Đào tạo và nghiên cứu luật tại đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh - Định hướng xây dựng và phát triển

Chương trình đào tạo phải gắn liền với chiến lược phát triển của ĐHQG. TP. HCM thành một đại học nghiên cứu . Định hướng xây dựng Đại học quốc gia TP. HCM thành đại học nghiên cứu thì các trường thành viên của nó và sau này là trường đại học Kinh tế- Luật cũng phải được xây dựng và phát triển theo hướng đó. Chúng tôi cho rằng, để hướng đến mục tiêu xây dựng ĐHQG TP. HCM thành một đại học nghiên cứu thì cần phải có những yếu tố sau: Thứ nhất, có một chương trình hợp lý kết hợp lý thuyết và thực tiễn. Trường đại học nghiên cứu là nơi sinh viên học để làm điều chưa học, học cách học suốt đời, là nơi học để biết, học để làm, học để sống và học để sống với nhau. Trường đại học nghiên cứu là nơi sinh viên có thể được bồi dưỡng năng lực tư duy sáng tạo và năng lực hành động sáng nghiệp. Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa đào toạ đại học và đào tạo nghề. Để đạt được mục tiêu nói trên chương trình đào tạo luật ở ĐHQG TP. HCM phải được thiết kế những môn học trang bị cho sinh viên không những kiến thức pháp luật thông thường mà cả tư duy pháp lý. Theo tôi, để đạt được mục tiêu nói trên chương trình đào tạo phải có những môn học mang tính lên kết có hệ thống giữa các lĩnh vực khác nhau: như kinh tế-luật, chính trị-luật và giữa các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Muốn vậy người thầy không những phải là người nghiên cứu giỏi mà còn phải có cách đào tạo giỏi- đào tạo qua nghiên cứu và cho nghiên cứu

doc7 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1779 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo và nghiên cứu luật tại đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh - Định hướng xây dựng và phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU LUẬT TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM-ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TS. Nguyễn Thành Đức, Khoa Kinh tế, ĐHQG TP. HCM TS. Dương Anh Sơn, Khoa Kinh tế, ĐHQG TP. HCM Đặt vấn đề: Khoa Kinh tế, Đại học Quốc gia TP. HCM hiện nay được coi là một trong những trung tâm đào tạo, nghiên cứu luật bắt đầu có uy tín ở Việt Nam. Khoá đầu tiên ra trường gần một năm nay và hiện nay hầu hết đã tìm được việc làm. Không những thế các nhà tuyển dụng có sự đánh giá khá cao khả năng thực hiện công việc, khả năng tiếp cận và giải quyết công việc của sinh viên luật Khoa Kinh tế, đánh giá khá cao chất lượng đào tạo. Như vậy sau một thời gian không nhiều Khoa Kinh tế đã khẳng định được là một trung tâm đào tạo luật có chất lượng, uy tín ở khu vực phía nam nói riêng, cả nước nói chung. Mặc dù đã đạt những kết quả bước đầu đáng khích lệ trong lĩnh vực đào tạo luật, tuy nhiên tôi cho rằng, để việc đào tạo luật được tốt hơn, Khoa Kinh tế phải có chiến lược phát triển hợp lý, tạo ra được nét đặc thù so với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu luật khác ở Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi có một số ý kiền liên quan đến những vấn đề nói trên. 1. Có lẽ tất cả chúng ta ai cũng biết rằng, nội dung chương trình có sự ảnh hưởng, tác động rất lớn đến chất lượng của giáo dục đại học. Khoa Kinh tế, ĐHQG TP. HCM mới được giao nhiệm vụ đào tạo luật nên trong quá trình xây dựng chương trình chúng tôi đã tiếp thu, kế thừa chương trình của các cơ sở đào tạo luật khác nhau trong và ngoài nước. Mặc dù đã có một số chỉnh sửa và bổ sung, tuy nhiên hiện nay chương trình đào tào chưa có nhiều sự khác biệt so với chương trình của các cơ sở đào tạo luật khác trong nước. Mà chỉ dừng lại ở việc sắp xếp, bố trí lại các môn học và thời lượng của từng môn học. Sự đổi mới không nhiều này đã mang lại một số kết quả bước đầu, tuy nhiên chưa đủ để tạo ra nét đặc thù, điểm đặc trưng của đào tạo luật ở Khoa Kinh tế, ĐHQG TP. HCM. Tiếp tục đổi mới chương trình luôn là yêu cầu của công tác đào tạo. Theo ý kiến của chúng tôi, việc định hướng xây dựng chương trình đào tạo, nghiên cứu luật ở Khoa Kinh tế, ĐHQG TP. HCM phải xuất phát từ: i) đặc thù của cơ sở đào tạo; ii) chiến lược chung của ĐHQG; iii) nhu cầu của thực tế; iv) Khả năng đáp ứng của đội ngũ giảng viên và. Thứ nhất, chúng tôi muốn nói đến đặc thù của cơ sở đào tạo. Mặc dù hiện nay Khoa Kinh tế chưa phải là một trường đại học, tuy nhiên trong tương lai gần Khoa Kinh tế sẽ là một trường đại học đa ngành, trực thuộc ĐHQG TP. HCM, trong đó việc đào tạo, nghiên cứu Luật chiếm một vị trí quan trọng giữa các ngành khác như Kinh tế học, Quản trị kinh doanh, Tài chính-ngân hàng, kế toán-kiểm toán…Trong bối cảnh như vậy thì theo tôi, việc đào tạo luật phải gắn liền với các lĩnh vực kinh tế. Xác định được mục tiêu như vậy nên khi xây dựng chương trình đào tạo phải ưu tiên cho lĩnh vực luật tư. Và đây chính là nét đặc thù của đào tạo luật tại Khoa Kinh tế. Có thể nói rằng, với một thời lượng hạn chế (135 tín chỉ) nhưng chương trình đã dành thời lượng đáng kể cho việc giảng dạy các môn học thuộc lĩnh vực luật tư, bên cạnh đó vãn bố trí được một thời lượng hợp lý cho các môn học thuộc lĩnh vực luật công như Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Hình sự và tố tụng hình sự. Đây có thể nói là kết quả của sự cố gắng của Khoa Kinh tế. Xuất phát từ đặc thù của cở sở đào tạo nên trong chương trình đào tạo luật tại Khoa Kinh tế môn Kinh tế học được được thiết kế với tư cách là một môn học bắt buộc với một thời lượng hợp lý. Qua nghiên cứu, giảng dạy chúng tôi cho rằng, những lĩnh vực của pháp luật liên quan đến hoạt động thương mại đều có cội rễ từ Kinh tế học. Thật vậy có nhiều vấn đề của pháp luật chỉ có thể được lý giải một cách thấu đáo nếu biết sử dụng những kiến thức của kinh tế học. Đây cũng được coi là xu thế mới hiện nay: theo tôi kinh tế học quan tâm đến hiệu quả bất chấp hậu quả sẽ ra sao, còn luật học quan tâm đến bản chất của hành vi và quan tâm đến hậu quả của hành vi đó. Trong khoa học pháp lý có thể tìm thấy rất nhiều mối quan hệ giữa hai ngành khoa học này. Tự do hợp đồng và tự do cạnh tranh có cùng nguồn gốc và lịch sử phát triển bởi chúng đều là các thành tố của tự do cá nhân. Nếu nói đến tự do hợp đồng mà không nói đến tự do cạnh tranh thì khó có thể lý giải được một cách toàn diện tại sao tự do hợp đồng trong nhiều trường hợp bị giới hạn bởi quy định của pháp luật. Hay khi lý giải cơ sở lý luận của pháp luật chống lạm dụng độc quyền, chống cạnh tranh không lành mạnh thì không thể không sử dụng các lý thuyết kinh tế. Dưới góc độ pháp lý, pháp luật chống lạm dụng vị trí độc quyền có chức năng bảo vệ quyền lợi của người yếu hơn trong quan hệ pháp luật, ví dụ, bằng cách không thừa nhận giá trị pháp lý của một số thoả thuận của các bên trong hợp đồng với mục đích cuối cùng là hướng tới lợi ích chung của toàn xã hội. Dưới góc độ kinh tế thì pháp luật chống lạm dụng vị trí độc quyền được coi là công cụ đảm bảo một cách tương đối trật tự thị trường làm tiền đề cho cạnh tranh lành mạnh và như vậy góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hay vấn đề tập trung kinh tế cũng cần phải được xem xét từ cả góc độ kinh tế và cả luật pháp. Tập trung kinh tế nhằm tạo ra sức mạnh cho doanh nghiệp, nhưng chỉ trong ngắn hạn và chỉ vì lợi ích của một hoặc một nhóm lợi ích nào đó mà thôi. Tuy nhiên trong dài hạn lại có thể gây hại cho thị trường, cho sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy mà pháp luật cần phải can thiệp trong một số trường hợp nhất định, ví dụ quy định thị phần kết hợp. Không những môn học Kinh tế học cần được đưa vào chương trình một cách chính thức mà trong chương trình đào tạo luật cần phải dành một thời lượng hợp lý cho các môn học liên quan đến kinh tế với tư cách là các môn học tự chọn. Ví dụ, Quản trị học, Lịch sử các học thuyết kinh tế…Rõ ràng, giảng dạy, nghiên cứu những vấn đề liên quan đến Luật thương mại quốc tế, luật lệ của WTO mà không có kiến thức cơ bản về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so sánh của David Ricardo thì không thể biết được cơ sở lý luận của các Hiệp định thương mại song phương và đa phương. Cơ sở lý luận của tự do hoá thương mại là các học thuyết lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối, tuy nhiên nếu không có sự can thiệp một cách hợp lý của pháp luật thì hoạt động thương mại quốc tế sẽ không có trật tự, tạo ra những sự bất ổn trong xã hội. Và cho dù kinh tế sự tăng trưởng đáng kể nhưng điều kiện sống của con người không thể được cải thiện. Lý thuyết kinh tế cũng có tác động đến việc tìm các giải pháp để hoàn thiện pháp luật. Khi mà chi phí thấp thì trước hết là lợi nhuận, sau đó phúc lợi của toàn xã hội được nâng cao. Vậy thì pháp luật cần phải như thế nào để chi phí giao dịch thấp nhất. Thông qua lý thuyết chi phí giao dịch có thể nhận thấy rằng, pháp luật càng rõ ràng thì chi phí giao dịch càng thấp và hệ quả là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao. Chương trình đào tạo phải gắn liền với chiến lược phát triển của ĐHQG. TP. HCM thành một đại học nghiên cứu Xem: Hướng tới xây dựng mô hình đại học nghiên cứu ở Việt Nam, . Định hướng xây dựng Đại học quốc gia TP. HCM thành đại học nghiên cứu thì các trường thành viên của nó và sau này là trường đại học Kinh tế- Luật cũng phải được xây dựng và phát triển theo hướng đó. Chúng tôi cho rằng, để hướng đến mục tiêu xây dựng ĐHQG TP. HCM thành một đại học nghiên cứu thì cần phải có những yếu tố sau: Thứ nhất, có một chương trình hợp lý kết hợp lý thuyết và thực tiễn. Trường đại học nghiên cứu là nơi sinh viên học để làm điều chưa học, học cách học suốt đời, là nơi học để biết, học để làm, học để sống và học để sống với nhau. Trường đại học nghiên cứu là nơi sinh viên có thể được bồi dưỡng năng lực tư duy sáng tạo và năng lực hành động sáng nghiệp. Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa đào toạ đại học và đào tạo nghề. Để đạt được mục tiêu nói trên chương trình đào tạo luật ở ĐHQG TP. HCM phải được thiết kế những môn học trang bị cho sinh viên không những kiến thức pháp luật thông thường mà cả tư duy pháp lý. Theo tôi, để đạt được mục tiêu nói trên chương trình đào tạo phải có những môn học mang tính lên kết có hệ thống giữa các lĩnh vực khác nhau: như kinh tế-luật, chính trị-luật và giữa các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Muốn vậy người thầy không những phải là người nghiên cứu giỏi mà còn phải có cách đào tạo giỏi- đào tạo qua nghiên cứu và cho nghiên cứu Xem: Để hiểu hơn về một đại học nghiên cứu, . Giảng dạy và nghiên cứu khoa học là chức năng của mỗi giảng viên. Hai hoạt động này cần phải tiến hành song song, bởi lẽ chúng có tác động qua lại. Nhu cầu nghiên cứu nảy sinh trong quá trình thực hiện hoạt động giảng dạy làm phát sinh và hoạt động nghiên cứu sẽ làm cho bài giảng luôn mới. Giảng viên không chú trọng đến hoạt động nghiên cứu khoa học thì chất lượng bài giảng sẽ không cao bởi vì. Bởi lẽ nếu không nghiên cứu thì chỉ có thể mô tả luật thực định và nhắc lại những kiến thức sẵn có trước đây. Và như vậy thì khó có thể kích thích được tính sáng tạo của người học. Đại học nghiên cứu không thể không có các nhóm nghiên cứu, chính các nhóm nghiên cứu có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động đào tạo và nghiên cứu của cơ sở đào tạo. Bởi lẽ kết quả nghiên cứu của các nhóm tạo nên sự đặc thù của cở sở đào tạo, từng bước xây dựng một trường phái riêng trong hoạt động khoa học. Và theo tôi, sẽ có sự tác động đến xã hội thông qua kết quả của nghiên cứu. Vì lẽ đó nên tôi cho rằng, trong khuôn khổ ĐHQG TP.HCM phải hình thành những nhóm nghiên cứu đủ mạnh trong các lĩnh pháp luật vực khác nhau, đặc biệt là những vấn đề của pháp luật liên trong lĩnh vực thương mại. Việc xây dựng các nhóm nghiên cứu đủ mạnh tạo nên sự đặc thù của cơ sở đào tạo. Thực tiễn cho thấy, khoa học pháp lý là một lĩnh vực rộng lớn và ở mỗi quốc gia có nhiều cở sở đào tạo luật khác nhau. Tuy nhiên mỗi cơ sở đào tạo luật có thế mạnh riêng của mình trong một hay một số lĩnh vực nào đó của pháp luật. Thế mạnh đó được thể hiện của các công trình nghiên cứu của giảng viên thuộc các nhóm nghiên cứu. Bởi lẽ chính các công trình nghiên cứu, kết quả nghiên cứu của giảng viên có sự tác động tích cực và để lại dấu ấn trong sinh viên. Vì vậy theo ý kiến của tôi, Khoa Kinh tế phải có chiến lược và sự quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng ít nhất là một nhóm nghiên cứu liên quan đến luật trong lĩnh vực thương mại. Việc xây dựng chương trình đào tạo cũng phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, xu hướng phát triển của xã hội. Tất nhiên theo ý kiến của tôi thì cần phải phân biệt nhu cầu của xã hội với thị hiếu nhất thời của người dân. Thị hiếu nhất thời của người dân tồn tại trong một thời điểm ngắn nào đó. Ví dụ, khi chứng khoán tăng giá thì mọi người đổ xô đăng ký tham gia các khoá học về chứng khoán, khi thị trường trầm lắng thì các trung tâm đào tạo chứng khoán gần như không có ai theo học. Nhu cầu xã hội ở đây là nhu cầu trong cả trong hiện tại và cả trong tương lai. Điều này đòi hỏi những người xây dựng chương trình cần phải xác định được xu thế của xã hội trong dài hạn. Tự do hoá thương mại là xu thế tất yếu của thương mại quốc tế. Và hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tham gia vào các quan hệ thương mại quốc tế càng nhiều. Tất nhiên tranh chấp thương mại quốc tế cũng sẽ nhiều hơn Chính vì vậy nên thiết nghĩ cần phải đưa vào chương trình nhiều môn học liên quan đến thương mại quốc tế, tác động của tự do hoá thương mại đến kinh tế và đời sống xã hội nói chung. Nhiều ý kiến cho rằng, hiện nay đội ngũ luật sư Việt Nam vừa thiếu, vừa yếu và không đủ khả năng tham gia tranh tụng tại các phiên toà giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính phủ Việt Nam đang xây dựng đề án cử một số luật sư ra nước ngoài học tập để nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp với mục đich là họ có thể giúp doanh nghiệp Việt Nam trong các vụ tranh chấp thương mại quốc tế. Thiết nghĩ Khoa Kinh tế, ĐHQG TP. HCM nên chú trọng đến vấn đề này. Hiện nay trong chương trình đào tạo luật của Khoa Kinh tế có có nhiều môn học có thể trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về pháp luật thương mại của Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu. Hiện nay nhu cầu hiểu biết pháp luật của xã hội là rất cao. Xã hội càng văn minh thì càng cần phải hiểu biết luật pháp. Tuy nhiên một trong những nhược điểm của đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay là là mang nặng lý thuyết, và chỉ có những kiến thức pháp luật thuần tuý mà thiếu những kiến thức của những lĩnh vực liên quan- thực tiễn. Có lẽ chính vì vậy mà sinh viên khi ra trường thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm. Để khắc phục nhược điểm nói trên có lẽ nên mạnh dạn thay đổi phương thức đào tạo. Về vấn đề này tôi cho rằng, trong khuôn khổ ĐHQG TP. HCM có thể thực hiện được. Theo tôi, trong khuôn khổ ĐHQG TP. HCM nên xây dựng chương trình đào tạo luật theo một hình của Hoa Kỳ Hàn quốc và Nhật Bản đã và đang từng bước áp dụng mô hình đào tạo luật của Hoa Kỳ. bằng cách xây dựng chương trình liên thông luật. Theo chương trình này trong 3,5 đến 4 năm đầu sinh viên sẽ học một ngành nào đó, ví dụ-tài chính ngân hàng, kế toán kiểm toán, công nghệ thông tin…sau đó học tiếp 2 đến 2,5 năm kiến thức luật pháp phù hợp với ngành học của họ ban đầu. Tôi nghĩ rằng nếu đào tạo theo mô hình này sinh viên sẽ có kiến thức toàn diện hơn và như vậy sẽ chủ động hơn trong công việc sau này và việc tìm kiếm việc làm cũng sẽ dễ dàng hơn. Hoặc nếu không thể xây dựng chương trình theo mô hình của Hoa Kỳ thì cũng nên đẩy mạnh và mở rộng việc đào tạo hệ thống bằng hai cho các cử nhân thuộc cách lĩnh vực khác nhau. Để đạt được những mục tiêu nói trên thì yếu tố quyết định là đội ngũ giảng viên. Muốn có phương pháp tốt thì phải có đội ngũ giảng viên giỏi và tận tâm với nghề. Dạy để sinh viên biết học và biết học suốt đời không phải ai cũng có thể. Nghiên cứu khía cạnh kinh tế học của pháp luật không phải công việc đơn giản và giảng viên nào cũng có thể thực hiện được. Vì vậy để có thể đáp ứng được yêu cầu đào tạo, giảng viên luật của khoa Kinh tế- luật phải là những người có kiến thức vừa rộng vừa sâu. Các lĩnh vực của pháp luật không độc lập với nhau mà có mối liên hệ mất thiết với nhau, bởi lẽ pháp luật là một thể thống nhất. Vì vậy giảng viên luật phải nắm chắc kiến thức các môn học và phải có sự hiểu biết một cách sâu, rộng môn học mà mình phụ trách giảng dạy. Nếu chỉ biết về môn học mà mình phụ trách thì khó có thể cho sinh viên có được một cách nhìn tổng quát, mối liên hệ giữa các lĩnh vực luật. Mặt khác, hiện nay xu thế của giáo dục là đổi mới phương pháp giảng dạy. Và phương pháp được nhiều người cho là phù hợp nhất là lấy người học làm trung tâm. Theo tôi phương pháp lấy người học làm trung tâm là chúng ta chuyển từ phương pháp thầy tích cực, trò thụ động sang phương pháp người thầy tích cực và người học cũng tích cực, trong các giờ học giảng viên lấy đối thoại thay cho độc thoại. Người học đóng vai trò trung tâm có nghĩa là giảng viên phải hướng đến sinh viên trong giờ học, khuyến khích, kích thích sự sáng tạo của sinh viên bằng những câu hỏi, bằng những tình huống và luôn lắng nghe ý kiến của họ. Giảng viên cần phải biết nêu vấn đề, sau đó cùng sinh viên giải quyết vấn đề. Trong quá trình giải quyết vấn đề tôi khuyến khích sinh viên trình bày quan điểm, ý kiến của họ và trong nhiều trường hợp cố tạo ra các cuộc tranh luận và giảng viên phải tham gia vào cuộc tranh luận đó với tư cách là người hướng dẫn, định hướng. Trong quá trình tranh luận giảng viên phải có nhận xét quan điểm, ý kiến của từng người. Muốn vậy thì người thầy phải có kiến thức vừa sâu vừa rộng, bởi lẽ nếu không thì có có thể làm tốt vai trò là người hướng dẫn cho người học. Vì những mục tiêu nói trên, tôi cho rằng, Khoa Kinh tế nói riêng và ĐHQG TP. HCM phải có một chiến lược xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên cho đào tạo và nghiên cứu luật một cách rõ ràng, mang tình lâu dài. Kết luận: để phát triển việc đào tạo và nghiên cứu luật tại ĐHQG TP. HCM, chúng tối cho rằng, trước hết cần phải xây dựng được chương trình đào tạo phù hợp, phương thức đào tạo hợp lý và xây dựng được đội ngũ giảng viên có trình độ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐào tạo và nghiên cứu luật tại đại học quốc gia tp Hcm-định hướng xây dựng và phát triển.doc