Đánh giá tình hình chi tiêu công ở Việt Nam năm 2008

Trong năm 2008, để kịp thời triển khai các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương thực hiện điều hành chi NSNN năm 2008 với chủ trương thắt chặt chi tiêu, rà soát, sắp xếp giảm chi đầu tư các dự án chưa thực sự cấp bách để tập trung vốn cho các dự án cần thiết, cấp bách, các dự án có khả năng hoàn thành và đưa vào sử dụng trong năm 2008; thực hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên; sử dụng dự phòng ngân sách các cấp và nguồn tăng thu NSNN năm 2008 thực hiện các chính sách an sinh xã hội nhằm hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc, người lao động có thu nhập thấp vượt qua khó khăn do ảnh hưởng của lạm phát. Trong đó:

1.1 Đã rà soát lại danh mục các dự án, công trình đầu tư; đình hoãn và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1.968 dự án, với tổng số vốn là khoảng 5.992 tỷ đồng, bằng 8% kế hoạch năm 2008. Toàn bộ số vốn dành ra từ việc đình hoãn, ngừng triển khai và giãn tiến độ thực hiện này được tập trung bố trí cho các dự án hoàn thành và có khả năng đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2008, các dự án cần thiết, cấp bách, có hiệu quả.

Bên cạnh đó, đã rà soát, điều chỉnh giảm 25% kế hoạch vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ cho các công trình giao thông, thuỷ lợi và nâng cấp bệnh viện tuyến huyện so với mức Quốc hội quyết định; riêng trái phiếu giáo dục điều chỉnh giảm 5,6% so với mức Quốc hội quyết định.

1.2 Rà soát lại danh mục dự án được vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Đình hoặc giãn tiến độ cấp vốn tín dụng cho các dự án không triển khai, triển khai chậm hoặc không mang lại hiệu quả. Hạn chế cấp bảo lãnh Chính phủ cho các dự án không thuộc đối tượng cấp thiết và trọng yếu của nền kinh tế.

 

doc13 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5116 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình hình chi tiêu công ở Việt Nam năm 2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuần (= Cho vay mới – thu nợ gốc) Ở đây, chúng ta sẽ đi tập trung nghiên cứu những khoản chi nằm trong chi tiêu công cũng chính là chi ngân sách Nhà nước. Dù còn tồn tại sự khác biệt về thể chế chính trị ở các quốc gia trên thế giới, trong thực tế, luôn có hai lĩnh vực mà chi tiêu công hướng đến. Khu vực thứ nhất là chi tiêu công phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế. Những khoản chi chúng ta vẫn thường gọi là chi phát triển kinh tế. Chúng bao gồm nhiều khoản mục khác nhau và tất cả chúng đều có liên quan trực tiếp đến việc thiết lập một nền tảng tốt hơn cho phát triển kinh tế. Loại chi tiêu công này được mong đợi là góp phần nâng cao sản lượng của nền kinh tế. Các khoản chi tiêu này được biết đến như là các khoản chi cho đầu tư và phát triển. Một số những khoản chi tiêu này là chi tiêu cho nông lâm nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông vận tải và thông tin, thương mại và công nghiệp, năng lượng, và một số khoản chi khác. Bên cạnh các khoản chi vào đầu tư và phát triển, lĩnh vực thứ hai mà chi tiêu công hướng đến là khoản chi nhằm mục đích cải thiện và nâng cao đời sống của người dân trong nền kinh tế. Loại chi tiêu này được xem là chi tiêu dùng mặc dù nó cũng đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế thông qua việc nâng cao năng suất của lực lượng lao động trong xã hội. Vì vậy, loại chi tiêu này được gọi là chi đầu tư vốn con người (hay chi tiêu dùng). Điều quan trọng cần lưu ý những khoản chi như thế này phản ảnh một trong những mục tiêu chính của phát triển kinh tế cho bất kỳ quốc gia nào trên toàn thế giới bởi vì, dù bất kỳ lý do gì, kết quả đạt được từ việc phát triển kinh tế phải mang đến lợi ích cho toàn thể nhân dân.  Một số khoản chi tiêu biểu là chi cho giáo dục, sức khỏe, những dịch vụ công như luật lệ và trật tự xã hội, trợ cấp và nhiều khoản chi khác. Tại Việt Nam, Theo Khoản 2 Điều 2 của Luật ngân sách nhà nước năm 2002 đã nói rõ: “chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an minh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật”. Theo đó, điều 31 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 đã nêu rõ nhiệm vụ chi của ngân sách Trung ương bao gồm: Chi đầu tư phát triển: Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do trung ương quản lý; Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước; Chi bổ sung dự trữ Nhà nước; Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật; Chi thường xuyên: Các hoạt động sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các hoạt động sự nghiệp khác do các cơ quan Trung ương quản lý; Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các cơ quan Trung ương quản lý; Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, không kể phần giao cho địa phương; Hoạt động của các cơ quan trung ương của Nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; Trợ giá theo chính sách của Nhà nước; Các chương trình quốc gia do Trung ương thực hiện; Hỗ trợ Quỹ Bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ; Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội do Trung ương đảm nhận; Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở Trung ương theo quy định của pháp luật Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật; Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay thông qua các hình thức vay như phát hành trái phiếu Chính phủ, vay qua nguồn viện trợ ODA có hoàn lại. Chi viện trợ; Chi cho vay theo quy định của pháp luật; Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của Trung ương; Chi bổ sung cho ngân sách địa phương. Với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì chủ yếu là chi tiêu công dùng vào chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên nhằm nâng cao đời sống cho người dân cũng như phát triển cơ sở hạ tầng cho quốc gia. ĐÁNH GIÁ CHI TIÊU CÔNG 2.1. Khái niệm đánh giá chi tiêu công: đánh giá chi tiêu công là việc đánh giá công tác hoạch định chính sách ngân sách và xây dựng thể chế. Nó là công cụ chủ yếu trong việc phân tích các vấn đề của khu vực công và lý giải tại sao khu vực công cần thiết phải tại trợ cho các hoạt động kinh tế - xã hội (Lý thuyết tài chính công, PGS.TS Sử Đình Thành&TS.Bùi Thị Mai Hoài, 2006:80). Sự cần thiết phải đánh giá chi tiêu công: Cân đối ngân sách Nhà nước (NSNN) là một trong các nội dung cơ bản nhất của nền tài chính quốc gia và là điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự ổn định lành mạnh cho nền tài chính quốc gia, trong đó chi tiêu công là chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng của cân đối ngân sách. Mục đích cơ bản của đánh giá chi tiêu công là giúp cho Chính phủ sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực tài chính công thông qua ưu tiên hóa các khoản chi tiêu nhằm đem lại lợi ích thiết thực vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội. 2.2. Nội dung đánh giá chi tiêu công: Về mặt tổng thể: đánh giá chi tiêu công là một quá trình phân tích trên hai khía cạnh: Khía cạnh định tính: đánh giá việc lựa chọn những loại hàng hóa công mà Chính phủ nên cung cấp cho xã hội. Khía cạnh định lượng: xem xét chi phí bỏ ra để cung cấp hàng hóa công và lợi ích mà hàng hóa công mang lại. Trên cơ sở phân tích chi phí và lợi ích giữa các hàng hóa công mà Chính phủ cung cấp, Chính phủ sẽ có cơ sở để so sánh và nhận định để chọn lựa cho đúng loại Về chi tiết: quá trình đánh giá chi tiêu công được tiến hành thông qua việc đánh giá những nội dung sau: Phân tích chương trình chi tiêu công: chương trình chi tiêu công là cơ sở để thực hiện chi tiêu công. Chi tiêu công theo chương trình sẽ giúp cho Chính phủ tập trung dứt khoát vào sự lựa chọn trong số các chương trình có tính cạnh tranh. Cần phân tích những nội dung sau: chương trình chi tiêu công tạo ra loại hàng hóa gì, có thực sự cần thiết hay không; lợi ích của nó mang lại cho địa phương, vùng hay của quốc gia; nó có đáp ứng đại đa số nguyện vọng của người dân hay không. Phân tích thất bại của thị trường: nội dung phân tích cần tập trung vào gắn kết nhu cầu chi tiêu để thực hiện chương trình với một hoặc nhiều thất bại của thị trường như: thất bại của cạnh tranh (tình trạng độc quyền) gây ra các tổn thất về phúc lợi xã hội; sự thiếu hụt hàng hóa; ngoại tác tiêu cực; thị trường không hoàn hảo. Dựa trên sự phân tích những thất bại của thị trường trong quá trình chi tiêu công, chúng ta đánh giá những hình thức can thiệp của chính phủ và kết quả khắc phục khiếm khuyết của thị trường như thế nào. Đánh giá tính hiệu quả: tiến hành phân tích hiệu quả của chi tiêu công xét trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Tức là, nếu như chi tiêu công được xem là hợp lý, thì cần đánh giá những chi phí và lợi ích của các khoản chi tiêu khác nhau nhằm lựa chọn những chi tiêu tạo ra được nhiều phúc lợi xã hội so với khu vực tư nhân có thể đem lại. Trong quá trình đánh giá, cũng cần chỉ rõ những tác động sau: Tác động của chi tiêu công đến khu vực tư nhân: sự phản ứng của khu vực tư đối với chính sách chi tiêu công có thể tích cực hoặc tiêu cực. Nếu là phản ứng tiêu cực sẽ làm suy giảm phúc lợi xã hội thì chính phủ nên điều chỉnh chính sách chi tiêu công của mình. Tác động tới thu nhập và thay thế: đối với mỗi chương trình chi tiêu công của Chính phủ, việc phân biệt tác động thay thế và tác động thu nhập là rất hữu dụng trong hoạch định chính sách chi tiêu. Trong một số trường hợp, Chính phủ không muốn khuyến khích hoặc muốn kìm hãm một hoạt động kinh tế nào đó thì Chính phủ có thể thực hiện chính sách chi tiêu công sao cho để đạt tới mục tiêu tác động thay thế lớn. Còn nếu Chính phủ chỉ quan tâm chủ yếu đến việc làm như thế nào để mọi người cũng được lợi, thì chương trình chi tiêu công ưa thích là gây tác động thu nhập. Tác động phân phối: trong mỗi chương trình chi tiêu công của Chính phủ, có thể có nhiều đối tượng hưởng lợi ở những mức độ khác nhau, nhưng không phải bao giờ cũng dễ dàng xác định một cách chính xác. Tuy vậy, khi đánh giá tác động về phân phối cần quan tâm hơn đến việc nâng cao thu nhập cho những tầng lớp có thu nhập thấp trong xã hội. Đánh đổi giữa công bằng và hiệu quả: Trong nhiều chương trình chi tiêu công luôn có sự chọn hay đánh đổi giữa các mục tiêu hiệu quả và công bằng. Những bất đồng ý kiến về mục tiêu của các chương trình thường xuất phát từ sự khác nhau về nhận thức các giá trị có tính chuẩn tắc trong việc cân nhắc giữa công bằng và hiệu quả. Nếu xã hội có thiên hướng lựa chọn công bằng thì phải chấp nhận đánh đổi sự hy sinh tính hiệu quả trong phân phối. Sự lựa chọn giữa kinh tế chính trị và lựa chọn công: Trong xã hội, quá trình chính trị có tác động nhất định đến việc xây dựng và thực hiện các chương trình công. Nhìn chung, các chương trình công được chấp nhận là do thỏa hiệp giữa các cá nhân, các nhóm người tham gia và thực hiện các chương trình của Chính phủ. Các chủ thể này có những mục tiêu và quan điểm khác nhau về sự vận hành của nền kinh tế, do đó cần có sự chọn lựa giữa kinh tế chính trị và lựa chọn công. PHẦN HAI: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CHI TIÊU CÔNG Ở VIỆT NAM NĂM 2008 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TÌNH HÌNH CHI NGÂN SÁCH NĂM 2008 Trong năm 2008, để kịp thời triển khai các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương thực hiện điều hành chi NSNN năm 2008 với chủ trương thắt chặt chi tiêu, rà soát, sắp xếp giảm chi đầu tư các dự án chưa thực sự cấp bách để tập trung vốn cho các dự án cần thiết, cấp bách, các dự án có khả năng hoàn thành và đưa vào sử dụng trong năm 2008; thực hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên; sử dụng dự phòng ngân sách các cấp và nguồn tăng thu NSNN năm 2008 thực hiện các chính sách an sinh xã hội nhằm hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc, người lao động có thu nhập thấp vượt qua khó khăn do ảnh hưởng của lạm phát. Trong đó: 1.1 Đã rà soát lại danh mục các dự án, công trình đầu tư; đình hoãn và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1.968 dự án, với tổng số vốn là khoảng 5.992 tỷ đồng, bằng 8% kế hoạch năm 2008. Toàn bộ số vốn dành ra từ việc đình hoãn, ngừng triển khai và giãn tiến độ thực hiện này được tập trung bố trí cho các dự án hoàn thành và có khả năng đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2008, các dự án cần thiết, cấp bách, có hiệu quả. Bên cạnh đó, đã rà soát, điều chỉnh giảm 25% kế hoạch vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ cho các công trình giao thông, thuỷ lợi và nâng cấp bệnh viện tuyến huyện so với mức Quốc hội quyết định; riêng trái phiếu giáo dục điều chỉnh giảm 5,6% so với mức Quốc hội quyết định. 1.2 Rà soát lại danh mục dự án được vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Đình hoặc giãn tiến độ cấp vốn tín dụng cho các dự án không triển khai, triển khai chậm hoặc không mang lại hiệu quả. Hạn chế cấp bảo lãnh Chính phủ cho các dự án không thuộc đối tượng cấp thiết và trọng yếu của nền kinh tế. 1.3. Thực hiện tiết kiệm thêm 10% dự toán chi thường xuyên còn lại trong 8 tháng cuối năm 2008 của các Bộ, cơ quan ở trung ương và địa phương. Nguồn kinh phí tiết kiệm để bổ sung thực hiện các chính sách an sinh xã hội; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh. Các Bộ, ngành, địa phương chủ động sử dụng dự toán đã được giao để xử lý ảnh hưởng do tác động của lạm phát, không bổ sung ngoài dự toán, trừ các nhiệm vụ cấp bách đảm bảo quốc phòng, an ninh, phòng chống thiên tai, dịch bệnh,...; hạn chế chuyển nguồn chi từ năm 2008 sang năm 2009 đối với những nhiệm vụ không thực hiện hoặc thực hiện không hết dự toán, trừ những trường hợp đã có chế độ quy định hoặc cần thiết, cấp bách. Kết quả thực hiện một số lĩnh vực chi chủ yếu như sau: Dự toán Quốc hội quyết định là 398.980 tỷ đồng, ước thực hiện cả năm đạt 474.280 tỷ đồng, vượt 18,9% so với dự toán, tăng 22,3% so với thực hiện năm 2007. Trong đó: (1) Chi đầu tư phát triển: dự toán 99.730 tỷ đồng, ước thực hiện cả năm đạt 117.800 tỷ đồng, tăng 18,1% (18.070 tỷ đồng) so với dự toán, chiếm 24,7% tổng chi NSNN (chiếm 7,9% GDP), tăng 5,0% so với thực hiện năm 2007. Chi đầu tư phát triển thực hiện tập trung chủ yếu cho việc thực hiện an sinh xã hội, tăng cường khả năng phòng, chống và giảm nhẹ tác hại thiên tai như: bổ sung vốn đầu tư xây dựng các công trình xử lý sạt lở đê, kè, phòng chống lụt bão; bổ sung vốn cho các dự án đầu tư thuộc chương trình 135 và các dự án hỗ trợ phát triển vùng; tăng đầu tư cơ sở hạ tầng và xử lý nợ xây dựng cơ bản của các địa phương từ nguồn tăng thu tiền sử dụng đất và nguồn thưởng vượt thu của ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương theo chế độ; bố trí trả các khoản nợ, lãi đến hạn; hỗ trợ sản xuất - kinh doanh và xuất khẩu, bổ sung dự trữ quốc gia như: (i) bổ sung vốn điều lệ cho Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay các đối tượng chính sách; (ii) tăng cấp bù chênh lệch lãi suất tín dụng ưu đãi để thực hiện chính sách tín dụng đối với hộ nghèo và học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn; (iii) tăng mua bổ sung dự trữ quốc gia về lương thực để nâng mức tồn kho lương thực dự trữ quốc gia, đảm bảo an ninh lương thực và chủ động ứng phó trong trường hợp cần thiết... Tiến độ giải ngân chi đầu tư xây dựng cơ bản năm 2008 là chậm, chủ yếu do sự biến động của giá nguyên vật liệu đã gây khó khăn cho cả công tác tổ chức đấu thầu và việc xác định giá bỏ thầu của các nhà thầu; một số chủ đầu tư trì hoãn thời gian đấu thầu để điều chỉnh tổng mức đầu tư. Tình hình triển khai và giải ngân vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ cũng chậm. Ước cả năm, tổng vốn Trái phiếu Chính phủ thực hiện khoảng 20.000 tỷ đồng, bằng 70% kế hoạch điều chỉnh. Tổng hợp nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ, nguồn đầu tư từ xổ số kiến thiết và nguồn vốn cân đối NSNN, tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN năm 2008 ước đạt 144.300 tỷ đồng, bằng 30,3% tổng chi NSNN, bằng 9,7% GDP (2) Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính (bao gồm cả chi điều chỉnh tiền lương theo mức lương tối thiểu 540.000 đồng/tháng): dự toán 237.250 tỷ đồng, ước thực hiện chi cả năm đạt 262.580 tỷ đồng, tăng 10,7% so với dự toán, tăng 23,6% so với thực hiện năm 2007. Các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương đã nghiêm túc thực hiện chi trong phạm vi dự toán được giao, kể cả việc tiết kiệm chi thường xuyên theo chủ trương chung, hạn chế tối đa việc bổ sung ngoài dự toán. Số tăng chi ngoài dự toán chủ yếu để thực hiện các chính sách an sinh xã hội như: hỗ trợ dầu hỏa thắp sáng đối với đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo chưa được sử dụng điện; hỗ trợ tiền dầu cho ngư dân; thực hiện chính sách bảo trợ xã hội; miễn viện phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, nâng mức bảo hiểm y tế cho người nghèo, người cận nghèo; cấp học bổng cho học sinh dân tộc nội trú, bán trú; nâng mức tiền ăn đối với hạ sỹ quan, chiến sỹ lực lượng vũ trang; hỗ trợ khó khăn cho người lao động có thu nhập thấp; bổ sung kinh phí phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,… (3) Chi bù lỗ kinh doanh mặt hàng dầu nhập khẩu: Để thực hiện kiềm chế tốc độ tăng giá tiêu dùng, Chính phủ đã quyết định chậm điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu trong nước trong điều kiện giá dầu thế giới tăng cao, tiếp tục bù lỗ dầu phát sinh năm 2008. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Đơn vị : Tỷ đồng Stt Nội dung chi DT 2008 ƯTH 2008 DT 2009 A B 1 2 3 A CHI CÂN ĐỐI NSNN 398,980 474,280 491,300 I Chi đầu tư phát triển 99,730 117,800 112,800 Trong đó: Chi đầu tư xây dựng cơ bản 96,110 110,050 107,540 II Chi trả nợ và viện trợ 51,200 51,200 58,800 1 Trả nợ trong nước 39,700 39,700 47,630 2 Trả nợ ngoài nước 10,700 10,700 10,370 3 Chi viện trợ 800 800 800 III Chi thường xuyên 208,850 262,580 269,300 Trong đó: 1 Chi SN giáo dục - đào tạo 54,060 67,330 2 Chi Y tế 16,643 23,360 3 Chi dân số KHH gia đình 615 710 4 Chi khoa học, công nghệ 3,827 4,390 5 Chi văn hoá, thông tin 2,440 2,740 6 Chi phát thanh và truyền hình 1,420 1,560 7 Chi thể dục, thể thao 880 1,320 8 Chi đảm bảo xã hội 35,793 52,931 9 Chi sự nghiệp kinh tế 15,622 24,730 10 Chi sự nghiệp môi trường 3,883 5,150 11 Chi quản lý HC, Đảng đoàn thể 28,438 33,629 12 Chi trợ giá mặt hàng chính sách 763 930 IV Hỗ trợ tài chính kinh doanh xăng dầu 28,500 V Chi dự phòng 10,700 13,700 VI Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính 100 100 100 VII Chi cải cách tiền lương 28,400 36,600 VIII Chi chuyển nguồn 14,100 B CHI QUẢN LÝ QUA NSNN 47,698 31,059 46,960 C VAY NN VỀ CHO VAY LẠI 12,800 12,425 25,700 TỔNG CỘNG (A+B+C) 459,478 517,764 563,960 Với thực trạng chi tiêu công năm 2008 của Việt Nam đã góp phần làm tăng bội chi Ngân sách nhà nước cao hơn những năm trước với 8%GDP. Vậy đâu là nguyên nhân? Chỉ có xác định rõ nguyên nhân thì chúng ta mới có thể đưa ra giải pháp phù hợp được. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN BỘI CHI NGÂN SÁCH NĂM 2008: Những cam kết của Chính phủ không được thực hiện: Theo bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2008 Nhà nước đã cam kết cắt giảm 2.700 tỉ đồng chi thường xuyên (bao gồm quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, đảng…), và 5.992 tỉ đồng (tương ứng 8% kế hoạch năm) chi cho đầu tư phát triển (bao gồm các công trình cơ sở hạ tầng…). Tuy nhiên, trên thực tế thì tuy đã cam kết ngừng, hoãn tiến độ số tiền 5.992 tỉ đồng cho các dự án phát triển, nhưng số tiền đầu tư thực tế không giảm do toàn bộ kinh phí tiết kiệm được từ việc đình hoãn dự án lại đầu tư sang công trình khác. Ngoài ra, mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo tiết kiệm 10% chi thường xuyên nhưng con số này vẫn tăng 13,3% so với dự toán và 26,6% so với 2007 trong thực tế. Như vậy, có thể kết luận rằng các cơ quan nhà nước bao gồm các bộ, ngành, địa phương đã không thực hiện cắt giảm đầu tư công, đồng nghĩa với việc chính sách tài khoá đã không được thực hiện nghiêm túc như cam kết ban đầu. b. Các khoản chi tiêu không hợp lý của các cơ quan nhà nước: Mặc dù kinh tế khó khăn, bội chi ngân sách nhà nước lớn nhưng theo phân tích của Ủy ban Tài chính - ngân sách trong báo cáo thẩm tra, chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước vẫn tăng cao, đặc biệt phải kể đến “các khoản chi khác” tăng đến 154%, chi quản lý hành chính tăng 8%... Chi khác là khoản chi mà các cơ quan nhà nước có thể dùng cho các công việc tiếp khách, tổ chức các hội nghị, hội thảo và các khoản chi không có trong danh mục chi chính thức... Chi quản lý hành chính là chi cho công việc hằng ngày của các cơ quan hành chính. Chi khác tăng có nghĩa các hội nghị, hội thảo và các hoạt động ít có tên chính thức để có thể được ngân sách thanh toán vẫn nhiều, chi hành chính tăng chứng tỏ công việc của bộ máy hành chính nhiều lên nhưng cũng có thể là báo hiệu bộ máy hành chính chưa tinh gọn và áp dụng công nghệ kém... HẬU QUẢ CỦA CHI TIÊU CÔNG KHÔNG HỢP LÝ: Với nguồn thu ngân sách có hạn, nếu chi tiêu công không hợp lý và không được kiểm soát tốt chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách nhà nước-đây là tác động trực tiếp. Đất nước ta đang trong giai đoạn phát triển, rất cần hoạt động chi tiêu công của nhà nước, đặc biệt là chi đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, bội chi ngân sách được xem là cần thiết và không phải là vấn đề xấu của một nền kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên, đưa ra mức bội chi hợp lý và kiểm soát trong mức bội chi đã đưa ra rất quan trọng, nó không chỉ ảnh hưởng đến khu vực công mà nó còn tác động đến khu vực tư. Với tình trạng bội chi ngân sách như hiện nay, nếu việc chi tiêu công vẫn tiếp tục không tốt sẽ kéo theo những hệ lụy sau đây từ tình trạng bội chi ngân sách nhà nước: Gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia. Giảm khả năng đầu tư của khu vực tư: khi bội chi ngân sách càng nhiều thì Nhà nước sẽ tăng nguồn thu- chủ yếu từ thuế. Nếu đánh thuế càng cao thì tiết kiệm của khu vực tư sẽ giảm, khi mà tiết kiệm giảm thì sẽ giảm đầu tư, nghiêm trọng hơn nữa sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong nước đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, nhà nước nên cân nhắc thật kỹ lưỡng lợi ích và chi phí khi tăng thu thuế. Góp phần vào việc làm thoái hóa đạo đức con người Việt Nam: Nhà nước không phát huy được vai trò kiểm tra, giám sát và quản lý trong chi tiêu công sẽ làm tăng hiện tượng tham nhũng, lấy của công làm của riêng mình (điều này được chứng mình qua hàng loạt vụ liên quan đến tham nhũng PMU18, sập cầu Cần Thơ…). Có thể khẳng định, vấn đề này mang tính chất chủ quan nhiều hơn khách quan, có nghĩa là nó phụ thuộc vào nhân cách con người. Tuy nhiên, nhà nước có thể hạn chế tình trạng này nếu có cơ chế hợp lý. Không công bằng giữa các thế hệ: với bội chi ngân sách, để bù đắp Nhà nước vay nợ trong và ngoài nước. Vay nợ trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ - trả lãi - bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của NSNN cho các thời kỳ sau. Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá và gánh nặng nợ về lâu dài. Hơn thế nữa, nguồn vốn ODA không hoàn lại kèm theo đó khá nhiều yêu cầu từ phía Chính Phủ các quốc gia khác không có lợi cho Việt Nam. Tuy nhiên, những vấn đề này hiện tại chưa bộc lộ nhược điểm mà người gánh chịu có thể là con cháu chúng ta sau này. Do đó, trong việc kiểm soát đầu tư công, không nên đi vay để đầu tư vào những dự án không tạo ra nguồn thu. 4. MỘT VÀI KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHI TIÊU CÔNG TRONG THỜI GIAN TỚI: 1. Về mặt định hướng: - Xây dựng các thể chế quản lý chi tiêu công trong từng thời kỳ cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước: với tư cách là một công cụ trọng tâm của chính sách tài chính quốc gia và liên quan đến việc thực hiện phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính công, nên vấn đề xuyên suốt của quản lý chi tiêu công phải thực hiện được các mục tiêu của Chính phủ đề ra và phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn. - Các khoản chi tiêu công cần hướng đến những lĩnh vực mang tính tiên phong và có khả năng thúc đẩy các lĩnh vực khác cùng phát triển. - Cần phải có sự chuyển dịch những khoản chi tiêu công từ những lĩnh vực không hiệu quả đến những lĩnh vực hiệu quả hoặc hiệu quả hơn để tiết kiệm chi tiêu.? - Chính phủ phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng ngân sách bằng việc quy định rõ ràng quyền hạn và giới hạn của địa phương trong việc quyết định các khoản chi. - Báo cáo về chi tiêu công phải được kiểm tra thường xuyên nhằm đảm bảo tiền đã đến được nơi cần đến nhằm hạn chế tham nhũng, chiếm dụng tài sản công. - Cần điều chỉnh luật ngân sách Nhà nước cho phù hợp với điều kiện và yêu cầu của nền kinh tế hội nhập. - Nâng cao tính minh bạch, dân chủ, trách nhiệm trong chi tiêu công, đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực của những chương trình và cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội để chi tiêu công thực sự trở thành thước đo năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. - Nhà nước phải nâng cao năng lực quản lý, xây dựng các thể chế chính sách nhằm tạo ra một khu vực công năng động, xây dựng chiến lược quản lý chi tiêu công theo các tiêu chí: + Tính tổng thể và tính kỷ luật: ngân sách phải bao quát tất cả những hoạt động tài chính của Chính phủ. Trong ngân sách, những quyết định tài chính mà Chính phủ đưa ra cần phải dựa vào cơ sở giới hạn cứng của ngân sách và có sự cạnh tranh, đánh đổi giữa các nhu cầu và mục tiêu và chỉ nên tập trung những nguồn lực vừa đủ ở mức cần thiết. + Tính linh hoạt: thuộc về hoạt động: những người quản lý cần có quyền lực đối với những quyết định quản lý; thuộc về chương trình: các cá nhân Bộ trưởng cần được trao thêm quyền lực đối với những quyết định chương trình. + Tính tiên liệu: cần chú ý đến sự cân đối giữa ngắn hạn và dài hạn. Chính sách tài khóa phải chú ý đến nhu cầu để làm chắc chắn dòng chảy của các quỹ tiền tệ đến các chương trình, dự án đúng lúc. + Tính trung thực: yêu cầu ngân sách nên xuất phát từ những dự toán không có sự thiên vị. Sự thiên vị này có thể bắt nguồn từ những vấn đề thuộc về chính trị lẫn kỹ thuật. + Thông tin: thông tin tốt sẽ làm vững chắc thêm tính trung trực và đưa ra quyết định tốt. Thông tin chính xác và kịp thời về chi phí, đầu ra và kết quả là rất cần thiết trong quản lý chi tiêu công. + Tính minh bạch và tính trách nhiệm: yêu cầu các quyết định cùng với cơ sở kết quả và chi phí của nó có thể tiếp cận rõ ràng và được thông tin rộng rãi cho công chúng. Tính minh bạch đòi hỏi những người ra quyết định phải có tất cả những dữ liệu và thông tin thích hợp. Người ra quyết định

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá tình hình chi tiêu công ở Việt Nam năm 2008.doc
Tài liệu liên quan