MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 3
Phần I: LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN 4
I-/ Khái niệm 4
1. Đầu tư 4
2. Đầu tư của khu vực tư nhân 4
II-/ Vai trò của đầu tư khu vực tư nhân 3
1. Tạo ra sự tăng trưởng kinh tế 3
2. Tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế 5
3. Góp phần tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia 6
4. Góp phần tăng chất lượng nguồn nhân lực 6
5. Tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập của người lao động 6
III-/ Các nhân tố tác động đến nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư
tư nhân 6
1. Mô hình đường cầu đầu tư 6
2. Chính sách khuyến khích đầu tư 8
Phần II: ĐẦU TƯ CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN ĐỐI VỚI
SỰ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM 9
I-/ Khu vực tư nhân 9
1. Sự hình thành khu vực tư nhân 9
2. Các quy định pháp lý về khu vực tư nhân 10
II-/ Tình hình đầu tư của khu vực tư nhân 11
1. Số lượng chủ thể đầu tư của khu vực tư nhân 11
2. Vốn đầu tư 12
3. Đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế 13
III-/ Vai trò đầu tư của khu vực tư nhân đối với sự tăng trưởng
và phát triển của nền kinh tế Việt Nam 14
1. Nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân ngày càng có vai trò quan
trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội 15
2. Khu vực tư nhân có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng
kinh tế 16
3. Đầu tư của khu vực tư nhân tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu
thành phần kinh tế 19
Đầu tư của khu vực tư nhân góp phần tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động
33 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư của khu vực tư nhân đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế, bảo đảm lợi ích chung của cả xã hội. Mặt khác, hệ thống luật pháp còn thể hiện quan điểm, ý chí của nhà nước.
Xuất phát từ vai trò đó, nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về hoạt động của các chủ thể kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm đảm bảo sự vận hành nhịp nhàng của một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật, chủ thể của khu vực tư nhân bao gồm:
Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh theo quy định của Luật doanh nghiệp (trước đây là Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân). Các chủ thể này thuộc thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
Doanh nghiệp hợp tác xã theo quy định của Luật hợp tác xã. Các chủ thể này thuộc thành phần kinh tế tập thể.
Hộ kinh doanh cá thể và hộ nông dân. Các chủ thể này thuộc thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị.
Ngoài ra, trong hoạt động đầu tư, khu vực tư nhân có thể được hưởng các ưu đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Do có rất nhiều quan điểm khác nhau về chủ thể kinh tế của khu vực tư nhân, những phân tích trên đây nhằm xác định phạm vi của khu vực tư nhân trong đề tài này.
ii-/ tình hình đầu tư của khu vực tư nhân
Cùng với chủ trương đổi mới, các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân đã thông thoáng, cởi mở hơn. Điều đó đã tạo được động lực mới trong nền kinh tế, tiếp tục giải phóng mọi lực lượng sản xuất, khơi dậy, phát huy được các nguồn lực để phát triển kinh tế. Những biến chuyển tích cực trong hoạt động đầu tư của khu vực tư nhân thời gian qua là một trong những bằng chứng thuyết phục cho tính đúng đắn của đường lối đổi mới.
Mục này sẽ khái quát về tình hình đầu tư của khu vực tư nhân trên ba phương diện: số lượng các loại hình chủ thể đầu tư, quy mô vốn đầu tư và mức đóng góp của khu vực đối với nền kinh tế.
Số lượng chủ thể đầu tư của khu vực tư nhân
Sự tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân thể hiện trước hết ở sự gia tăng về số lượng chủ thể đầu tư của khu vực này.
Về số lượng hộ nông dân: Đổi mới trong nông nghiệp là khâu đột phá đầu tiên của công cuộc đổi mới nền kinh tế. Việc chuyển từ chủ trương tập thể hoá toàn bộ (lao động, ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác) sang chính sách thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ đã có tác động khơi dậy những tiềm năng to lớn. Qua các năm, số lượng hộ nông dân liên tục gia tăng (Bảng 1), đến nay, cả nước có khoảng 10 triệu hộ nông dân.
Bảng 1: Số lượng hộ nông dân (triệu hộ)
Năm
1985
1990
1994
1999
Số hộ nông dân
8.32
9.36
9.58
9.6
Nguồn: Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới S1/1999 (1)
Về số lượng doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp công ty và hộ kinh doanh cá thể: Năm 1990, khi Quốc hội thông qua Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty, hoạt động của các doanh nghiệp này chính thức được thừa nhận và được hưởng sự bảo đảm, ưu đãi của nhà nước. Đây chính là một tiền đề cho sự trưởng thành mạnh mẽ của khu vực này. Càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp được thành lập (Bảng 2), điều này góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.
(1) Kinh tế hộ nông dân và mô hình kinh tế trang trại ở Việt Nam, GS Nguyễn Điền (T 50)
Bảng 2: Số lượng doanh nghiệp tư nhân
và doanh nghiệp công ty
Năm
Số doanh nghiệp
Hàng năm
Luỹ kế
1991
414
1992
4784
5198
1993
1610
6808
1994
4073
10881
1995
4395
15276
1996
3623
18899
1997
6103
25002
1998
1019
26021
1999
4474
30500
2000
14443
44943
Nguồn: Tạp chí Phát triển kinh tế (1)
Bảng số liệu trên cho thấy, trong năm 2000, số lượng doanh nghiệp mới được thành lập tăng đột biến so với các năm trước đó. Đây là kết quả trực tiếp của việc Luật doanh nghiệp mới ra đời và bắt đầu có hiệu lực ngày 1/1/2000, thay thế cho hai luật trước đó là Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Theo quy định của Luật doanh nghiệp, thủ tục thành lập doanh nghiệp đơn giản hơn rất nhiều và các quy định về sở hữu, hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân và công ty cũng rõ ràng hơn, thông thoáng hơn. Có lẽ vì vậy mà Luật đã có tác dụng rất lớn trong việc khuyến khích tư nhân đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Cũng trong năm 2000, theo quy định của Luật doanh nghiệp, đã có khoảng 150.000 hộ kinh doanh cá thể mới đăng kí thành lập.
Về số lượng hợp tác xã. Tính đến tháng 8/1997 cả nước có 10.500 hợp tác xã đã đăng kí hoạt động(2). Hoạt động của hợp tác xã hiện nay không còn mang tính bắt buộc và hình thức như trong thời bao cấp nữa mà thực sự là sự hợp tác tự nguyện của tập thể người lao động. Các hợp tác xã không chỉ tồn tại trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn phát triển trong các lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ.
Một điểm đáng chú ý là 98% số doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân và 100% hộ kinh doanh cá thể, hộ nông dân có quy mô sản xuất vừa và nhỏ, kĩ thuật sản xuất còn lạc hậu, khả năng cạnh tranh chưa cao. Do đó, để tạo điều kiện cho sự phát triển của khu vực này đòi hỏi nhà nước cần có các chính sách đảm bảo, hỗ trợ về mặt thị trường và tiêu thụ sản phẩm.
Kinh tế tư nhân Việt Nam, thực trạng và giải pháp, TS Võ Phước Tấn, ThS Đỗ Hồng Điệp
Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực trạng và giải pháp, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
Vốn đầu tư
Bảng 3 cho biết tình hình vốn đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trong mối quan hệ so sánh với vốn đầu tư của nhà nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bảng 3: Vốn đầu tư toàn xã hội (tỷ đồng)
Năm
Vốn nhà nước
Vốn ngoài QD
Vốn ĐTTTNN
Tổng số
Tỷ VND
%
Tỷ VND
%
Tỷ VND
%
Tỷ VND
%
1991
5,115
38.0
6,430
47.7
1,926
14.3
13,471
100.0
1992
8,688
35.1
10,864
43.9
5,185
21.0
24,737
100.0
1993
18,556
44.0
13,000
30.8
10,621
25.2
42,177
100.0
1994
20,796
38.3
17,000
31.3
16,500
30.4
54,296
100.0
1995
26,048
38.3
20,000
29.4
22,000
32.3
68,048
100.0
1996
35,894
45.2
20,773
26.2
22,700
28.6
79,367
100.0
1997
46,570
48.1
20,000
20.6
30,300
31.3
96,870
100.0
1998
52,536
54.0
20,500
21.1
24,300
24.9
97,336
100.0
1999
65,300
62.1
21,000
20.0
18,900
18.0
105,200
100.0
2000
74,700
61.9
23,500
19.5
21,800
18.6
120,000
100.0
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam (1)
Trong giai đoạn 1991-2000, tỷ lệ vốn đầu tư ngoài quốc doanh trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân là 24.7%, trong khi tỷ lệ này đối với vốn đầu tư nhà nước là 50.5% và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 24.8%.
Tuy nhiên, nếu so sánh với tiềm năng của khu vực này thì khối lượng vốn huy động được còn chưa lớn. Thứ nhất, tiết kiệm của dân cư, theo kết quả điều tra và ước tính của Bộ kế hoạch và đầu tư và Tổng cục thống kê, cơ cấu sử dụng tiền tiết kiệm của dân cư như sau:
Mua vàng và ngoại tệ: 44%
Mua nhà đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt: 20%
Gửi tiết kiệm (chủ yếu là ngắn hạn): 17%
Đầu tư cho các dự án: 19% (Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới S3/2000)(2)
Như vậy, chỉ khoảng 36% vốn hiện có trong dân được huy động cho đầu tư phát triển.
Thứ hai, tiết kiệm của các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp công ty và các hợp tác xã, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 9-10% năm là tiền đề của sự gia tăng mức tích luỹ trong các doanh nghiệp này.
Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2000-2001, Trang 52
Huy động vốn đầu tư cho CNH, HĐH đất nước, Hoàng Thị Bích Loan, Trang 42
Đó là những bằng chứng để khẳng định rằng khu vực tư nhân là khu vực còn đầy tiềm năng về vốn đầu tư. Theo chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010, để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng GDP của giai đoạn này thì khu vực tư nhân sẽ phải tăng gấp đôi mức đầu tư trên GDP từ 7% hiện nay lên 11-13% trong 10 năm tới. Mục tiêu này được đánh giá là đầy kì vọng song có khả năng thực hiện được nếu có các chính sách huy động vốn đầu tư phù hợp, chẳng hạn như chính sách tiền tệ nhằm làm giảm mức lãi suất của nền kinh tế.
Đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế
Mức đóng góp của khu vực tư nhân vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế là một chỉ tiêu tổng quát biểu hiện kết quả hoạt động đầu tư của khu vực này. Số liệu trong bảng 4 và 5 cho thấy kết quả đó.
Bảng 4: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế (%)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Kinh tế nhà nước
40.18
39.93
40.48
40.00
38.74
38.98
Kinh tế tập thể
10.06
10.02
8.91
8.90
8.84
8.53
Kinh tế cá thể
36.02
35.25
34.32
33.83
32.93
32.03
Kinh tế tư bản tư nhân
7.44
7.41
7.22
7.24
7.25
7.21
Kinh tế có vốn ĐTNN
6.30
7.39
9.07
10.03
12.24
13.25
Tổng số
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
Nguồn: Niên giám thống kê 2000
Bảng 5: Chỉ số phát triển tổng sản phẩm quốc nội (%)
Năm
1995
1997
1998
1999
2000
Kinh tế nhà nước
109.4
109.7
105.6
102.6
107.4
Kinh tế tập thể
104.5
102.6
103.5
106.0
104.6
Kinh tế cá thể
102.8
105.6
103.4
103.6
105.3
Kinh tế tư bản tư nhân
109.3
109.8
107.9
103.2
107.3
Kinh tế có vốn ĐTNN
115.0
120.8
119.1
117.6
109.9
Tổng số
109.5
108.2
105.8
104.8
106.7
Nguồn: Niên giám thống kê 2000
Trong giai đoạn 1995-2000, khu vực tư nhân đã đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm quốc nội (Bảng 4). Mức đóng góp này phụ thuộc nhiều vào thành phần kinh tế cá thể (khoảng 34% GDP), đóng góp của kinh tế tập thể và kinh tế tư bản tư nhân còn hạn chế (khoảng 16% GDP).
Xét về giá trị tuyệt đối, mức đóng góp này liên tục tăng qua các năm. Điều này thể hiện ở tốc độ phát triển tổng sản phẩm quốc nội của các thành phần kinh tế trong bảng 5. Trong đó, thành phần kinh tế tư bản tư nhân có tốc độ tăng trưởng khá nhất trong 3 thành phần kinh tế thuộc khu vực tư nhân.
Kết quả này khẳng định vị trí của khu vực tư nhân và hoạt động đầu tư của nó đối với nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại tình hình đầu tư của khu vực tư nhân trong giai đoạn 1990-2000 đã có nhiều chuyển biến tích cực song còn nhiều khó khăn và chưa thực sự xứng đáng với tiềm năng của khu vực này. Để khai thác tốt hơn nữa những nguồn lực của khu vực tư nhân cần có sự tác động hỗ trợ của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách.
Iii-/ vai trò đầu tư của khu vực tư nhân đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế việt nam
Làm sáng tỏ vai trò đầu tư của khu vực tư nhân đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam chính là tiêu điểm của đề tài này. Quá trình phân tích vai trò đầu tư của khu vực tư nhân sẽ dựa trên lý thuyết về vai trò của đầu tư đã được trình bày trong phần I.
Khu vực tư nhân mặc dù mới trải qua hơn 10 năm tồn tại và phát triển song đã ngày càng khẳng định được vị thế của mình đối với sự tăng trưởng và phát triển chung của nền kinh tế. Điều đó thể hiện trên các mặt sau:
Nguồn vốn của khu vực tư nhân ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội
Vốn đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế. Trong giai đoạn 1991-2000, tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội trong GDP đạt mức bình quân là 25.4%, trong đó, vốn đầu tư của khu vực tư nhân đạt mức 7.1% GDP. Đây là một thành tựu lớn nền kinh tế Việt Nam khi so sánh với những năm 80, tích luỹ nội bộ nền kinh tế là không đáng kể.
Theo mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 do Đại hội Đảng IX đề ra, tổng vốn đầu tư trong thập kỷ tới phải là 30% GDP thì mới có thể tăng gấp đôi GDP trong giai đoạn này. Các chuyên gia kinh tế đã nhận định rằng, việc tăng quy mô vốn đầu tư trong GDP sẽ chủ yếu phụ thuộc vào đầu tư của khu vực tư nhân.
Bảng 6: Tỷ lệ vốn đầu tư trong GDP (%)
Giai đoạn
1991-2000
2001-2010
Đầu tư từ ngân sách nhà nước
5.9
7.0
Đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước
7.0
7.0
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
5.4
3.0-5.0
Đầu tư của khu vực tư nhân
7.1
11.0-13.0
Tổng đầu tư
25.4
30.0
Nguồn: Ngân hàng thế giới
Bảng 6 cho thấy tỷ lệ vốn đầu tư của từng khu vực trong GDP giai đoạn 1991-2000 và những dự tính cho giai đoạn 2001-2010. Theo dự tính này, tỷ lệ vốn đầu tư của nhà nước trong GDP sẽ tăng không đáng kể, tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP sẽ giảm, như vậy sự tăng lên của tỷ lệ tổng vốn đầu tư trong GDP sẽ do khu vực tư nhân quyết định.
Thứ nhất, về vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Trong những năm 1991-2000, ngân sách nhà nước (gồm cả vốn ODA) đóng góp một phần vốn cho tổng đầu tư với tỷ lệ bình quân hàng năm là 6% GDP. Khoản vốn này được sử dụng để đầu tư cho các lĩnh vực giao thông vận tải, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, khoa học công nghệ và môi trường. Nhưng khoản đầu tư này trong tương lai sẽ bị hạn chế bởi triển vọng thu ngân sách tăng chậm lại, bởi nhà nước cần một khoản chi đáng kể cho việc cải cách doanh nghiệp nhà nước và cải cách ngân hàng. Do đó, đầu tư từ ngân sách nhà nước sẽ khó vượt qua mức 7% trong giai đoạn tới.
Thứ hai, về đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Năm 2000, đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước đạt mức 9-10% GDP. Tuy vậy cũng còn những nghi ngờ về khả năng huy động nguồn lực của các doanh nghiệp nhà nước để duy trì mức đầu tư như vậy. Một là, tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian gần đây rất yếu kém. Hai là, tín dụng ngân hàng dành cho các doanh nghiệp nhà nước có khả năng bị hạn chế vì các ngân hàng sẽ chuyển sang chế độ cho vay mang tính thương mại cao hơn và sự ưu tiên mang tính bất hợp lý đối với các doanh nghiệp nhà nước sẽ không còn. Do đó, mức đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước sẽ khó vượt mức bình quân của giai đoạn trước là 7% GDP.
Thứ ba, về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo dự tính, tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP sẽ giảm từ 5% trong giai đoạn 1991-2000 xuống còn 3-5% trong giai đoạn 2001-2010. Có bốn lý do giải thích cho sự suy giảm đó. Một là, tỷ lệ 3-5% GDP là một tỷ lệ rất cao so với thế giới. Hai là, việc tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, một lĩnh vực có thể thu hút được rất nhiều vốn đầu tư vẫn chưa có nhiều tiến triển ở Việt Nam. Ba là, khi Hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ được thực thi, hầu hết đầu tư nước ngoài nhằm vào xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ đòi hỏi ít vốn. Bốn là, việc Trung Quốc gia nhập WTO và sự phục hồi của nền kinh tế các quốc gia Đông á sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn đối với Việt Nam trong việc thu hút FDI.
Trong bối cảnh như vậy, mục tiêu tổng đầu tư có đạt được hay không phụ thuộc chủ yếu vào khu vực tư nhân. Tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực này trong GDP phải tăng gấp đôi so với giai đoạn trước, từ 7% lên 11-13%. Điều này là khó khăn song có thể thực hiện được bởi như đã phân tích trong phần “Tình hình đầu tư của khu vực tư nhân” thì khu vực này còn tiềm năng về vốn đầu tư.
Có một vấn đề nhận thấy là xu hướng vốn đầu tư của khu vực tư nhân giai đoạn 1991-2000 tăng lên về số tuyệt đối song tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư lại giảm dần (Bảng3). Sự suy giảm đó là do tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp, dịch vụ và xây dựng nhà cửa có xu hướng giảm, tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp chế tạo tăng dần mà khu vực tư nhân ít tham gia vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo. Vì vậy, để đạt mục tiêu đề ra, cần xoá bỏ mọi trở ngại và tạo ra động lực khuyến khích đối với đầu tư của khu vực tư nhân vào lĩnh vực này.
Khu vực tư nhân có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế
Trong nội dung trước, khi xem xét kết quả hoạt động đầu tư của khu vực tư nhân, ta đã thấy mức đóng góp của khu vực này trong sự tăng trưởng GDP. Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét cụ thể hơn trong phạm vi từng ngành.
Về nông nghiệp. Sau quá trình phi tập thể hoá trong nông nghiệp hộ nông dân đã chính thức được thừa nhận là đơn vị kinh tế cơ bản trong nông nghiệp nông thôn. Điều đó đã phát huy được tính chủ động của người nông dân trong sản xuất nông nghiệp, và khu vực tư nhân, cụ thể là các hộ nông dân và các hợp tác xã nông nghiệp là lực lượng chủ lực tạo ra những thành quả to lớn trong ngành này.
Các số liệu về cơ cấu tổng giá trị sản lượng nông lâm ngư nghiệp chứng minh khu vực tư nhân là lực lượng sản xuất chủ lực trong nông nghiệp (Bảng 7).
Bảng 7: Cơ cấu tổng giá trị sản lượng nông lâm ngư nghiệp
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Quốc doanh
Giá trị (Tỷ đồng)
2210
2664
3424
3582
3961
4698
Tỷ trọng (%)
4.5
4.3
4.5
4.4
4.3
4.6
Khu vực tư nhân
Giá trị (Tỷ đồng)
46655
59555
72090
77244
89111
97025
Tỷ trọng (%)
95.5
95.7
95.5
95.6
95.7
95.4
Tổng số
Giá trị (Tỷ đồng)
48865
62219
75514
80826
93072
101723
Tỷ trọng (%)
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
Nguồn: Niên giám thống kê 1994-1999
Bằng mức đóng góp của mình vào tổng giá trị sản lượng nông lâm ngư nghiệp là trên 95%, khu vực tư nhân đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong sản xuất nông nghiệp. Tất nhiên, thành quả mà khu vực tư nhân đạt được có vai trò hỗ trợ rất lớn của nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, trong lĩnh vực công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản... Những hỗ trợ đó đã tạo điều kiện và khuyến khích các hộ nông dân tăng gia sản xuất.
Trong giai đoạn 1991-2000, nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Giá trị sản lượng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5.6%. Trong đó, nông nghiệp tăng 5.4%, thuỷ sản tăng 9.1%, lâm nghiệp tăng 2.1%. Nổi bật nhất là sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm 1.1 triệu tấn, đưa mức lương thực bình quân đầu người từ 294.9 kg năm 1990 lên 436 kg năm 2000. Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới.
Với vai trò chủ đạo trong nông nghiệp nông thôn, khu vực tư nhân sẽ là lực lượng cơ bản trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Về công nghiệp. Nếu như nông nghiệp là thế mạnh của khu vực tư nhân thì công nghiệp lại không như vậy. Số liệu trong bảng 8 cho thấy điều đó.
Bảng 8: Cơ cấu tổng giá trị sản lượng công nghiệp
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Quốc doanh
Giá trị (Tỷ đồng)
51991
58166
64474
69463
72604
Tỷ trọng (%)
50.3
49.3
48.0
45.9
43.5
Khu vực tư nhân
Giá trị (Tỷ đồng)
25451
28369
31068
33402
36242
Tỷ trọng (%)
24.6
24.0
23.1
22.1
21.7
Khu vực có vốn ĐTNN
Giá trị (Tỷ đồng)
25933
31562
38878
48359
58119
Tỷ trọng (%)
25.1
26.7
28.9
32.0
34.8
Tổng số
Giá trị (Tỷ đồng)
103375
118097
134420
151224
166965
Tỷ trọng (%)
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
Nguồn:Niên giám thống kê 1995-1999
So với khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, mức đóng góp của khu vực tư nhân nhỏ hơn nhiều, bình quân thời kì 1995-1999 là 22.9% năm. Chính sự tham gia hạn chế của khu vực này vào lĩnh vực công nghiệp sẽ làm tỷ trọng đầu tư của khu vực tư nhân trong tổng đầu tư giảm khi tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp trong tổng đầu tư có xu hướng tăng. Điều này một lần nữa khẳng định sự cần thiết của việc khuyến khích, hỗ trợ khu vực tư nhân đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp để tỷ lệ đầu tư của khu vực trong GDP có thể đạt 11-13% trong thập kỷ tới.
Mặc dù sự tham gia của khu vực tư nhân trong công nghiệp còn hạn chế, song những đóng góp của khu vực vào sự tăng trưởng toàn ngành công nghiệp là không thể phủ nhận. Đặc biệt trong giai đoạn tới, khi các doanh nghiệp nhà nước được tổ chức, sắp xếp lại thì khu vực tư nhân sẽ phải đảm nhiệm một vai trò lớn hơn trong sản xuất công nghiệp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước tập trung vào các lĩnh vực quan trọng, then chốt trong nền kinh tế.
Về dịch vụ. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là doanh nghiệp thương mại dịch vụ. Trong giai đoạn 1997-1998, tỷ lệ là 49% tổng số doanh nghiệp, giai đoạn 1999-2000 là 54%. Nếu tính đến các hộ kinh doanh cá thể thì tỷ lệ này sẽ còn lớn hơn nhiều. Sở dĩ như vậy là do các hoạt động thương mại dịch vụ thường không đòi hỏi quy mô vốn đầu tư lớn lại thu hồi vốn nhanh, điều đó phù hợp với năng lực tài chính của các nhà đầu tư tư nhân.
Không chỉ dừng lại ở đó, một số lĩnh vực mà trước đây do nhà nước độc quyền như y tế, giáo dục đào tạo, thì nay cũng có sự tham gia ngày càng nhiều hơn của khu vực tư nhân. Sự tham gia này vừa có tác dụng hỗ trợ cho nhà nước nhằm đáp ứng đủ nhu cầu của nhân dân, vừa tạo ra sự cạnh tranh đối với các cơ sở kinh tế của nhà nước. Ngoài ra, khu vực tư nhân cũng đã nhanh chóng góp mặt trong các lĩnh vực mới mẻ như thương mại điện tử...
Sự tham gia của khu vực tư nhân trong ngành thương mại đã góp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế hàng hoá ở cả thành thị và nông thôn.
Tóm lại, mặc dù sự tham gia của khu vực tư nhân vào các ngành khác nhau ở những mức độ không giống nhau, nhưng khu vực này có những đóng góp lớn lao đối với sự tăng trưởng chung của nền kinh tế trong thời gian vừa qua. Trong tương lai, khi được khuyến khích phát triển hơn, được đối xử bình đẳng hơn và có một định hướng phát triển đúng đắn, mức đóng góp của khu vực này sẽ còn lớn hơn nữa và tương xứng hơn với tiềm năng của nó. Khu vực tư nhân sẽ có những tác động tích cực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng dần tỷ trọng của ngành công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân.
Đầu tư của khu vực tư nhân tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Theo lý thuyết về vai trò của đầu tư, đầu tư tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế. Tác động của đầu tư khu vực tư nhân tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã được phân tích kĩ lưỡng trong phần trên: “Khu vực tư nhân có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế ”. Mặt khác, khu vực tư nhân là một bộ phận trong tổng thể các thành phần kinh tế cho nên rất khó để có thể nhận định về tác động của đầu tư khu vực này đối với cơ cấu lãnh thổ. Do đó, phần này sẽ trình bày tác động của đầu tư khu vực này đối với sự chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường mở ở nước ta, có ba khu vực kinh tế là khu vực nhà nước, khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực nhà nước là công cụ, là tiềm lực kinh tế của nhà nước để nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Đồng thời, kinh tế nhà nước cùng với một bộ phận của khu vực tư nhân là thành phần kinh tế tập thể là nền tảng cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự góp mặt của khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện cho sự vận hành thực sự của cơ chế thị trường, tăng thêm nguồn lực cho sự tăng trưởng kinh tế.
Câu hỏi đặt ra là cơ cấu nền kinh tế nên phân chia thế nào giữa ba khu vực này và khu vực tư nhân đóng góp như thế nào vào sự phân chia đó?
Thứ nhất, xét khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện là một hoạt động cơ bản nhất trong quan hệ kinh tế quốc tế. Với chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với thế giới, chúng ta đã và đang thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Các hoạt động đầu tư này ngoài việc đóng góp cho sự tăng trưởng của nền kinh tế, tạo ra nhiều việc làm, nó còn kèm theo việc chuyển giao công nghệ và phương thức quản lý tiên tiến. Nó được coi là “cú huých” đưa đất nước ra khỏi “vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo”. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước ta xác định, đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mặt khác Đảng và nhà nước ta cũng khẳng định đầu tư trong nước có vai trò quyết định.
Quan trọng có nghĩa là rất cần thiết, nhưng quyết định có nghĩa là không thể thiếu được, không thể thay thế được. Chính hai khái niệm này đã phân định rõ ràng vai trò của đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đầu tư trong nước có vai trò quyết định bởi những lý do sau:
Một là, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1998 đã chứng tỏ rằng, đầu tư nước ngoài rất quan trọng trong những giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, tuy nhiên, sự phát triển sẽ không thể lâu dài và ổn định nếu như lệ thuộc quá nhiều vào nước ngoài.
Hai là, phát triển kinh tế dựa vào nội lực là chính sẽ là sự đảm bảo cho một nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Ba là, muốn tăng sức cạnh tranh trong thu hút FDI thì cơ sở hạ tầng của chúng ta phải đảm bảo, nền sản xuất trong nước phải phát triển để có thể hợp tác, cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Bốn là, nguồn cung ứng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bị hạn chế hơn do chúng ta phải chịu áp lực cạnh tranh rất lớn trong việc thu hút FDI.
Khi chúng ta tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài thì thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ càng lớn mạnh. Do đó, để đảm bảo vai trò quyết định của đầu tư trong nước thì đầu tư trong nước bao gồm khu vực nhà nước và khu vực tư nhân cũng phải lớn mạnh hơn.
Thứ hai, khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta, song hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua rất thấp. Nguyên nhân là do đầu tư dàn trải, công nghệ lạc hậu và phương thức quản lý còn mang nặng tư tưởng bao cấp. Trong bối cảnh đó, công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước đang được tiến hành theo hướng giảm về số lượng, tăng hiệu quả và sức cạnh tranh.
Số lượng doanh nghiệp nhà nước gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0156.doc