các chương trình điều tra biển ở Miền Bắc và Miền Nam trước 1975
Các chương trình điều tra tổng hợp biển ở Miền Bắc
Do có điều kiện hợp tác nghiên cứu biển giữa Việt Nam với Trung Quốc và Liên
Xô trước đây các chương trình điều tra tổng hợp Vịnh Bắc Bộ đã được tổ chức
thực hiện khá bài bản theo quy trình chuẩn phù hợp quốc tế. Chương trình điều tra
tổng hợp Vịnh Bắc Bộ 1959 -1962, Chương trình điều tra nguồn lợi cá đáy vịnh
Bắc Bộ. Hai chương trình này đều do UBKHNN (Bộ Khoa học và Công nghệ ngày
nay) chủ trì. Nội dung điều tra cơ bản tổng hợp bao gồm các yếu tố Khí tượng, Hải
dương học với các lĩnh vực thủy hóa, địa chất biển, sinh vật nổi, sinh vật đáy, trứng
cá... trên phạm vi đồng bộ toàn Vịnh Bắc Bộ mô tả rất kỹ phân bố mùa các yếu tố.
Sản phẩm của các chương trình này là bộ Atlas vịnh Bắc Bộ tỷ lệ 1:200.000 mô tả
các yếu tố thủy hóa động lực, địa chất biển và bộ sưu tập chuẩn sinh vật vịnh Bắc
Bộ. Các kết quả điều tra khảo sát theo các mặt cắt đồng bộ không gian và thời gian
đã để lại giá trị khoa học cho đến ngày nay.
Các chương trình hợp tác điều tra của các Bộ chuyên ngành với Liên Xô trước đây
Trong 2 năm 1960 -1961 Tổng cục Thủy sản Việt Nam kết hợp với Viện Hải
dương học nghề cá Thái Bình Dương (TINRO) thực hiện 5 chuyến khảo sát theo
Hiệp định ký giữa 2 Chính phủ Việt Nam và Liên Xô trước đây. Kết quả hợp tác
điều tra này ngoài việc đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác cá vịnh Bắc Bộ
còn đánh giá được mức độ biến động mùa của các yếu tố thủy hóa, động lực biển
từ tầng mặt tới tầng đáy vịnh Bắc Bộ. Giá trị điều tra khảo sát đồng bộ theo không
gian và thời gian theo các mặt cắt chuẩn đã đáp ứng được mục tiêu, sản phẩm của
một chương trình khoa học.
Các chương trình điều tra biển ven bờ của các chuyên ngành
Có hai yếu tố cần được nhấn mạnh một là do kết quả hợp tác với Liên Xô và Trung
Quốc các quy chuẩn, quy phạm điều tra khảo sát được tuân thủ nghiêm ngặt, các
thiết bị chủ yếu là cơ học. Yếu tố thứ hai là cán bộ tham gia khảo sát, nghiên cứu
với số lượng chưa nhiều song được đào tạo cơ bản về ngành nghề, đồng lương ổn
định, tiêu cực xã hội rất ít. Các bộ số liệu được chỉnh lý và công bố rộng rãi hầu
như không có việc mua bán số liệu.
Thời kỳ này phải kể đến các đơn vị nghiên cứu như Viện Nghiên cứu biển Hải
Phòng, Nha Khí tượng với hoạt động của hệ thống trạm quan trắc cố định ven bờ,
hải đảo và Phòng Hải văn Nghiên cứu, Khảo sát biển. Viện Ngiên cứu biển với các
chương trình điều tra địa chất địa hình ven bờ vịnh Bắc Bộ (1976-1969), điều tra
tổng hợp ven bờ Quảng Ninh – Hải Phòng (1971-1972) với các yếu tố Khí tượng
Thủy văn, Địa chất, Thủy hóa, Sinh vật. Chương trình điều tra nguồn lợi và (1965-
1975)...
Các kết quả điều tra khảo sát trong thời kỳ này hiện vẫn đang được sử dụng khá
rộng rãi. Các kết quả nghiên cứu này còn là nguồn số liệu quan trọng để phát triển
nhiều luận án tiến sỹ khoa học của nhiều chuyên ngành được bảo vệ ở Liên Xô, Ba
Lan và một số nước trong cộng đồng XHCN thời kỳ này.
Các chương trình điều tra nghiên cứu biển ở Miền Nam trước 1975
Thời kỳ trước 1975, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa là thành viên chính thức
của Tổ chức Hải dương học Liên Chính phủ IOC và Viện Hải dương học Đông
Dương sau ngày thống nhất đất nước đổi tên là Viện Hải dương học Nha Trang là
cơ quan chuyên môn đại diện. Sự kết nối quốc tế điều tra nghiên cứu Hải dương
học vùng biển phía Nam đã được hình thành khá sớm.
Các chương trình điều tra khảo sát tổng hợp và nghiên cứu biển khu vực phải kể
đến là Chương trình NAGA (1959-1961), CSK (1965-1967), các chương trình điều
tra khảo sát nghiên cứu Hải hương học của Hải quân Hoa Kỳ, chương trình khảo
sát nghề cá viễn duyên Nam Việt Nam (1968-1971) với sự tham gia của nhiều
quốc gia, tổ chức quốc tế. Phạm vi điều tra khảo sát và nghiên cứu Hải dương học
của các chương trình này trải rộng Nam Biển Đông, Vịnh Thái Lan. Sau mỗi
chương trình điều tra khảo sát đều có các kết qủa nghiên cứu được công bố.
Các chuyến khảo sát, các trạm quan trắc khí tượng Hoàng Sa, Trường Sa (1973),
vùng biển Cam Ranh, vùng biển Côn Đảo (1965-1966) đã để lại những dấu ấn
quản lý nhà nước Việt Nam tại đây.
Có thể nói trước 1975 các chương trình điều tra nghiên cứu biển ở vùng biển phía
Bắc cũng như ở vùng biển phía Nam được thực hiện với sự tham gia của quốc tế.
Ở Miền Bắc với sự tham gia của Trung Quốc, Liên Xô cũ, ở Miền Nam là các
chương trình quốc tế, khu vực. Quy mô điều tra khảo sát đồng bộ khá rộng, toàn bộ
vịnh Bắc Bộ và khu vực biển Nam Biển Đông, vịnh Thái Lan. Các chương trình
điều tra khảo sát này là nguồn số liệu của các bài báo, công trình kèm theo có giá
trị khoa học cao, hiện nay vẫn được tham khảo rộng rãi.
3. Hệ thống các chương trình điều tra nghiên cứu biển sau 1975
Sau thời kỳ thống nhất hai miền Nam Bắc 1975, từ năm 1977 đến nay Chương
trình Điều tra nghiên cứu biển cấp Nhà nước đã trải qua gần 40 năm. 40 năm qua
với 8 Chương trình có các tên gọi, mục tiêu, nội dung và sản phẩm ngày càng đa
dạng và phong phú, gia tăng lực lượng tham gia hoạt động điều tra nghiên cứu
biển. Chắc chắn Ban Chủ nhiệm Chương trình KC.09/11 -15 sẽ có những nghiên
cứu đánh giá sâu sắc hơn về những thành quả cũng như các vấn đề cần cần xem xét
về tổ chức của các chương trình này trong dịp tổng kết.
Dưới đây là tóm lược tên gọi của 8 Chương trình biển giai đoạn 1977-2015 do Ủy
ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước trước đây và Bộ Khoa học và Công nghệ hiện
nay trực tiếp quản lý. Do khuôn khổ của bài viết chúng tôi không trích dẫn ra các
mục tiêu, nội dung cũng như sản phẩm của từng Chương trình trong mỗi giai đoạn
khác nhau.
- Chương trình Điều tra tổng hợp vùng biển ven bờ Thuận Hải- Minh Hải giai
đoạn 1977-1980.
- Chương trình Điều tra tổng hợp biển và thềm lục địa Việt Nam, giai đoạn
1981-1985. Mã số 48.06.
- Chương trình Điều tra Nghiên cứu tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên
thiên nhiên và một số vấn đề kinh tế xã hội biển phục vụ phát triển kinh tế biển,
giai đoạn 1986-1990. Mã số 48B.
- Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước về Điều tra nghiên cứu
biển, giai đoạn 1991-1995. Mã số KT 03.
- Chương trình Điều tra nghiên cứu biển, giai đoạn 1996-2000. Mã số KHCN
06.
- Chương trình Điều tra cơ bản và Nghiên cứu ứng dụng công nghệ biển, giai
đoạn 2001-2005. Mã số KC.09.
- Chương trình Khoa học và Công nghệ biển phục vụ phát triển bền vững kinh
tế xã hội, giai đoạn 2006-2010. Mã số KC.09/06-10.
- Chương trình Nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ phát triển quản lý
biển, hải đảo và phát triển kinh tế biển, giai đoạn 2011-2015. Mã số KC.09/11-15.
Ngoài ra còn có 3 chương trình quốc gia khác như Chương trình nghiên cứu biển
của Tổng cục Khí tượng Thủy văn trước đây, Chương trình Biển Đông –Hải đảo
thuộc Bộ Kế hoạch đầu tư và hiện nay là Đề án 47 (2007 đến nay) về điều tra cơ
bản tổng hợp TNMT biển do Bộ Tài nguyên và Môi trường trực tiếp quản lý.
3. Thành tựu và thách thức hoạt động điều tra cơ bản-nghiên cứu biển
Thành tựu:
- Hệ thống các Chương trình trình quốc gia về điều tra cơ bản-nghiên cứu biển đã
xây dựng được mạng lưới hàng chục Viện, Trung tâm, Khoa/Trường Đại học cùng
hàng ngàn nhà khoa học với các lĩnh vực liên quan đến biển ngày một phong phú.
- Các vấn đề kinh tế, xã hội và quản lý biển bảo vệ biển đã được cập nhật kịp thời.
Các thông tin về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, môi trường vùng biển Việt Nam đã
kịp thời phục vụ cho các hoạt động kinh tế, an ninh-an toàn trên biển. Hầu hết các
Chương trình đều đề cập đến điều tra cơ bản, điều tra nghiên cứu biển. Tính chất
hướng về điều tra khảo sát, điều tra nghiên cứu là hoàn toàn đúng đắn thể hiện
đúng tính chất đặc thù của khoa học Trái Đất nói chung và khoa học biển nói riêng
là phải dựa vào số liệu điều tra cơ bản, điều tra khảo sát chuyên đề, điều tra khảo
sát định kỳ. Các kết quả, dữ liệu thu được tương đối nhiều về các yếu tố tự nhiên,
môi trường biển. Hợp tác quốc tế về điều tra cơ bản-nghiên cứu biển cũng đã có
những bước tiến tốt.
- Các kết quả nghiên cứu KHCN đã cung cấp luận cứ khoa học triển khai các đề
án, dự án sự nghiệp kinh tế lĩnh vực B&HĐ về lập bản đồ địa hình đáy biển, hải đồ
các vùng biển Việt Nam; điều tra ĐC&KS biển nông ven bờ đến 100 m nước; khí
hydrat và khoáng sản biển sâu đến 2500 m nước; điều tra, đánh giá về môi trường
biển (nguồn thải, tải lượng chất thải); HST biển; nguồn lợi biển (thủy sản); quan
trắc tổng hợp, điều tra định kỳ về khí tượng thủy văn biển; điều tra tổng hợp phục
vụ quản lý dải ven biển; phục vụ xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển Việt
Nam; điều tra tổng hợp một số đảo chính, quan trọng; một số vũng, vịnh ven biển;
xây dựng cơ sở dữ liệu B&HĐ.
- Nhiều tiến bộ KHCN đã được sử dụng, áp dụng, ứng dụng như: áp dụng các học
thuyết về kiến tạo, sinh khoáng hiện đại trong điều tra ĐC&KS (đo vẽ lập bản đồ
địa chất và khoáng sản trên biển; thành lập các bản đồ địa chất Biển Đông...); ông
nghệ phân tích ảnh viễn thám; công nghệ tin học; công nghệ địa vật lý mới, đặc
biệt là các thiết bị, máy móc đo địa chấn trên trên biển; đo trọng lực độ chính xác
cao; ứng dụng các phần mềm xử lý, phân tích tài liệu địa vật lý: địa chấn, sonar
quét sườn; công nghệ định vị dẫn đường, đo sâu hồi âm đa tia; công nghệ khoan
thổi; công nghệ phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm; chế tạo và đưa vào sử dụng
một số máy đo địa vật lý (từ, xạ phổ) trên biển. Chế tạo và đưa vào sử dụng một số
thiết bị phục vụ điều tra địa chất khoáng sản biển ven bờ.
- Bước đầu nghiên cứu, tiếp thu công nghệ nước ngoài về điều tra, đánh giá khí
hydrat và các khoáng sản biển sâu. Việc áp dụng, ứng dụng các thành tựu KH&CN
của nước ngoài và trong nước đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của lĩnh
vực B&HĐ của Việt Nam, trong một số trường hợp đạt trình độ tiên tiến của khu
vực và thế giới. Tuy nhiên, so với các nước phát triển nhất thì trình độ công nghệ
của nước ta trong lĩnh vực B&HĐ còn ở mức rất khiêm tốn.
- Về phạm vi không gian của các Chương trình chủ yếu là ven bờ trải dài từ Bắc
đến Nam bao gồm bờ tây vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan vùng lãnh hải Việt Nam,
vùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, tuy nhiên chưa bao quát đầy đủ đồng bộ
vùng thềm lục địa cũng như vùng biển Việt Nam.
Thách thức
- Chưa hình thành được Mạng lưới điểm, tuyến, khu vực điều tra khảo sát quốc gia
chung tính chất điều tra khảo sát là do các đề tài tự đề xuất cho phù hợp với mục
tiêu nội dung nghiên cứu của từng đề tài trong từng Chương trình. Điều này không
phù hợp với tính chất chung của một Chương trình điều tra cơ bản nghiên cứu biển
theo nghĩa khoa học thuần túy. Việc điều tra chuyên đề theo lĩnh vực đưa về các đề
tài đã làm khó cho công tác kiểm soát, rất có thể gây lãng phí vì mỗi đề tài chi phí
cho công tác khảo sát này lên tới 30-45% tổng số kinh phí của mỗi đề tài.
- Chưa có quy hoạch Mạng lưới quốc gia các Viện, Trung tâm điều tra cơ bản-
nghiên cứu biển chủ chốt, thiếu các chuyên gia đầu ngành trong hoạch định chính
sách và đảm nhiệm nhiệm vụ ĐTCB quốc gia
- Các Chương trình đều kèm theo hệ thống các đề tài. Các đề tài đều có báo cáo
tổng kết và nộp lưu trữ vào Cục Thông tin của Bộ KHCN. Tuy nhiên các ấn phẩm
của mỗi Chương trình để lại báo cáo chung không thống nhất qua từng giai đoạn.
Đặc biệt thiếu các bài báo đăng tải có giá trị khoa học quốc tế cũng như các giá trị
khoa học ghi dấu ấn của từng Chương trình. Việc thiếu thông tin trao đổi chính
thức đã dẫn đến hệ quả là có không ít đề tài sử dụng các kết quả điều tra khảo sát
nghiên cứu trước đó không minh bạch. Nhiều đề tài đã thực hiện không tuyên
truyền phổ biến được gây lãng phí cho Nhà nước.
- Do thiếu vắng vai trò quy hoạch chung về điều tra cơ bản-nghiên cứu biển của hệ
thống 8 Chương trình KHCN biển dẫn đến không xem xét đến vai trò của hệ thống
tàu điều tra khảo sát cũng như hệ thống thiết bị quan trắc đo đạc được sử dụng
trong mỗi Chương trình. Đây cũng là một vấn đề quan trọng mấu chốt trong điều
tra nghiên cứu biển Việt Nam.
- Do khó khăn về quản lý chung cũng như quan điểm chủ quyền bảo vệ lãnh hải,
các Chương trình biển thiếu hẳn yếu tố hợp tác quốc tế về điều tra nghiên cứu biển.
Điều này dẫn đến hệ lụy là kết quả nghiên cứu Hải dương học của Việt Nam rất
khó đăng tải trong các tạp chí quốc tế có uy tín. Mặt khác vì Việt Nam thiếu tàu
nghiên cứu biển đạt chuẩn quốc tế vì vậy các hợp tác quốc tế rất khó thành công do
rất khó khăn trong thủ tục hành chính và hạn chế kinh phí thuê tầu nước ngoài.
- Thông tin kết quả, cơ sở dữ liệu biển quốc gia điều tra cơ bản-nghiên cứu biển từ
các Chương trình không được công bố rộng rãi. Vì vậy, các nhà khoa học, nhà
quản lý cũng như hoạt động các chương trình sau khó khăn trong việc tiếp cận, cập
nhật thông tin, sử dụng các kết quả đã có.
- Việt Nam vẫn chưa có Trung tâm Dữ liệu biển Quốc gia và hầu như chưa có mối
quan hệ với các Trung tâm Dữ liệu biển Quốc tế? Mà trước hết là các Trung tâm
lớn như Trung tâm A ở Wasington (Hoa Kỳ), Trung tâm B ở Obnhinsk (Nga),
Trung tâm C ở Australia và Trung tâm D ở ThiênTân (Trung Quốc) theo hệ thống
quản lý và đánh giá của Tổ chức Khí tượng Thế giói (WMO) và Ủy ban Hải
Dương học Liên Chính phủ (IOC), Tổ chức Thủy đạc quốc tế (IHO), Ủy ban liên
chính phủ biển Bắc Thái Bình Dương (PICES),.. Việt Nam cũng chưa có nhiều
mối quan hệ trao đổi dữ liệu và thông tin.
- Các công trình nghiên cứu để được đăng tải vào các tạp chí có chỉ số khoa học
cao thì trước hết phải phải được làm rõ nguồn dữ liệu đưa vào, thiết bị và tầu quan
trắc nào.
- Đề án Chính phủ 47 về điều tra tổng hợp TNMT biển đã đầu tư cho nhiều nội
dung trong đó có 3 nội dung quan trọng là đề xuất với Nhà nước thành lập Trung
tâm Dữ liệu biển Quốc gia, ban hành các Quy chuẩn Kỹ thuật thống nhất phục vụ
cho điều tra nghiên cứu, dự báo biển trong điều kiện phát triển mạnh của khoa học,
công nghệ hiện đại quốc tế và hình thành được Đội tầu nghiên cứu biển có tầm cỡ
khu vực. Rất mong 3 nội dung này được công báo để các nhà Khoa học biển/Hải
dương học Việt Nam tăng cường niềm tin vào sự nghiệp tiến ra biển, ra xa hơn nữa
với những kiến thức, công nghệ hiện đại.
4. Đề xuất các giải pháp phát triển và quản lý ĐT/NCCB biển
1. Xây dựng Chiến lược (chương trình, đề án, dự án, đề tài, ..) trọng điểm quốc gia
Điều tra/Nghiên cứu cơ bản tài nguyên - môi trường biển;
2. Hòan thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và các nội dung hoạt
động điều tra cơ bản tài nguyên - môi trường biển.
3. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về Điều tra cơ bản tài nguyên - môi
trường biển cấp quốc gia; rà soát phân công nhiệm vụ điều tra cơ bản giữa các Bộ,
ngành và các địa phương ven biển; nâng cao vai trò, vị thế của chính quyền các đị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hien_trang_dieu_tra_nghien_cuu_khoa_hoc_co_ban_ve_t.pdf