T
rong quá trình phát triển kinh tế xã hội, nhân tố con người được coi là nhân tố quan trọng, có vai trò quyết định đối với sự thành công của các chính sách, các mục tiêu phát triển và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Quốc gia.
Sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đaị hóa đặt ra những yêu cầu, thách thức lớn đối với chiến lược con người trong đó có nhiệm vụ quan trọng là việc xác định mục tiêu, chiến lược đào tạo và sử dụng cán bộ, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô - Chính họ là những “ Người cầm lái cho con thuyền kinh tế ” của đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực phát triển theo xu hướng hội nhập mạnh mẽ, trong bối cảnh nền kinh tế đất nước mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô của chúng ta đã bộc lộ những bất cập về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn.
Để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển trong bối cảnh đó, chính sách cán bộ cần phải trở nên linh hoạt, quan hệ hữu cơ với chính sách kinh tế - Xã hội, phải gắn liền với những mục tiêu của sự nghiệp phát triển đặc biệt là chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ - Đào tạo nhằm mục tiêu tạo ra những “sản phẩm” phù hợp với yêu cầu và mục đích sử dụng.
27 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1223 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và hiệu quả đào tạo.
Thứ hai: đào tạo cán bộ quản lý kinh tế có chất lượng cao với sự hạn hẹp về tài chính và đội ngũ giáo viên có trình độ cao.
Thứ ba: sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu ngành giáo dục và thị hiếu tập trung vào một số ít ngành nghề của người học.
Chính từ thực tế như vậy cho nên trong những năm gần đây, nhu cầu đào tạo cán bộ quản lý kinh tế ở nước ta tăng lên rất nhanh, nhiều trường đại học và cao đẳng kinh tế đã mở rộng quy mô đào tạo. Sự tăng nhanh về quy mô đào tạo ở các trường kinh tế đã góp phần từng bước khắc phục osự thiếu hụt về số lượng cán bộ quản lý kinh tế. tuy nhiên điều này lại đang làm xuất hiện mâu thuẫn trong việc bảo đảm chất lượng đào tạo do hạn chế về tài chính và năng lực nội sinh của các cơ quan đào tạo và trưởng thành từ trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Trong quá trình đổi mới, một bộ phận khá lớn cán bộ quản lý kinh tế đã được đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường. Tuy nhiên trước yêu cầu tiếp tục đổi mới và hội nhập trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế nói riêng xét về số lượng, chất lượng và cơ cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với sự nghiệp CNH-HĐH.
chương II:
thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế
vĩ mô ở nước ta hiện nay.
I. Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
ở nước ta hiện nay:
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đã được rèn luyện và trưởng thành. Trong điều kiện biến động mạnh và phức tạp của tình hình dân tộc, quốc tế, những thử thách gay go của đất nước trong những năm cuối thập kỷ 90, nhìn chung đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng và kiên định con đường XHCN mà Đảng đã vạch ra.
Đã có chuyển biến mọi mặt về trình độ, năng lực, thông qua việc học tập,bồi dưỡng và hoạt động thực tiễn, làm quen và thích ứng với cơ chế quản lý mới. Đặc biệt ở các thành phố lớn, lực lượng cán bộ có trình độ cao về chuyên môn, lý luận chính trị tăng đáng kể, ở các tỉnh miền núi lãnh đạo chủ chốt và phần đông cán bộ đã có ý thức được tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của địa phương.
Những năm qua đội ngũ cán bộ có sự ổn định tương đối về biên chế. Hầu hết các địa phương, với sự giúp đỡ của trung ương đã tiến hành thực hiện công việc đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ có quy mô đáng kể.
Bên cạnh những mặt mạnh và ưu điểm cơ bản nêu trên, đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế vĩ mô ở nước ta còn đang bộc lộ một số hạn chế sau:
Thứ nhất: Tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu” đang diễn ra khá phổ biến nhất là cán bộ quản lý nhà nước ở các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương. Thừa cán bộ chưa được đào tạo về quản lý kinh tế thích ứng với kinh tế thị trường và thiếu cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế của nền kinh tế đang chuyển đổi. Theo kết quả điều tra năm 1997 của Viện Nghiên cứu kinh tế và phát triển - Đại học KTQD trong số 200 cán bộ quản lý kinh tế thuộc10 bộ và cơ quan ngang bộ được hỏi có 60% ý kiến cho rằng cán bộ quản lý kinh tế của ta hiện đang trong tình trạng thiếu, 20% ý kiến cho rằng đội ngũ này đang trong tình trạng thừa và 20% cho rằng vừa thiếu vừa thừa.
Thứ hai: Một số lượng khá lớn cán bộ đang làm nhiệm vụ quản lý kinh tế chưa được đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống về quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Kết quả điều tra chi tiết về đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở 10 bộ, cơ quan ngang bộ và 10 tỉnh thành trong cả nước cho thấy có 65% số cán bộ quản lý kinh tế ở cấp bộ được đào tạo trước năm 1989 trong đó có khoảng 30% chưa được đào tạo lại, khoảng 60% số cán bộ quản lý kinh tế ở cấp bộ có trình độ lý luận sơ cấp và chỉ có gần 5% có trình độ lý luận cao cấp. 89% cán bộ quản lý kinh tế >45 tuổi không biết sử dụng máy vi tính và chỉ có 9,5% biết tiếng Anh có trình độ trên C. ở các sở, ban, ngành cấp tỉnh có 52,8% số cán bộ quản lý kinh tế được đào tạo từ trước năm 1989 và có một bộ phận khá lớn chưa qua đaò tạo, bồi dưỡng kiến thức kinh tế thị trường, chỉ có 54% số cán bộ quản lý kinh tế các sở, ban, ngành thuộc 10 tỉnh, thành phố đã được đào tạo từ các trường kinh tế. Số cán bộ được đào tạo ở các lĩnh vực khác (khoa học kỹ thuật, khoa học cơ bản...) chiếm 46% và đang cần tiếp tục bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế.
Thứ ba: Cơ cấu cán bộ quản lý kinh tế đang có sự mất cân đối lớn xét cả về độ tuổi và giới tính, lẫn sự phân bổ theo ngành nghề, theo vùng, giữa cấp chiến lược hoạch định chính sách và cấp trực tiếp quản lý kinh doanh ở các doanh nghiệp. Số liệu điều tra 10 bộ cho thấy có gần 50% cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có độ tuổi > 45 tuổi, chỉ 1/5 số cán bộ dưới 35 tuổi, tuổi bình quân là 46 tuổi, cán bộ trẻ nhất (45 tuổi cao nhất. Tỷ lệ này ở Bộ Công nghiệp là 76% và Bộ Nông nghiệp-PTNT là 69%. Đến năm 2005 có khoảng 80% số cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô hiện nay đến tuổi nghỉ hưu. Sự già hoá của đội đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế sẽ gây nên tình trạng hẫng hụt cán bộ quản lý kinh tế kế cận
ở nhiều tỉnh miền núi, cán bộ quản lý kinh tế là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ rất thấp và phần lớn chưa được qua đào tạo về quản lý kinh tế. ở Đắc lắc chỉ có 1 trong 475 cán bộ quản lý ở cấp tỉnh và huyện là người dân tộc thiểu số có trình độ từ cao đẳng trở lên. ở Lào cai có tới 49% cán bộ là người dân tộc chưa qua đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ.
Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô hiện nay chủ yếu là nam, nữ chiếm bộ phận thiểu số. Tuy nhiên tuỳ theo chức năng nhiệm vụ cụ thể thì tỷ lệ nam nữ cũng cao thấp khác nhau: tỷ lệ nam bình quân chiếm trên 65%, nữ chỉ có khoảng 34%. Tỷ lệ nam cao nhất là ở Bộ Thương mại (81%) và tỷ lệ nữ cao đông nhất là ở Ngân hàng Nhà nước (48%).
Thứ tư: Công tác đào tạo cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế nói riêng chưa gắn với quy hoạch cán bộ. Hơn nữa, việc bố trí sử dụng cán bộ chưa thật hợp lý và trong nhiều trường hợp còn nặng về cơ cấu, thiếu mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ, chưa có giải pháp cụ thể để thực sự khuyến khích những cán bộ có năng lực và chưa mạnh dạn bố trí, sắp xếp lại hoặc đưa ra khỏi biên chế những cán bộ không còn đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới.
II. Thực trạng đào tạo cán bộ quản lý kinh tế
vĩ mô ở Việt Nam hiện nay:
Hiện nay ở nước ta việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trước hết tập trung vào cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế vì đội ngũ này vừa có vai trò quyết định trong việc xây dựng cơ chế vận hành mô hình kinh tế mới, vừa là người nghiên cứu, hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, sử dụng các chính sách và công cụ quản lý kinh tế để điều tiết quản lý các hoạt động kinh tế trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vậy để đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi mới và hội nhập hiện nay đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý tầm vĩ mô đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và có cơ cấu hợp lý. Ngoài các tiêu chuẩn chung mà Đại hội Trung ương (Khoá 8) đã đề ra. Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô phải hiểu biết sâu sắc đường lối, quan điểm kinh tế của Đảng, có kiến thức về kinh tế thị trường, có khả năng đề xuất, hoạch định các cơ sở kinh tế và sử dụng các công cụ quản lý kinh tế để quản lý, điều tiết các hoạt động của nền kinh tế quốc dân phát triển theo các mục tiêu Kinh tế - Xã hội mà Đảng đã vạch ra.
Nhận thức rõ vai trò của cán bộ quản lý kinh tế như trên nên Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế. Tuy nhiên cũng vẫn còn những hạn chế.
1- Chúng ta đã xây dựng được 1 hệ thống các cơ sở đào tạo đại học và trên đại học về kinh tế trên phạm vi cả nước với số lượng ngày càng tăng:
Cụ thể các trường công lập nước ta từ trường đại học tài chính tế toán thành phố Hồ Chí Minh sát nhập với trường ĐHKT thành phố để trở thành thành viên mới của đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Còn các trường khác vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên quy mô đào tạo của từng trường đã được mở rộng ra rất nhiều so với trước, thông thường là tăng khoảng 10 lần.
Các khoa kinh tế của các trường Đại học kỹ thuật cũng có sự mở rộng quy mô đào tạo, thường gia tăng từ 4-5 lần so với trước.
Việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế dường như được tiến hành ở tất cả các trung tâm hoặc các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tuy nhiên nét đặc trưng nhất của hệ thống các cơ sở đào tạo cán bộ quản lý kinh tế hiện nay là cùng với sự ra đời của nền kinh tế nhiều thành phần, các trường đại học dân lập mở ra khá nhiều, cho đến nay cả nước đã có trên 15 trường đại học dân lập được thành lập. Các trường này được tập trung ở 3 thành phố lớn là: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Điều đáng quan tâm là phần lớn các trường đại học dân lập đều có đào tạo về kinh tế.
Ngoài ra viện đại học mở Hà nội, đại học mở bán công thành phố HCM cũng là 2 cơ sở đào tạo cán bộ quản lý quy mô nhỏ.
Bên cạnh các trường đại học còn có nhiều trường Cao đẳng kỹ thuật, các ngành, các địa phương cũng tham gia vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế.
Việc mở rộng một cách ồ ạt các cơ sở đào tạo kỹ thuật bậc đại học thuộc mọi thành phần có mặt tốt là tạo điều kiện cho nhiều người được tham gia học tập và cũng nhanh chóng tạo ra cho đất nước một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế đông đảo. Tuy nhiên cũng có mặt không tốt trong đó quan trọng nhất là khó bảo đảm được chất lượng của đội ngũ cán bộ đào tạo ra.
Chúng ta biết rằng chất lượng đào tạo đại học nói chung, đại học kinh tế nói riêng, phụ thuộc rất nhiều yếu tố: Điều kiện học tập, tham khảo tài liệu, khảo sát thực tế, điều kiện ăn ở sinh hoạt... Song quyết định nhất vẫn là đội ngũ thày giáo tốt. Nhưng trong thời gian qua, các cơ sở đào tạo đại học kinh tế được mở ra rất nhiều, song các điều kiện để đảm bảo cho việc dạy và học tốt thì không bảo đảm. Qua số liệu điều tra của về số lượng giáo viên và sinh viên ở một số trường đại học kinh tế năm 1995-1996 của Viện nghiên cứu kinh tế và đại học KTQD thì ta đánh giá được hiện tượng có thể nói là chảy máu chất xám từ các trường công lập sang các trường dân lập.
Tên trường
Số giảng viên
Số sinh viên
Số sinh viên
hiện có
đang học
tuyển năm 1995
1. ĐHKTQD Hà Nội
419
19.543
5.584
2. Viện ĐH mở Hà Nội
36
19.844
1.695
3. ĐH Dân lập P. Đông
14
3.169
2.470
4. ĐH Dân lập Đ. Đô
24
1.774
1.174
5. ĐH Dân lập T.Long
56
5.737
5.737
Ta thấy Đại học kinh tế quốc dân có số giáo viện hiện có gấp 12,5 lần giáo viên đại học mở nhưng số sinh viên đang học lại ít hơn 301 người hoặc so với đại học dân lập Phương đông số giáo viện hiện có của đại học kinh tế quốc dân nhiều hơn 32 lần nhưng số sinh viên đang học chỉ hơn 6,16 lần.
Điều này càng khẳng định là có sự chảy máu chất xám từ các trường công lập sang trường dân lập.
2 - Cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường đại học kinh tế:
Ngày nay đã được nâng cấp và ngày càng được quan tâm. Các trường Đại học kinh tế ở nước ta (Chủ yếu là các trường quốc lập) ở phía Bắc được xây dựng cách đây trên 40 năm, ở phía Nam trên 20 năm. Trong những năm vừa qua nhất là từ năm 1991 trở lại đây nhờ sự quan tâm đầu tư của Nhà nước và sự nỗ lực của từng trường, một số bộ phận của cơ sở vật chất các trường đã có sự thay đổi vật chất và nâng cấp phục vụ ngày càng tốt hơn công tác giảng dạy của thày và học tập của sinh viên trong nhà trường.
- Chỗ làm việc của các khoa, các bộ môn trực thuộc cũng như các phòng ban, các trung tâm đã được nâng cấp nhiều so với trước. Các cơ sở này đã được trang bị thêm máy vi tính, bàn ghế giường tủ, tủ đựng tài liệu và giá sách.
- Giảng đường phục vụ học tập của Sinh viên cũng đã được sửa chữa nâng cấp, bàn ghế, bảng viết tốt hơn, ánh sáng đầy đủ và thoáng mát hơn. Tuy nhiên vẫn còn thiếu nhiều trường phải bố trí dạy và học 3 ca (Sáng, chiều, tối)
- Thư viện nhiều sách hơn, việc cho mượn sách cũng dề dàng hơn, thuận lợi. Chỗ đọc sạch sẽ thoáng mát hơn bước đầu có thể đảm bảo cho sinh viên tìm kiếm và nghiên cứu học tập ngay tại thư viện. Nhưng với số lượng sinh viên không lớn vì đầu sách còn ít. Thực tế với số sách hiện có của các thư viện bình quân mỗi sinh viên kinh tế mới có khoảng 1,94 đầu sách và tạp chí. Theo thống kê của các trường hiện nay, chỗ ngồi đọc sách và tạp chí tính bình quân mỗi sinh viên mới chỉ đạt 0,01.
- Tại nhiều trường kinh tế, các trung tâm máy tính cũng đã được thành lập nhằm giúp sinh viên nhanh chóng tiếp cận với tin học, giúp cho giáo viên có điều kiện thuận lợi hơn trong nghiên cứu khoa học nhưng số lượng máy tính ở các trường đại học kinh tế còn quá ít. Tính bình quân khoảng 200 sinh viên và 4-5 giáo viên mới có 1 máy vi tính. Bởi vậy việc thực hành của sinh viên trên máy vi tính là rất hạn chế.cùng với hạn chế trong việc sử dụng máy vi tính thì phần lớn việc học ngoại ngữ ở các trường kinh tế là học chay do thiếu các phương tiện luyện nghe, nói hiện đại vì vậy khả năng nghe và nói của sinh viên cũng bị hạn chế.
- Ký túc xá sinh viên của các trường mặc dù đã được đầu tư nâng cấp nhiều lần song do xây dựng quá lâu, nhà cửa đã quá cũ vì vậy ký túc xá xuống cấp rất nhanh và chưa thoả mãn được nhu cầu về chỗ ở cho sinh viên. Theo báo cáo của các trường, hệ thống ký túc xá chỉ mới đáp ứng được 25-30% nhu cầu chỗ ở của sinh viên và điều kiện ăn ở của sinh viên hiện nay là hết sức chật chội, bình quân 2 m2/1 sinh viên, trang bị của ký túc xá phần lớn rất sơ sài, giường tầng và chủ yếu và giường sắt, tủ không ô, bàn học không ngăn...
- Cơ sở vật chất phục vụ việc giáo dục thể chất, khu sân chơi thể dục thể thao cho sinh viên như: Sân bóng rổ, bóng chuyền, bóng đá rất hẹp và chất lượng chưa được đảm bảo.
3 - Thực trạng đội ngũ giáo viên của các trường ĐHKT hiện nay:
Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ giáo viên ở các trường ĐH nói chung, đại học kinh tế nói riêng, cũng không ngừng trưởng thành (Cả về số lượng, chất lượng).
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (Tháng 12-1986), nền kinh tế nước ta đã từng bước chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Phát triển nền kinh tế thị trường, đó là điều rất mới mẻ. Đội ngũ giáo viên các trường ĐHKT tại thời điểm đó chủ yếu là được đào tạo tại Liên xô, Trung quốc và các nước Đông Âu, ít am hiểu về kinh tế thị trường. Vì vậy để có thể đào tạo cho đất nước một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế hoạt động tốt trong nền kinh tế thị trường, đội ngũ giáo viên của các trường Đại học kinh tế đã thực hiện khá nhanh việc tự đào tạo lại mình. Thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng như: Đi bồi dưỡng ngắn hạn ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, mời các chuyên gia, các giáo sư của các trường đại học nổi tiếng trên thế giới sang tổ chức bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường cho đội ngũ giáo viên, hợp tác với một số trường đại học của nước ngoài tổ chức các khoá đào tạo cho giáo viên của trường. Việc bồi dưỡng kiến thức kinh tế thị trường cho giáo viên còn được tiến hành thông qua các cuộc hội thảo, các cuộc tham quan, khảo sát thực tế ở nước ngoài...
- Trong những năm qua đã có hàng vạn giáo viên của các trường được đi bồi dưỡng lại kiến thức. Chỉ tính riêng trường Đại học KTQD trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến năm 1996 đã có 5.936 lượt giáo viên, cán bộ được bồi dưỡng và đào tạo lại kiến thức về kinh tế thị trường.
Cùng với việc bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường, đội ngũ giáo viên các trường Đại học kinh tế cũng được bồi dưỡng thêm về ngoại ngữ cũng như về máy vi tính. Nhiều giáo viên của các trường giờ đây đã có thể giảng bài hoàn toàn bằng ngoại ngữ. Một số cũng đã đăng ký giảng dạy ở nước ngoài, đồng thời cũng không ít giáo viên đã sử dụng thành thạo máy vi tính theo biên soạn giáo trình, nghiên cứu khoa học.
Chính vì vậy, trong 10 năm đổi mới vừa qua, đội ngũ giáo viên các trường Đại học kinh tế đã thực hiện khá tốt việc đào tạo cho đất nước một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế khá đông đảo thuộc mọi lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần vào việc bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ viên chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế thuộc các cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Ngoài ra đội ngũ giáo viên trong các trường Đại học kinh tế còn có nhiều đóng góp quan trọng vào việc xây dựng các chiến lược, các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Có thể nói 10 năm đổi mới vừa qua đội ngũ giáo viên của các trường đại học kinh tế đã có bước trưởng thành đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Tính đến tháng 10 năm 1996 đội ngũ Giáo viên của 6 trường đại học kinh tế công lập là 1.691 người trong đó:
+ Nếu phân theo chức vụ khoa học có: 20 giáo sư (1,2%), 97 phó giáo sư (5,7%); 364 giảng viên chính (21,5%); 1.210 giảng viên (71,6%).
+ Nếu phân theo trình độ đào tạo có: 15 tiến sĩ (0,9%); 314 PTS (18,6%); 232 thạc sĩ (12,7%); cử nhân 1.130 (66,8%).
Nếu tính đến năm 1999 thì con số thống kê đã tăng lên khá nhiều so với năm 1996.
Bên cạnh những mặt trưởng thành của đội ngũ Giáo viên của các trường đại học kinh tế trong 10 năm đổi mới, hiện tại đội ngũ này còn thiếu rất nhiều về số lượng. Vì vậy tình trạng đội ngũ Giáo viên phải giảng 2-3 ca/ngày là phổ biến dẫn đến chất lượng giảng dạy giảm sút. Hơn nữa cơ cấu đội ngũ Giáo viên hiện tại không hợp lý. Tỷ lệ Giáo viên dưới 35 tuổi có bằng sau đại học ít, phần lớn giáo sư, PTS, Tiến sĩ đều ở lứa tuổi 50 trở lên. Nếu không có chính sách bổ xung đào tạo kịp thời sẽ gây ra sự hẫng hụt về đội ngũ trong những năm sắp tới.
Đó là đội ngũ Giáo viên ở các trường quốc lập, còn ở các trường dân lập và đại học mở, đội ngũ giáo viên hiện có vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng. Việc giảng dạy ở các cơ sở này chủ yếu dựa vào việc đi thuê các thày của các trường công lập hoặc thuê các thày về hưu.
4 - Nội dung chương trình đào tạo:
Về cơ cấu kiến thức và nội dung đào tạo, để đảm bảo sự phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, các cơ sở đào tạo cán bộ kinh tế đã đổi mới cơ cấu kiến thức, nội dung đào tạo. Các kiến thức của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã được thay thế bằng kiến thức của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Hầu hết các môn học đã được biên soạn thành giáo trình, hệ thống giáo trình này cũng đã được in và cung cấp đủ cho sinh viên. Có thể nói, mới từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có một thời gian ngắn mà chúng ta đã xây dựng được một hệ thống giáo trình mới tương đối phù hợp là một cố gắng rất lớn của đội ngũ Giáo viên của các trường đại học kinh tế.
Tuy nhiên về cơ cấu và nội dung chương trình đào tạo vẫn còn nhiều tồn tại sau đây:
- Số môn học còn quá nhiều, trong 4 năm học sinh viên phải học từ 45-60 môn (bình quân mỗi năm 15 môn). Đây là một điều chưa thật hợp lý bởi lẽ mỗi môn học có vài học trình, người dạy cũng khó có thể trình bày sâu sắc được những vấn đề gì lớn về mặt khoa học.
- Sự trùng lặp giữa các môn học khá lớn do mở ra nhiều chuyên ngành đào tạo tương đối cụ thể và đưa ra quá nhiều môn học vì thế khó có thể tránh khỏi sự trùng lặp.
Vậy trong tương lai cần phải có sự nghiên cứu để xây dựng cho được cơ cấu kiến thức hợp lý, các ngành và chuyên ngành đào tạo hợp lý để có giáo trình tốt cũng phải tập trung đội ngũ giáo viên giỏi cho từng chuyên ngành, đầu tư thoả đáng để họ viết, mặt khác cũng cần phải có một hội đồng chuyên môn đa ngành, xem xét, cắt bỏ những phần trùng lặp của giáo trình, chương trình đào tạo.
- Trừ một số giáo trình đã có từ trước, (những giáo trình toán, triết, kinh tế chính trị học .v.v). Còn phần lớn các môn học mới giáo trình là được dịch từ giáo trình của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, có sửa chữa bổ xung. Vì vậy tính Việt Nam còn rất hạn chế.
- Nội dung và chương trình giảng dạy của ta còn quá nặng nề về giảng lý thuyết, việc rèn luyện khả năng thực hành còn quá ít và yếu, nhất là việc thực hành về các kỹ năng phân tích đánh giá các hiện tượng kinh tế, khả năng về giao tiếp với bên ngoài về sử dụng các công cụ và phương tiện hiện đại trong quản lý kinh tế .v.v.
- Việc dành thời gian cho sinh viên nghiên cứu khoa học, việc tổ chức để cho thày hướng dẫn sinh viên làm quen cũng như tiếp cận với các hoạt động nghiên cứu khoa học còn quá ít.
5 - Các hình thức đào tạo:
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, việc đào tạo của các trường đại học kinh tế được tiến hành dưới 4 hình thức: Dài hạn tập trung (Chính quy); tại chức, chuyên tu và bồi dưỡng. Tuy nhiên hình thức chuyên tu chỉ áp dụng trong một số năm đầu khi chúng ta còn quá thiếu cán bộ quản lý kinh tế.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN do nhu cầu cán bộ quản lý kinh tế tăng nhanh nên các trường đại học kinh tế đã áp dụng nhiều hình thức đào tạo linh hoạt:
* Đào tạo chính quy tập trung: Đây là hình thức đào tạo cử nhân kinh tế chủ yếu, thông qua kỳ thi quốc gia để tuyển chọn những người có đủ tiêu chuẩn vào học 4 năm theo hình thức tập trung tại trường. Đây là hình thức đào tạo tốt nhất, có chất lượng nhất hiện nay. Bởi lẽ sinh viên được học tập rèn luyện trong môi trường tốt nhất.
Đào tạo tập trung cung cấp cho xã hội những cử nhân kinh tế giỏi vè chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực nghiên cứu, có trình độ ngoại ngữ và sử dụng các công cụ, các phương tiện hiện đại phục vụ cho việc nghiên cứu, quản lý. Những cán bộ quản lý kinh tế có tài năng thường được đào tạo ở hình thức này.
* Hệ mở rộng tập trung: Đầu thập kỷ 90 do nhu cầu người học quá lớn, đượ phép của Bộ GD-ĐT, các trường đại học kinh tế mở thêm hệ đào tạo mở rộng. Hệ này tuyển số học sinh đã thi vào trường nhưng không đạt điểm chuẩn vào hệ chính quy. Tuy nhiên do chất lượng của đầu vào không đảm bảo, dư luận xã hội không đồng đều nên từ nă m 1994 đến nay hệ này không còn nữa.
* Đào tạo tại chức: Do sự phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của xã hội cần thiết phải nâng cáo trình độ cho những người đang làm việc. Đây là hình thức nâng cao kỹ năng và trình độ có liên quan đến nghề nghiệp của người đi học và phải chuyển đổi ngành để kiếm việc làm mới. Hiện nay bộ phận không nhỏ những người chưa có việc làm cũng theo học hình thức này.
Đào tạo tại chức dành cho những người thuộc mọi thành phần kinh tế, học ở mọi phương thức khác nhau không phải học tập trung liên tục tại trường đại học tại chức là một bộ phận của giáo dục thường xuyên, người học có thể vừa học vừa làm: Học tập và tích luỹ kiến thức dần dần với các phương thức đào tạo linh hoạt, đa dạng trong khoảng thời gian và không gian thích hợp mềm dẻo để đạt được một mục tiêu nội dung và chương trình quy định. Do đó đào tạo tại chức hiện nay có nhiều hình thức, mỗi hình thức đều có những ưu nhược điểm nhất định, tuy nhiên do nhiều yếu tố tác động, giáo dục đại học tại chức hiện nay đang có nhiều bất cập.
* Hình thức đào tạo từ xa: Đây là hình thức đào tạo thích hợp trong điều kiện kinh tế xã hội đã phát triển, hệ thống các tài liệu, tư liệu thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình phổ biến trong cả nước. Hình thức đào tạo này người học không cần phải có mặt thường xuyên hay định kỳ tại trường. Nhờ có hình thức đào tạo này mà những người ở miền xa xôi, miền núi, hải đảo nếu muốn học cũng có thể học được. Hình thức này hiện nay mới được thực hiện ở một vài trường với phạm vi nhỏ vì hệ thống thông tin liên lạc của ta còn chưa đầy đủ và nhiều người chưa lĩnh hội được phương pháp này nên còn ngần ngại.
* Hình thức đào tạo cấp văn bằng đại học II: Hình thức này giành cho những người đã tốt nghiệp 1 bằng đại học do nhu cầu của công việc họ cần thiết phải chuyển đổi ngành. Hình thức này thời gian học tập có thể kéo dài một cách linh hoạt từ 20 đến 30 tháng. Sau khi tốt nghiệp họ được cấp bằng cử nhân kinh tế theo chuyên ngành, chương trình đào tạo được tuân theo hệ chuẩn, có bảo lưu những phần học đã tích luỹ theo chương trình của Bộ GD&ĐT.
Hình thức này đang được xã hội đánh giá cao. Tuy nhiên do thời gian đào tạo là ngoài giờ (Buổi tối) nên người học thường mệt mỏi sau một ngày làm việc căng thẳng ở cơ quan. Vì vậy ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Mặt khác hình thức này đòi hỏi người học phải tự học 50% và với phương pháp học tập có hiệu quả. Nhưng vì các điều kiện khác nhằm đảm bảo dồng bộ trong đào tạo chưa thoả đáng nên chất lượng đào tạo còn bị hạn chế.
* Hình thức đào tạo theo chứng chỉ: Hiện nay hình thức đào tạo theo chứng chỉ là hình thức được đào tạo thường xuyên, người học có thể tích luỹ từng bộ phận kiến thức theo đơn vị học trình và học phần một cách linh hoạt. Nhờ áp dụng phương thức đào tạo này nên chỉ trong một thời gian tương đối ngắn, các trường đại học kinh tế đã đào tạo được cho đất nước một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế khá đông đảo. Đội ngũ này cũng đã có những đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp phát triển của nền kinh tế nước nhà.
6 - Trình độ đào tạo:
Các trường đại học kinh tế hiện nay chủ yếu là đào tạo các loại bằng cấp: Cử nhân kinh tế và quản trị kinh doanh, thạc sĩ kinh tế và quản trị kinh doanh, tiến sĩ Khoa học kỹ thuật và quản trị kinh doanh.
Như vậy hơn 10 năm đổi mới, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nghiệp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế của nước ta có sự phát triển đáng mừng nhất l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0198.doc