Đầu tư trực tiếp của hoa kỳ vào Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Lời nói đầu 1

Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 2

1.1. Khái niệm và đặc điểm FDI 2

1.1.1. Khái niệm 2

1.1.2. Đặc điểm của FDI 3

1.2. Tác động của FDI đối với nước đầu tư và nước nhận đầu tư 4

1.2.1. Đối với nước đầu tư 4

1.2.2. Đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư 5

1.3. Nhân tố tác động đến việc thu hút FDI 8

1.3.1. Tình hình chính trị 8

1.3.2. Chính sách – pháp luật 9

1.3.3. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên 9

1.3.4. Trình độ phát triển nền kinh tế 10

1.3.5. Đặc điểm phát triển văn hoá xã hội. 10

Chương 2: Thực trạng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam thời gian qua 12

2.1. Thực trạng và xu hướng đầu tư của Hoa Kỳ ở nước ngoài. 12

2.1.1. Thực trạng nền kinh tế Hoa Kỳ thời gian qua. 12

2.1.2. Tình hình đầu tư của Hoa Kỳ ở nước ngoài nói chung. 14

2.2. Tình hình đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam. 20

2.2.1. Thực trạng đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam trước và sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. 20

2.2.2. Hiệu quả của nguồn FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam 40

2.2.3. Thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. 45

 

 

Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh thu hút FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam 53

3.1. Phát triển cơ sở hạ tầng. 53

3.2. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật đến hoạt động ĐTNN. 55

3.3. Đẩy mạnh chương trình xúc tiến đầu tư của Hoa Kỳ. 57

3.3.1. Tập trung nỗ lực hỗ trợ các dự án đầu tư của Hoa Kỳ đã được cấp giấy phép đầu tư hoặc đang đàm phán, chuẩn bị đầu tư. 57

3.3.2. Tập trung vận động đầu tư đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác tiềm năng theo hướng: 58

3.3.3. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về đầu tư. 58

3.3.4. Mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác xúc tiến đầu tư với các công ty tư vấn, xúc tiến đầu tư, các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ của Hoa Kỳ theo hướng: 59

3.3.5. Thiết lập văn phòng xúc tiến đầu tư của Việt Nam tại Hoa Kỳ: 60

Kết luận 61

Tài liệu tham khảo 62

 

doc64 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư trực tiếp của hoa kỳ vào Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
am vào 26/3/1998. Và tính đến cuối năm 1998, các doanh nghiệp Mỹ đã đầu tư vào Việt Nam 75 dự án với tổng số vốn đầu tư là hơn 1,1 tỷ USD, trong đó vốn pháp định là 500 triệu USD, trong đó vốn thực hiện là 358 triệu USD và vốn pháp định thực hiện là 233 triệu USD, tạo ra doanh thu là 172 triệu USD, xuất khẩu được 89 triệu USD, nộp thuế cho nhà nước Việt Nam 8,8 triệu USD và đã thu hút được3.253 lao động ở địa phương, đưa Mỹ từ vị trí số 24 lên hàng thứ 9 trong tổng số nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Những số liệu này ẩn chứa đằng sau những dự tính và tiềm năng to lớn của các công ty Mỹ. Sang năm 1999, các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã đầu tư vào Việt Nam với 17 dự án có số vốn là 119,2 triệu USD. Đến cuối tháng 5/2000, đã có 97 dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam có tổng số vốn trên 1 tỷ USD. Cùng thời điểm này, Mỹ đứng thứ 9 trong số các nhà đầu tư tại Việt Nam. Và tính đến trước thời điểm có hiệu lực của Hiệp đinh Thương mại Việt – Mỹ (10/12/2001), Mỹ đã có 123 dự án với tổng số vốn trên 1,12 tỷ USD. Như vậy thời điểm trước Hiệp định Thương mại có hiệu lực thì dòng vốn FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài của Hoa Kỳ. Đối với các nhà đầu tư Mỹ, việc miễn áp dụng Tu chính án Jackson –Vanik không có nghĩa là họ sẽ đổ vốn vào Việt Nam vì đây không phải là một thoả thuận liên quan đến môi trường đầu tư ở Việt Nam, đây chỉ là một cải thiện về môi trường thương mại mà thôi. Do vậy, các con số này cho thấy không có nhiều thay đổi thưc sự nào trong thái độ của các nhà đầu tư Mỹ. Họ vẫn còn chờ đợi nhiều vào Hiệp định Thương mại song phương. Về cơ cấu, trong giai đoạn này tính đến 31/8/2001 là thời điểm trước khi Hiệp đinh Thương mại có hiệu lực, lĩnh vực thu hút được nhiều vốn FDI của Hoa Kỳ nhất đó là công nghiệp với 82 dự án tương đương với 63,6% số các dự án FDI của Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam với số vốn trên 620 triệu USD tương đương 58,6% tổng số vốn FDI của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Tiếp đến là ngành dịch vụ với 31 dự án tương đương 24% tổng số dự án với số vốn đầu tư gần 300 triệu USD tương đương 27,9% tổng số vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại đây. và cuối cùng là lĩnh vực Nông- lâm- ngư nghiệp với 16 dự án có số vốn đầu tư gần 143 triệu USD tương đương 12,4% số dự án và 13,5% tổng vốn đầu tư của Hoa Kỳ. Ta thấy đa số các dự án của Hoa Kỳ là đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Trong lĩnh vực công nghiệp thì công nghiệp năng và công nghiệp dầu khí là 2 ngành thu hút được số vốn nhiều nhất. Điều này chứng tỏ các nhà đầu tư Hoa Kỳ có xu hướng đầu tư vào các ngành có khả năng sinh nhiều lợi nhuận, những ngành liên quan đến năng lượng có tính nhạy cảm cao ví dụ như ngành dầu khí, cũng như những ngành họ có nhiều lợi thế về kỹ thuật và công nghệ để họ tận dụng chi phí nhân công rẻ làm hạ giá thành giúp nâng cao sức cạnh tranh trong sản phẩm của mình.( Bảng 4) Bảng 4: FDI của Hoa Kỳ phân theo ngành STT Chuyên ngành Số dự án Tỷ trọng (%) Tổng vốn đầu tư (USD) Tỷ trọng (%) 1. CN 82 63.60 620.347.606 58.60 Dầu khí CN nhẹ CN nặng CN thiếc Xây dựng 6 12 47 10 7 4.70 9.30 36.40 7.80 5.40 123.800.000 87.002.000 306.213.606 38.120.000 65.212.000 11.70 8.20 28.90 3.60 6.20 2. Nông - Lâm - Ngư nghiệp 16 12.40 142.811.798 13.50 Nông - Lâm nghiệp Thuỷ sản 12 4 9.30 3.10 128.838.686 13.973.112 12.20 1.3 3. Dịch vụ 31 24.00 295.120.662 27.9 GTVT – Bưu điện Tài chính – Ngân hàng Văn hoá - Y tế – Giáo dục Xây dựng văn phòng – cửa hàng Dịch vụ 7 5 9 3 7 5.40 3.90 7.00 2.30 5.40 40.930.540 67.150.000 104.330.000 56.833.215 25.876.907 3.9 6.3 9.9 5.4 24 Tổng số 129 100.00 1.058.280.066 100 Nguồn: Vụ quản lý dự án – Bộ KHĐT. Theo hình thức đầu tư, số liệu cho thấy các nhà đầu tư Hoa Kỳ có xu hướng đầu tư theo hình thức 100% vốn là chủ yếu, tiếp đến là hình thức liên doanh và cuối cùng là đầu tư theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh mà không có bất kì một dự án nào theo hình thức BOT. Các dự án 100% vốn nước ngoài có tới 83 dự án tương đương 64,3% số dự án Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam, với số vốn trên 550 triệu USD tương đương 52,4% tổng vốn đầu tư Hoa Kỳ tại Việt Nam; có 33 dự án liên doanh và 13 dự án Hợp đồng hợp tác kinh doanh tương đương 25,6% và 10,1% số dự án của Hoa Kỳ tại đây. Trong đó các dự án liên doanh có số vốn gần 370 triệu USD tương đương 34,9%, Hợp đồng hợp tác kinh doanh thu hút được trên 134 triệu USD tương đương 12,7% tổng số vốn FDI của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Như vậy, các nhà đầu tư Hoa Kỳ rất thích đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài, điều này cho thấy tính độc lập cao trong tính cách cũng như trong hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Họ là những người có khả năng chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, trình độ quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại. Do vậy, họ hoàn toàn muốn độc lập tự do trong việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho đem lại hiệu quả cao mà không bị ràng buộc hay hạn chế từ bên nào. Tuy nhiên bên cạnh hình thức 100% vốn nước ngoài còn có hình thức liên doanh. Các nhà đầu tư Hoa Kỳ cũng muốn triệt để lợi dụng hình thức này để có thể khai thác những lợi thế cũng như những ưu đãi mà nhà nước Việt Nam dành cho hình thức này. Bởi vì trong chính sách liên quan đến việc đIều chỉnh các hoạt động đầu tư tại Việt Nam vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Đó là những ưu đãi mà các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp liên doanh được hưởng trong khi đó các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lại không được hưởng hoặc các chi phí dịch vụ cũng có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Ngay trong chính sách thu hút FDI của Việt Nam cũng đã thể hiện sự ưu tiên đối với doanh nghiệp liên doanh. Ví dụ như trường hợp công ty Cocacola vào đầu tư tại Việt Nam (được thành lập vào năm 1994) dưới hình thức liên doanh, chuyên sản xuất phân phối và bán các loại đồ uống nhẹ. Phía Việt Nam góp vốn bằng đất đai nhưng do lúc đó các cán bộ, chuyên gia của phía Việt Nam còn hạn chế về kiến thức chuyên môn dẫn đến sơ hở thua thiệt trong quá trình hợp tác đầu tư và cuối cùng chúng ta không những bị mất lô đất mà còn phải rút khỏi liên doanh và công ty Cocacola đã trở thành công ty 100% vốn nước ngoài. Điều này cũng cất lên hồi chuông cảnh báo là chúng ta cần phải chú trọng đạo tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài.( Bảng 5) Bảng 5: FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam phân theo hình thức đầu tư Hình thức đầu tư Số dự án Tỷ trọng (%) TLĐT Tỷ trọng (%) Hợp đồng HTKD 13 10.1 134.124.956 12.7 Liên doanh 33 25.6 369.213.304 34.9 100% vốn nước ngoài 83 64.3 554.341.806 52.4 129 100 1.058.280.066 102 Nguồn: Vụ quản lý dự án – Bộ KHĐT Xét theo vùng lãnh thổ, đa số các dự án đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam tập trung vào các tỉnh phía nam:74/129 tương đương 57,4% tổng số dự án đầu tư với số vốn tương đương 52,9% tổng số vốn FDI của Hoa Kỳ tại đây. Còn khoảng18,6% tổng số dự án ở phía bắc tương đương 26,5% tổng số vốn. Điều này phản ánh tính chất “quen thuộc và hấp dẫn” cũng như “mối quan hệ lịch sử để lại” của miền Nam Việt Nam đối với các công ty của Hoa Kỳ. Bên cạnh đó có tới 51 dự án tương đương 39,6% số dự án tập trung ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thu hút gần 369 triệu USD xấp xỉ 34,8% vốn FDI của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Qua đó ta thấy các nhà đầu tư Hoa Kỳ rất thích đầu tư vào những nơi là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Vì đây thường là những nơi có hạ tầng cơ sở và dịch vụ rất tốt, giao thông đi lại dễ dàng thuận tiện. Bên cạnh đó, các dự án cũng tập trung nhiều tại các khu công nghiệp (KCN)như KCN Bình Dương có tới 12 dự án chiếm khoảng 9,3% với gần 90 triệu USD xấp xỉ 8,4% vốn FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. (Bảng 6) Bảng 6: FDI Hoa Kỳ phân theo địa phương ( Tính đến 31/8/2001, chưa tính các dự án còn hiệu lực) STT Địa phương Số dự án Tỷ trọng (%) Tổng vốn đầu tư Tỷ trọng (%) 1 TP HCM 37 28.70 187.469.578 17.7 2 Đồng Nai 14 10.90 181.374.220 17.10 3 Hà Nội 22 17.00 158.142.980 14.9 4 Dầu khí ngoài khơi 6 4.60 123.800.000 11.7 5 Hải Dương 1 0.8 102.700.000 9.7 6 Bình Dương 12 9.3 89.362.540 8.4 7 Bà Rịa – Vũng Tàu 6 4.6 64.431.218 6.1 8 Cần Thơ 3 2.3 26.201.000 2.5 9 Hà Tây 1 0.8 20.000.000 1.9 10 Đắc Lắc 2 1.60 20.000.000 1.9 11 Các địa phương khác 25 19.40 12.063.530 1.1 129 100 1.058.280.066 100 Nguồn: Vụ quản lý dự án – Bộ Kế hoạch Đầu tư. Có hai hiện tượng đáng lưu ý khi xem xét đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong giai đoạn này. Một là số lượng cam kết khá cao, nhưng số lượng giải ngân chưa được nhiều. Mới được khoảng trên 200-300 triệu USD. Hai là từ năm 1997 đến những năm cuối thập kỷ 90, có dấu hiệu một số công ty của Hoa Kỳ rút vốn, không tăng đầu tư, hoặc nếu có tăng đầu tư hay đầu tư mới thì chỉ đầu tư ít tại Việt Nam. Tình hình này theo ý kiến của nhiều nhà kinh doanh Hoa Kỳ, một phần là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Châu á, một phần do môi trường và chính sách đầu tư của Việt Nam chưa ổn định, phức tạp, nhiều rủi ro, chậm thu lợi nhuận, chính sách đối xử của Việt Nam đối với các công ty nước ngoài nói chung, công ty Hoa Kỳ nói riêng, còn nhiều phân biệt, chưa thuận cho cách làm ăn, kinh doanh của họ. Việc các công ty Hoa Kỳ bỏ đi không chỉ ảnh hưởng bất lợi cho Việt Nam trong việc huy động vốn, kỹ thuật, tạo việc làm cho người lao động, cho xuất nhập khẩu mà còn gây tác động tâm lý không thuận đối với các công ty của các nước khác đến kinh doanh tại Việt Nam. Để khắc phục tình trạng nêu trên và để tiếp tục công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước, trong giai đoạn này chính phủ Việt Nam đã có một số sửa đổi, bổ sung và cải tiến về chính sách và biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty nước ngoài nói chung, các công ty của Hoa Kỳ nói riêng, vào đầu tư tại Việt Nam. Chẳng hạn, trong tháng 6/1999, chính phủ Việt Nam đã quyết định giảm giá đIện cho các công ty nước ngoài tại Việt Nam v…v Tuy nhiên, đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ vẫn còn chờ đợi nhiều vào việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ. Và cuối cùng vào ngày 13/7/2000 Hiệp định Thương mại đã được ký kết và có hiệu lực bắt đầu vào 10/12/2001. Với sự kiện này sẽ mở ra một chương mới trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa 2 nước. Hiệp định chắc chắn sẽ tạo ra cho doanh nghiệp 2 nước những cơ hội đầu tư, kinh doanh bình đẳng cùng có lợi, tạo đà quan trọng trong tiến trình phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau bình thường hoá quan hệ. Giai đoạn thực hiện Hiệp định Thương mại (từ 10/12/2001). Như vậy, sau hơn 1 năm thực hiện Hiệp định, các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã quan tâm và có xu hướng gia tăng đầu tư vào Việt Nam. Trong năm 2002, doanh nghiệp Mỹ đã đầu tư vào Việt Nam 32 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 139 triệu USD, tăng 23% về số dự án và 17,7% về vốn đăng ký so với 2001 có 26 dự án và thu hút 118 triệu USD. Như vậy, tính tới cuối tháng 12/2002- tròn 1 kể từ khi Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ chính thức có hiệu lực thì Mỹ đã có 153 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 1.111,4 triệu USD (chưa kể những dự án đăng ký từ vùng lãnh thổ khác có cổ phần của công ty mẹ từ Mỹ) trong đó đã thực hiện được trên 538,5 triệu USD. Tính đến cuối tháng 6/2002, Hoa Kỳ có 172 dự án được cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam, trong đó 139 dự án đang hoạt động với tổng vốn đăng ký 1,034 tỷ USD. Và cho đến 12/3/2003, Mỹ đã tăng lên tới 191 dự án với tổng vốn đầu tư là 1.623,065 triệu USD. Phần lớn các dự án đầu tư của Hoa Kỳ có quy mô vừa và nhỏ, vốn trung bình khoảng 8,7 triệu USD, trong đó dự án lớn nhất là dự án công ty TNNH Cargill Việt Nam sản xuất thức ăn gia súc tại Đồng Nai có tổng vốn đầu tư 74,5 triệu USD.(Bảng7) Biểu đồ 7:Đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam . Nhìn vào biểu đồ ta thấy, kể từ khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã tăng lên cả về số dự án và tổng vốn đầu tư. Đây là một dấu hiệu đáng mừng vì xu hướng FDI nước ngoài tại Việt Nam vẫn chưa lấy lại được vị thế như trước, giá trị FDI năm 2002 giảm khoảng 41,1% so với 2001. Tuy nhiên, vị trí của Mỹ trong số các quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam không có xu hướng ổn định mà đã có những biến đổi lúc lên lúc xuống trong suốt quá trình từ khi các nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam đến nay. ĐIều này thể hiện ở chỗ, đến cuối năm 1998, Mỹ từ vị trí thứ 24 đã lên hàng thứ 9 trong tổng số các nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Nhưng tính đến cuối 6/2002, Mỹ lại tụt xuống vị trí thứ 13 trong tổng số các quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Đến 3/2003, Mỹ lại trở về vị trí thứ 9. Bên cạnh đó quy mô các dự án cũng không ổn định qua các năm. Nếu trong giai đoạn 1994-1999 vốn trung bình cho các dự án là 12,3 triệu USD, thì năm 2000 chỉ còn 1,3 triệu USD. Sự giảm sút này có thể được giảI thích bởi sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ năm 2000. Đến năm 2001, con số này tăng lên 4,5 triệu USD và năm 2002 là 4,3 triệu USD. Như vậy là quy mô dự án vẫn nhỏ thậm chí không bằng 2001 và kém xa so với giai đoạn 1994-1999. Mặc dù số dự án và số vốn đã có xu hướng gia tăng đặc biệt là số dự án đã tăng lên đáng kể nếu tính từ năm 1996, nhưng xét về quy mô dự án thì giai đoạn 1994-1999 số vốn trung bình một dự án cao gấp ba lần so với giai đoạn 2001-2002. Mặc dù 2002, nền kinh tế Hoa Kỳ đã bắt đầu lấy lại sự tăng trưởng nhưng sự tăng trưởng này không bền vững và không ổn định. Trong năm 2002 có thêm 108 nghìn người mất việc làm dẫn đến chi tiêu trong tiêu dùng giảm. Có thể nói, các vị trí dẫn đầu của các quốc gia trong đầu tư vào Việt Nam hầu như không có sự xáo trộn nhiều, dẫn đầu vẫn là Singapore, thứ hai là ĐàI Loan và Nhật bản đứng thứ ba. Tính đến ngày 30/9/1998, Hoa Kỳ đứng thứ 9 ngay sau Malaysia và đứng trước Anh. Tuy nhiên, đến ngày 12/3/2003 Anh lại thay vị trí của Malaysia đứng trước Mỹ và buộc Malaysia lại rơi vào vị trí thứ 11 (Bảng 8) Bảng 8. Vị trí của Hoa Kỳ trong số các nhà đầu tư thời gian qua STT Tên nước Từ 1/1/1988 đến 30/9/1998 Từ 1/1/1988 đến 12/3/2003 Vị trí Số dự án TVĐT Vốn TB Vị trí Số dự án TVĐT Vốn TB 1 Malaixia 8 62 1342,6 21,65 11 139 1564,2 11,2 2 Mỹ 9 75 1106,2 14,75 9 191 1623,1 8,5 3 Anh 11 23 749,1 32,2 8 63 1756,7 27,8 Nguồn: Vụ quản lý dự án – Bộ Kế hoạch Đầu tư Như vậy, có thể mặc dù Mỹ có đứng trên Malaysia về tổng số dự án và tổng vốn đầu tư tính đên 12/3/2003 nhưng xét về quy mô vốn trung bình trong một dự án thì Mỹ lại thấp hơn nhiều. Thậm chí nếu so với quy mô vốn trung bình của một dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là 10,96 triệu USD thì Mỹ mới đạt có 8,5 triệu USD. Trước thực tế này, ta thấy dòng vốn FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam còn rất hạn chế. Mặc dù xét về khách quan thì từ sau khi ký Hiệp định TM Việt-Mỹ và từ khi HĐTM có hiệu lực, nước Mỹ đã rơi vào suy thoái và cho đến nay vẫn chưa lấy lại được sự tăng trưởng bình thường và ổn định. Trước giai đoạn HĐTM Việt-Mỹ, do môi trường đầu tư vào Việt Nam còn nhiều bất cập đặc biệt là hệ thống pháp luật, các quy định, chính sáchiều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài được coi là khá thông thoáng trong khu vực ASEAN, nhưng khi đi vào thực tiễn lại có rất nhiều hạn chế gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư. Bởi vậy trong giai đoạn này, quy mô dự án của Mỹ cũng chỉ khiêm tốn nhưng vẫn lớn hơn nhiều so với giai đoạn sau HĐTM. Dù Mỹ có đứng trên vị trí của Anh trong giai đoạn này thì số vốn trung bình của một dự án lại nhỏ hơn, chỉ bằng một nửa của Anh. Điều này cho thấy Mỹ vẫn còn rất dè dặt khi đầu tư vào Việt Nam thể hiện ở quy mô các dự án còn nhỏ. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng khi nền kinh tế Mỹ hồi phục trở lại cùng với việc HĐTM có hiệu lực, dòng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam sẽ tăng lên đáng kể. Những số liệu trên chưa tính giá trị vốn của các công ty, tập đoàn Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam thông qua chính nhánh hoặc công ty con đăng ký tại các nước và vùng lãnh thổ (Singapore, Hà Lan v…v). hiện có khoảng 29 dự án của Hoa Kỳ đầu tư theo phương thức này với tổng vốn đăng ký lên khoảng 1,15 tỷ USD. đến nay Mỹ có hơn 700 doanh nghiệp có mặt tạI Việt Nam: các công ty liên doanh, các công ty 100% vốn (trên 60 công ty) của Mỹ. Bên cạnh đó đến nay có 25 tập đoàn đa quốc gia của Hoa Kỳ (xếp hạng trong Global 1000 năm 2001) đầu tư vào 35 dự án tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký1.288,3 triệu USD. Xu hướng gia tăng đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam có thể nói trước hết là do việc Hiệp định Thương mại có hiệu lực tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ mà trước kia không có được khi đầu tư vào Việt Nam bên cạnh những hạn chế về cơ chế, chính sách, pháp luật, cơ sở hạ tầng. Những điều kiện thuận lợi này đó là những cam kết mà phía Việt Nam phải đáp ứng ngay tại thời đIểm có hiệu lực của Hiệp định. Tất nhiên còn rất nhiều cam kết về đằu tư mà Việt Nam phải thực hiện trong vòng 2-10 năm. nhưng ta chỉ phân tích chủ yếu những cam kết được đáp ứng tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực bởi nó là những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến việc gia tăng dòng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Những cam kết đó là: áp dụng tiêu chuẩn chung về đối xử đối với đầu tư của Hoa Kỳ theo nguyên tắc không kém thuận lợi nhà đầu tư trong nước hoặc không kém thuận lợi hơn nhà đầu tư của nước thứ 3, tuỳ thuộc sự đối xử nào tốt hơn; không áp dụng biện pháp bất hợp lý hoặc phân biệt đối xử để gây phương hại đối với đầu tư; cho phép nhà đầu tư Hoa Kỳ chuyển vốn và thu nhập hợp pháp khác về nước trên cơ sở không phân biệt đối xử. Xoá bỏ sự phân biệt về giá lắp đặt đIện thoại, giá nước, dịch vụ du lịch, viễn thông (trừ giá thuê bao điện thoại nội hạt). không áp dụng các loại giá phí mới gây phân biệt đối xử nặng hơn giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Sự phân biệt đối xử trong các hoạt động thu phí, lệ phí, các dịch vụ cung cấp v…v giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài luôn làm cho các nhà đầu tư nước ngoài không hài lòng đặc biệt đối với những nhà đầu tư có xu hướng sản xuất kinh doanh những mặt hàng hướng vào thị trường nội địa. Điều này sẽ làm cho hàng hoá của họ khó cạnh tranh hơn các mặt hàng tương tự được sản xuất trong nước do họ luôn phại chịu những khoản thu cao hơn từ các dịch vụ cung cấp như đIện, nước, dịch vụ du lịch, viễn thông hay các khoản thuê văn phòng khác v…v Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ đã cam kết không phân biệt đối xử trong các hoạt động thu phí kể trên, đảm bảo tiêu chuẩn chung trong việc đối xử giữa các nhà đầu tư. cam kết kể trên đã làm cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ yên tâm trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư của mình tại Việt Nam. Ngoài ra còn có các cam kết như: “không quốc hữu hoá tài sản đầu tư, trừ trường hợp vì mục đích công cộng và phải bồi thường theo nguyên tắc: công bằng, thỏa đáng, không chậm trễ theo giá thị trường tại thời điểm việc tước quyền sở hữu được công bố”. Cam kết này sẽ tạo được lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như giúp họ cảm thấy yên tâm khi bỏ vốn ra đầu tư mà không sợ bị tịch thu trừ trường hợp vì mục địch công nhưng họ lại được bồi thường thoả đáng. đối với các nhà đầu tư nước ngoài, sự an toàn về đồng vốn và tài sản luôn được đặt lên hàng đầu. Về cơ chế chính sách liên quan đến việc cấp giấy phép đầu tư được thực hiện theo nguyên tắc: công khai, dễ hiểu, không phiền hà quá mức cần thiết để phục vụ yêu cầu quản lý chính đáng. “đảm bảo quyền khiếu kiện và giải quyết tranh chấp của nhà đầu tư tại toà án, cơ quan tài phán hành chính và trọng tài theo sự lựa chọn của họ”. Những cam kết này tạo ra được sức hấp dẫn đối với môi trường đầu tư của Việt Nam bởi sự phiền hà, sách nhiễu trong thủ tục cấp giấy phép đầu tư cũng như hoạt động quản lý đầu tư của nước chủ nhà thường làm cho các nhà đầu tư nản lòng. Tóm lại những cam kết mà phía Việt Nam phải đáp ứng đã tạo được lòng tin đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ, họ cảm thấy yên tâm khi đầu tư tại đây. Bên cạnh những yếu tố tích cực làm gia tăng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam, chúng ta cũng cần phải kể đến sự cải thiện đáng kể của cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, nhiều dự án xây dựng cảng biển, hàng không và đường giao thông hiện đại đã và đang trong giai đoạn hoàn thiện. Theo các chuyên gia kinh tế trên thế giới Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng hơn nữa môi trường chính trị rất ổn định (Hà Nội đã từng được bầu chọn là một trong những thành phố hoà bình). Chính yếu tố này làm cho những cam kết cũng như những ưu đãi đối với hoạt động đầu tư nước ngoài sẽ được thực hiện nhất quán. Xét về cơ cấu đầu tư của Hoa Kỳ theo ngành cho đến khi Hiệp định đã bắt đầu có hiệu lực, ta có thể thấy một đặc điểm nổi bật là đa số các dự án vẫn tập trung đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, đứng đầu là công nghiệp nặng với 58 dự án thu hút trên 586,5 triệu USD tương đương 30% số dự án và 43% tổng vốn đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Tiếp đến là công nghiệp nhẹ với 43 dự án, có số vốn gần 196 triệu USD tương đương 23% số dự án và 12% tổng vốn đầu tư. Trong lĩnh vực công nghiệp, công nghiệp dầu khí với 7 dự án nhưng có tổng vốn đầu tư tới hơn 118 triệu USD tương đương 7,3%. Như vậy, dầu khí cũng là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư Hoa Kỳ ( 7dự án là 7 hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí được ký kết giữa các tập đoàn dầu khí Hoa Kỳ và tổng công ty dầu khí Việt Nam ). Bên cạnh đó công nghiệp thực phẩm cũng thu hút tới 20 dự án. Công nghệ thông tin là lĩnh vực cũng thu hút khá nhiều dự án đầu tư của Hoa Kỳ. Trong số 71 dự án đang hoạt động trong lĩnh vực này, Hoa Kỳ có tới 20 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 21,8 triệu USD (chiếm 28% số dự án và 42% tổng vốn đầu tư). Nhìn chung các dự án trong lĩnh vực này hoạt động rất khó khăn, tỷ lệ thành công thấp do dung lượng thị trường Việt Nam còn quá nhỏ bé, chịu ảnh hưởng của tình trạnh suy thoái thông tin toàn cầu và nạn xâm phạm bản quyền còn rất nghiêm trọng. Tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ đứng thứ 2 trong việc thu hút FDI của Hoa Kỳ với 27 dự án có số vốn gần 182 triệu USD tương đương 14% số dự án và 11% tổng vốn đầu tư. Lĩnh vực xây dựng đứng thứ 3 với 21 dự án thu hút được gần 254 triệu USD tương đương 11% số dự án và 15,6% tổng vốn đầu tư. Lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp đứng thứ 4 với 14 dự án tương đương 7% số dự án và có số vốn hơn 87 triệu USD xấp xỉ 5,4% tổng vốn đầu tư. Ngoài ra còn một số dự án đầu tư vào lĩnh vực khác như xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất. Như vậy, ta thấy xu hướng đầu tư của Hoa Kỳ theo ngành vẫn không khác gì nhiều so với giai đoạn trước Hiệp định Thương mại, vẫn tập trung đầu tư vào những ngành có khả năng sinh nhiều lợi nhuận, những ngành họ có lợi thế về máy móc, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại cũng như cho phép họ di chuyển những ngành kỹ thuật công nghệ tầm trung sang Việt Nam để tranh thủ khai thác nguồn lao động dồi dào với chi phí thấp. Điều này sẽ giúp Hoa Kỳ có cơ hội thu nhiều lợi nhuận hơn là họ sản xuất trong nước cũng như Hoa Kỳ sẽ có điều kiện tập trung hơn vào những ngành công nghệ hiện đại.(Bảng 9) Bảng 9: Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam theo ngành. (Cấp GP từ ngày 01/01/1988 đến ngày 20/03/2003). Đơn vị: 1000 USD. STT Chuyên ngành Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Việt Nam VPĐ Nước ngoài VPĐ 1 CN nặng 58 686.501 248.604 44.622 204.242 2 Xây dựng 21 253.814 131.729 36.315 95.414 3 CN nhẹ 43 195.794 106.518 18.440 88.078 4 CN dầu khí 7 118.036 104.476 694 103.782 5 CN thực phẩm 20 95.441 33.858 4.125 29.664 6 Nông Lâm nghiệp 12 82.189 27.535 4.935 22.599 7 Văn phòng cho thuê 3 61.933 34.578 11.712 22.866 8 Khách sạn – Du lịch 3 59.208 14.158 2.149 12.010 9 Văn hoá - Y tế - Giáo dục 8 47.328 24.937 4.651 20.286 10 GTVT – Bưu điện 5 6.969 5.969 1.000 4.969 11 XD KCN,KCX 1 5.000 5.000 0 5.000 12 Thuỷ sản 2 4.816 4.416 0 4.416 13 Dịch vụ 6 3.535 1.565 210 1.355 14 Tài chính – Ngân hàng 2 2.500 1.150 400 750 Tổng số 191 1.623.065 744.493 129.253 615.429 Nguồn: Vụ Đầu tư nước ngoài. Xét về cơ cấu của Mỹ vào Việt Nam theo đia phương. Các dự án đầu tư của Hoa Kỳ hoạt động chủ yếu tại các địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối tốt, tập trung nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương. Riêng thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút 65 dự án với gần 265 triệu USD tương đương 34% số dự án và 16,3% tổng vốn đầu tư. Tiếp sau là Hà Nội thu hút 27 dự án chiếm 14% tổng số dự án với số vốn gần 200 triệu USD tương đương 7,4% tổng vốn đầu tư. Bình Dương thu hút 18 dự án với số vốn 95,5 triệu USD chiếm khoảng 9,4% số dự án và 5,9% tổng vốn đầu tư. Đồng Nai cũng là địa phương thu hút được khá nhiều dự án FDI của Hoa Kỳ với 16 dự án và trên 297 triệu USD tương đương 8,4% số dự án và18% tổng vốn đầu tư. Riêng 4 tỉnh và thành phố này đã thu hút tới 126 dự án có số vốn hơn 776,5 triệu USD (66% tổng số dự án và 47,8% tổng vốn đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam). Như vậy, xu hướng đầu tư theo địa phương vẫn không có gì khác so với giai đoạn trước Hiệp định. Các dự án vẫn tập trung nhiều tại các tỉnh phía nam do tính chất quen thuộc cũng như điều kiện cơ sở hạ tầng tốt.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37034.doc
Tài liệu liên quan