Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và nền kinh tế hùng mạnh của Ailen

Việc lôi kéo những hoạt động này khỏi tổng hành dinh của các tập đoàn không

phải là điều dễdàng. IDA tin rằng các công ty có xu hướng giữhoạt động nghiên cứu và

phát triển (R&D) gần nước nhà và Ailen không có danh tiếng quốc tếnhưlà một trung

tâm nghiên cứu. Hơn nữa, vịtrí ngoại vi của nước này tách biệt với các thịtrường lớn,

làm cho việc bán hàng và tiếp thịthêm phần khó khăn.

Mặc dù phải đương đầu với những thách thức nhưvậy, IDA đã thành công trong

việc thu hút khoảng 10% FDI của Hoa Kỳvào châu Âu trong năm 2003.Một khi động

lượng đã phát triển trong một ngành, “việc bán hàng đã qua kiểm chứng” sẽlàm cho việc

thuyết phục người chơi kếtiếp chuyển đến Ailen trởnên dễdàng hơn. Đến năm 2004, 13

trong số15 công ty dược phẩm lớn nhất, 16 trong số20 công ty thiết bịy tếhàng đầu và 7

trong số10 công ty thiết kếphần mềm đầu bảng đã có cơsởtại Ailen.

Cũng có một sốthành công được đánh giá cao trong ngành công nghệ. Chẳng bao

lâu trước khi cổphần hóa vào năm 2004, Google đã thiết lập trụsởchính ởchâu Âu tại

Dublin. Mặc dù chức năng phát triển sản phẩm nổi tiếng của công ty này vẫn đặt ởThung

lũng Silicon thì văn phòng tại Ailen đã đảm nhận phần việc bán hàng và các hoạt động

trên mạng tại các thịtrường EMEA.

pdf34 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1965 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và nền kinh tế hùng mạnh của Ailen, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực quan trọng ảnh hưởng đến nền kinh tế trong thập niên 1990… Tỷ phần của Ailen trong tổng dòng vốn đầu tư chảy vào Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã tăng mạnh trong thập niên 1990, đạt đến mức lớn hơn rất nhiều tỷ phần GDP của Ailen trong khối này. - OECD, Economic Survey (Điều tra Kinh tế), 1999. Cho đến những năm đầu thập niên 1990, sự thành công của khu vực nước ngoài là hiển nhiên và người ta ngày càng chấp nhận rộng rãi rằng sự gia tăng đáng kinh ngạc trong xuất khẩu của Ailen hầu như đến từ các công ty nước ngoài có định hướng xuất khẩu táo bạo. Mặt khác, một điều cũng rất rõ là xuất khẩu bản địa vẫn dậm chân tại chổ nếu xét về mặt giá trị thực (đã khử lạm phát) và rằng nền kinh tế nội địa nhìn chung là tụt hậu. Những nhà phê bình đổ lỗi cho chính sách xem FDI là chủ đạo dẫn dắt phải chịu trách nhiệm về sự thay đổi này và đưa ra nhiều số liệu thống kê để minh chứng cho sự buộc tội của mình. Đáng lưu ý nhất là có một tỷ lệ thất nghiệp cao mà biến thiên từ 14% đến 16% xuyên suốt những năm đầu của thập niên 1990.43 Một số khác thì khẳng định rằng đây là một thứ phẩm của hiện tượng “thất nghiệp-tăng trưởng” mà đi kèm cùng với Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen Laura Alfaro và cộng sự 11 Biên dịch: Hải Đăng chính sách xem FDI là chủ đạo. Họ cũng chỉ ra khoảng cách chênh lệch lớn giữa GDP và GNP,44 mà họ lập luận, chứng tỏ cho thấy các công ty nước ngoài đã xuất khẩu lợi nhuận. Như là bằng chứng thêm nữa về sự thiếu hụt các mối liên kết giữa các doanh nghiệp nội địa và nước ngoài, các nhà phê bình này chỉ ra rằng tỷ phần đầu tư trong thu nhập quốc dân Ailen đã giảm đáng kể trong những năm đầu thập niên 1990. Vì vậy, trong khi một mặt ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng FDI đã đóng một vai trò rất quan trọng trong sự tăng trưởng của Con Hổ Vùng Celtic thì người ta cũng ngày càng thừa nhận rằng khu vực nước ngoài có rất ít mối liên hệ với hoạt động kinh doanh của địa phương và rằng chính sách tập trung vào FDI đã mang lại ít thành tựu xét về mặt tạo ra một nền kinh tế nội địa mạnh mẽ. Để phản ứng lại sự chỉ trích ngày càng tăng lên này, chính phủ Ailen đã tách IDA thành hai thực thể vào năm 1994. IDA Ireland (IDA Ailen) tiếp tục chú trọng vào việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi Enterprise Ireland (Doanh nghiệp Ailen) tập trung nguồn lực của mình vào việc phát triển các ngành công nghiệp bản địa. Cả hai tổ chức này đều báo cáo lên Forfás, ủy ban cố vấn và chính sách quốc gia, một tổ chức trung ương mà thông qua đó quyền lực được ủy thác cho IDA Ailen và Doanh nghiệp Ailen. Vào năm 1998, Doanh nghiệp Ailen phát động Chương trình Liên kết Quốc gia (NLP).45 Trong chương trình này, các đại diện của NLP sẽ xác định các nhu cầu về hợp đồng gia công của công ty nước ngoài và tìm cho họ nhà cung ứng tiềm năng phù hợp. Tuy nhiên, khi điều trở nên ngày càng rõ ràng là những nhà cung ứng địa phương đơn giản là không thể đáp ứng các tiêu chuẩn nước ngoài thì trọng tâm của NLP chuyển sang vai trò xây dựng năng lực. Mặc cho những nổ lực tột bật của NLP thì các cuộc điều tra đánh giá chương trình này kết luận rằng chỉ đạt được một mức tối đa khoảng 20% việc mua nguyên liệu từ nội địa Ailen. Hơn nữa, các cuộc điều tra này cũng nói lên rằng khó có khả năng để mức trần này có thể bị phá vỡ, nếu xét đến sự bất lực của các nhà cung ứg nội địa trong việc sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ cho khu vực công nghệ tinh vi. Chương trình bị loại bỏ vào cuối thập niên này, qua đó ủng hộ lập luận của một số nhà quan sát, những người nghi ngờ về lợi ích dài hạn của sự tăng trưởng do FDI tạo ra. Như Sean Dorgan, Giám đốc Điều hành của IDA lưu ý, “Có lẽ trong quá khứ chúng ta đã tập trung quá công khai vào việc tạo ra các mối liên kết. Có một thái độ của chủ nghĩa bảo hộ về vấn đề này”. Các mối liên kết thì khó có thể đo lường được nhưng IDA đã sử dụng chúng như là biến đại diện cho chi tiêu trực tiếp của các công ty nước ngoài trong nền kinh tế.46 Cuộc tranh luận về vấn đề các mối liên kết, mà đã là trọng tâm của chính sách FDI tại Ailen, đặc biệt gây cấn bởi vì một số người tin rằng chỉ riêng các mối liên kết có thể thúc đẩy tăng trưởng việc làm và sự phát triển của nền công nghiệp cung ứng phụ nội địa. Nhưng một số nghiên cứu kết luận rằng các công ty nước ngoài có xu hướng có các mối liên kết thấp hơn là các doanh nghiệp nội địa và rằng có những khác biệt giữa các khu vực/ngành về mức độ các mối liên kết tạo ra.47 Các học giả phân tích sự tương tác giữa các công ty nước ngoài và nội địa xác nhận rằng, thật ra có ít “sự cạnh tranh sản phẩm-thị trường” giữa hai đối tượng này. Họ lập luận nguyên nhân đằng sau việc này nằm ở nước xuất xứ và cơ cấu khác biệt của các công ty nước ngoài và nội địa. Các công ty nước ngoài tập trung chủ yếu vào những thị trường xuất khẩu ngoài Anh quốc và 80% lượng hàng xuất khẩu của họ đến từ các ngành hóa chất và dược phẩm; các doanh nghiệp trong nước trái lại tiếp tục xuất khẩu phần lớn đến thị trường nước Anh, và chỉ có 10% hàng xuất khẩu của họ là đến từ các ngành hóa chất và dược phẩm.48 Trong khi câu hỏi về các mối liên kết tiếp tục được tranh luận trong Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen Laura Alfaro và cộng sự 12 Biên dịch: Hải Đăng các vòng chính sách của Ailen thì đến giữa thập niên 1990, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống dường như ủng hộ cho những người ủng hộ FDI. Vào năm 1998, số liệu thống kê cho thấy rằng các công ty thuộc sở hữu nước ngoài thuê muớn 47% lực lượng lao động công nghiệp (tạo ra 82% sản lượng công nghiệp) và khoảng 75% lượng FDI này đến từ Hoa Kỳ. Hơn nữa, dữ liệu cũng cho thấy các chi nhánh nước ngoài của Hoa Kỳ tạo ra 16,5% GDP của Ailen.49 Với dữ liệu việc làm mới như là một cách thức khác đo lường sự thành công, những người ủng hộ FDI tiếp tục nhấn mạnh đến tác động tích cực của các công ty nước ngoài đến nền kinh tế Ailen. Trong số nhiều lợi ích khác, những người ủng hộ chỉ ra rằng FDI đã mang lại nguồn thu thuế doanh nghiệp đáng kể và khoản thu thuế bổ sung từ thuế thu nhập cũng như các loại thuế gián thu khác.50 Họ cũng cho thấy rằng với qui mô nhỏ của nền kinh tế Ailen thì ngay cả việc một công ty đa quốc gia (MNC) đưa ra thị trường chỉ một sản phẩm mới duy nhất cũng sẽ có ảnh hưởng tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế; ví dụ khi Pfizer đưa ra thị trường dược phẩm Viagra sản xuất tại Ailen thì sản lượng các sản phẩm hóa chất hữu cơ của nước này tăng lên đến 70%.51 Dữ liệu kinh tế vĩ mô cũng ủng hộ cho những nhận định này. Từ năm 1995 đến 1999, các MNC trực tiếp chiếm đến 85% sự tăng trưởng kinh tế,52 mặc dù sự tăng trưởng này tập trung phần lớn vào ba ngành công nghiệp chế tạo chính – hóa chất, máy tính và cơ khí điện (xem Bảng 8 về dữ liệu sở hữu và sản lượng công nghiệp chế tạo). Hơn nữa, vào cuối thập niên 1990, Ailen đã thu hút tất cả các tên tuổi lớn trong ngành công nghệ thông tin: Gateway, Dell, AST, Apple, Hewlett Packard và Siemens Nixdorf về sản xuất máy tính; và Microsoft, Lotus và Oracle về phần mềm (xem Bảng 9 về số liệu thống kê trong ngành công nghiệp phần mềm). Chỉ riêng ba ngành này gộp lại đã chiếm đến 40% tăng trưởng GDP của Ailen trong suốt thập niên 1990 và 78% tăng trưởng công nghiệp vào năm 1998.53 Trong khi FDI gia tăng là chủ đề của thập niên 1990, sự suy thoái toàn cầu năm 2001 đã góp phần vào sự giảm sút mạnh luồng FDI vào Ailen. Sự tổn thất 13% công việc tại các công ty mà IDA hỗ trợ đi cùng xu hướng đi xuống này và sau đó đã làm dấy lên những mối quan ngại về tính dễ bị tổn thương của Ailen đối với các xung lực bên ngoài (xem Bảng 10 về việc làm tại các công ty mà IDA hỗ trợ và Bảng 11 về tiền lương tại Ailen). Trong khi nhiều nguời thấy sự phụ thuộc vào các công ty nước ngoài của Ailen là một mối đe doạ nghiêm trọng thì Dorgan quả quyết rằng đây là kết quả không thể tránh khỏi của sự toàn cầu hóa. Ông ta giải thích, “Nền kinh tế mở của chúng tôi làm giảm sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Sự cung ứng toàn cầu hiện nay là một thực tế.”54 Ailen chắc chắn đã nắm lấy thời cơ của toàn cầu hóa, khi đứng đầu trong Chỉ số Toàn cầu hóa của A.T. Kearney từ năm 2002 đến 2004. Dù vậy, những người khác bác lại lý do của Dorgan: Lập luận rằng sự toàn cầu hóa làm cho các công ty toàn cầu và địa phương là giống nhau về cơ bản là không đúng. Ví dụ, việc quản lý cấp cao của tập đoàn CRH55 được thực hiện tại Ailen, vì vậy các quyết định quan trọng là do những người sống và làm việc ở đây thực hiện. Con cái của họ đến trường tại Ailen và họ sẽ chiến đấu tích cực hơn để làm ra tiền ở đây. Sự kiện rằng CRH là một công ty cổ phần đại chúng với sở hữu đa số của nước ngoài là rất không phù hợp. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen Laura Alfaro và cộng sự 13 Biên dịch: Hải Đăng - Frank Kennedy, Sáng lập viên của Delta Partners và thành viên của ESG Khi sự phụ thuộc FDI và tính dễ bị tổn thương xuất hiện trong những bài tường thuật của cuộc tranh luận, một số nhà bình luận lo lắng rằng sự bùng nổ này hoàn toàn là môt thứ phẩm của sự tăng trưởng của Hoa Kỳ hơn là một hiện tượng tự lực và của địa phương. Theo họ, thành công của Ailen trong việc thu hút các công ty công nghệ cao của Hoa Kỳ vào đầu tư tại đất nước mình trong thập niên 1990 trùng hợp với thời kỳ đầu cơ thị trường dài nhất trong lịch sử Hoa Kỳ và những sự bùng nổ chưa từng có trong nhiều ngành công nghiệp mục tiêu của IDA. Ailen phải cõng trên lưng mình sự tăng trưởng này, mà dẫn đến những luận điệu cho rằng con Hổ vùng Celtic tự thân là một ảo tưởng - rằng sự tăng trưởng của Ailen chủ yếu được tạo ra từ sự cộng tác chặt chẽ với siêu quyền lực kinh tế Hoa Kỳ. Một nhà báo đã xót thương cho sự phụ thuộc quá nhiều của Ailen: Sự kiện rằng chúng ta quá phụ thuộc vào Hoa Kỳ là một sự thật quá rõ ràng. Chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào nền kinh tế Hoa Kỳ và sự phụ thuộc của chúng ta bị làm cho thêm phần tồi tệ bởi các mối liên kết. Nếu Dell rút khỏi Ailen thì các công ty nội địa phục vụ cho công ty này sẽ lâm vào tình cảnh túng quẫn. Nhiều công ty nội địa hoàn toàn phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài để hoạt động và tồn tại.56 Các nổ lực khác nhằm giải thích cho sự bùng nổ của Ailen tập trung vào lý thuyết bắt kịp - kết quả chắc chắn xảy ra của các chính sách kinh tế cẩn trọng sau hàng thập kỷ quản lý tồi. Tồi tệ hơn, một số người tuyên bố rằng sự bùng nổ này là sản phẩm ảo tưởng của việc chuyển giá mờ ám. Các mức thuế suất thuế doanh nghiệp thấp đã cám dỗ các công ty đa quốc gia thổi phồng mức lợi nhuận của các chi nhánh tại Ailen của mình. Điều này thường đạt được bằng cách ghi vào sổ sách các giao dịch nội bộ với mức giá chuyển giao mà phục vụ cho việc định vị tại Ailen một tỷ lệ phần trăm lớn trong lợi nhuận toàn cầu của công ty.57 Một số nhà quan sát tin rằng những thông lệ này đã phóng đại các con số về GDP của Ailen đến mức độ mà chúng hoàn toàn làm sai lệch thành quả kinh tế thực sự của nước này. Một số khác thì phản đối khi cho rằng các tốc độ tăng trưởng – trái với với các mức sản lượng tuyệt đối - vẫn không bị ảnh hưởng bởi các vấn đề về chuyển giá. Brian Cogan của Forfás phủ nhận quan điểm cho rằng sự bùng nổ này là bịa đặt: “Việc chuyển giá tự thân chỉ xuất hiện khi đồng tiền chảy vào và sau đó lại chảy ra. Nó không giải thích được tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống, các mức kỹ năng gia tăng của công nhân và các mức thu nhập cao hơn tại Ailen.”58 Mặc dù tác động của việc chuyển giá đến GDP của Ailen rất khó lượng hóa nhưng đáng để lưu ý rằng bốn ngành công nghiệp FDI thịnh vượng – cô đặc cola, phần mềm, dược phẩm, và máy tính - đặc biệt ở vị thế hưởng lợi từ việc chuyển giá.59 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen Laura Alfaro và cộng sự 14 Biên dịch: Hải Đăng Tương lai của nền Kinh tế Ailen “Kỷ nguyên Celtic, với tốc độ tăng trưởng hai con số đã thuộc về quá khứ. Khả năng cạnh tranh đã bị xói mòn…” - OECD Economic Outlook, tháng Mười Hai năm 2003 Khi thập niên mới ló dạng, một sự suy thoái toàn cầu, chủ yếu bị gây ra bởi cuộc khủng hoảng tại Hoa Kỳ, đã hãm lại đà tăng trưởng của nền kinh tế Ailen lần đầu tiên trong 11 năm. IDA công bố mức tổn thất việc làm kỷ lục tại các công ty thuộc sở hữu nước ngoài, khi số lượng nhân viên được thuê mướn trong ngành IT giảm 11% trong năm 2001 sau nhiều sự đóng cửa của các công ty danh tiếng như Motorola, Gateway và General Semiconductors.60 Ailen phải đối mặt với sự đe dọa cạnh tranh mới từ các nước tại Đông Âu, cũng như sức ép thường xuyên từ EU buộc Ailen phải tăng thuế suất thuế doanh nghiệp, mà đã tăng từ mức 10% lên 12,5% vào năm 20034 (xem Bảng 12 về so sánh các mức thuế suất thuế doanh nghiệp tại châu Âu và Bảng 13a và 13 b về so sánh dữ liệu kinh tế). Trong khi mức thuế suất này vẫn còn thuộc loại thấp nhất châu Âu thì nó làm dấy lên nỗi sợ hãi ám ánh về việc gia tăng thuế trong tương lai và đặt ra câu hỏi về khả năng duy trì của mức thuế suất thấp61, một luận điểm bị từ chối quyết liệt bởi một quan chức của Forfás, người lưu ý rằng, “Thuế có vai trò cực kỳ quan trọng, nhưng nó không đủ cho chính mình.”62 Trớ trêu thay, sự thành công trong kinh tế của Ailen trong thập niên 1990 đã làm xói mòn nhiều lợi thế cạnh tranh trước đây của nước này. Lạm phát cao hơn khá nhiều so với mức trung bình của EU, qua đó làm cho Ailen trờ thành quốc gia đắt đỏ thứ nhì trong khu vực đồng euro (sau Phần Lan) và tạo ra sự sử dụng rộng khắp thuật ngữ “Ailen đắt đỏ” của công chứng và phương tiện truyền thông đại chúng. Ailen đã trở thành một nơi làm kinh doanh đắt đỏ. Ngay cả việc nhập cư đáng kể cũng không thể ngăn ngừa sự thiếu hụt lao động, mà đến lượt mình tạo ra sự gia tăng tiền lương trong khu vực tư nhân và tạo áp lực lên các nghiệp đoàn buộc họ phải phản ứng. Những nỗi lo sợ ngày càng nhiều rằng sự cộng tác xã hội sẽ sụp đổ khi các nghiệp đoàn mưu cầu phần mình được hưởng trong sự thịnh vượng mới. Kieran McGowan giải thích nền tảng đã thay đổi như thế nào: “Trong thập niên 1980, mọi người có thể đồng ý về nhu cầu giảm tỷ lệ thất nghiệp. Bây giờ thì việc liệu dân chúng sẽ đặt sự thịnh vuợng của đất nước lên trên lợi ích cá nhân của mình hay không là điều không rõ ràng.”63 IDA đã nhanh chóng bắt đầu tái định vị đất nước, qua việc sử dụng mức thuế suất thấp, tiền lương, giáo dục và tư cách thành viên EU của Ailen như là những điểm sáng giá. IDA muốn “đưa Ailen vào số các nước đi đầu trong nền kinh tế toàn cầu… và [áp dụng một] tầm nhìn rộng hơn về những gì tạo ra FDI, với ít sự nhấn mạnh hơn đến số lượng việc làm và tập trung nhiều hơn vào chất lượng việc làm, các hoạt động giá trị gia tăng cao hơn, và làm cho Ailen trở thành một trung tâm của sự cách tân và sự quản lý chiến lược các chuỗi giá trị, hơn là việc đơn thuần chỉ là một nơi sản xuất hay dịch vụ cơ bản.”64 Mục tiêu là giảm sự phụ thuộc của Ailen vào sự sản xuất bằng cách nhắm tới mục tiêu về các phần còn chiếm tỷ lệ chưa tuơng xứng trong chuỗi giá trị ví dụ như nghiên cứu và phát triển, bán hàng, và tiếp thị. ESG vạch ra sự thách thức đáng kể phía trước: Theo các tiêu chuẩn toàn cầu, phần lớn khu vực sở hữu nước ngoài vẫn còn được định vị ở một điểm tương đối thấp trong chuỗi giá trị. Nghiên cứu và phát triển, tiếp thị hay các năng lực khác mà củng cố sức mạnh cạnh tranh của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen Laura Alfaro và cộng sự 15 Biên dịch: Hải Đăng các doanh nghiệp này không phải là những hoạt động được thực hiện phần lớn tại Ailen.65 Việc lôi kéo những hoạt động này khỏi tổng hành dinh của các tập đoàn không phải là điều dễ dàng. IDA tin rằng các công ty có xu hướng giữ hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) gần nước nhà và Ailen không có danh tiếng quốc tế như là một trung tâm nghiên cứu. Hơn nữa, vị trí ngoại vi của nước này tách biệt với các thị trường lớn, làm cho việc bán hàng và tiếp thị thêm phần khó khăn. Mặc dù phải đương đầu với những thách thức như vậy, IDA đã thành công trong việc thu hút khoảng 10% FDI của Hoa Kỳ vào châu Âu trong năm 2003.66 Một khi động lượng đã phát triển trong một ngành, “việc bán hàng đã qua kiểm chứng” sẽ làm cho việc thuyết phục người chơi kế tiếp chuyển đến Ailen trở nên dễ dàng hơn. Đến năm 2004, 13 trong số 15 công ty dược phẩm lớn nhất, 16 trong số 20 công ty thiết bị y tế hàng đầu và 7 trong số 10 công ty thiết kế phần mềm đầu bảng đã có cơ sở tại Ailen.67 Cũng có một số thành công được đánh giá cao trong ngành công nghệ. Chẳng bao lâu trước khi cổ phần hóa vào năm 2004, Google đã thiết lập trụ sở chính ở châu Âu tại Dublin. Mặc dù chức năng phát triển sản phẩm nổi tiếng của công ty này vẫn đặt ở Thung lũng Silicon thì văn phòng tại Ailen đã đảm nhận phần việc bán hàng và các hoạt động trên mạng tại các thị trường EMEA. Một nhà quản lý của Google giải thích sự chuyển đổi này: Có hai nhân tố quyết định: thuế thấp và một lực lượng lao động có thể nói được nhiều thứ tiếng. Ailen cung cấp một môi trường thuế rất ưu đãi, cũng giống như Thụy Sĩ và Hà Lan, và chúng tôi hết sức ấn tượng với số lượng ngôn ngữ sẵn có. Chúng tôi cũng có thể có được điều này tại Thụy Sĩ, nhưng với một chi phí lao động cao hơn nhiều. Chúng tôi không cảm thấy rằng mình có thể có được cùng con số ngôn ngữ như vậy ở Hà Lan. Hơn nữa, IDA đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều từ đầu đến cuối.68 Cũng trong cùng thời điểm này, Wyeth, công ty dược phẩm có doanh số 16 tỷ đô la Mỹ của Hoa Kỳ, tuyên bố các kế hoạch đầu tư 1,5 tỷ euro vào hoạt động R&D tại Ailen, một phần được hỗ trợ bởi sự giảm thuế mới cho các khoản đầu tư R&D mà chính phủ Ailen áp dụng trong năm 2004. Sự phát triển các cụm ngành69 và các mối liên kết vững mạnh hơn giữa các trường đại học và doanh nghiệp được xem như đóng vai trò cốt yếu trong việc tạo ra một môi trường R&D tốt đẹp và Quỹ Khoa học Ailen (SFI) được hình thành trong năm 2003 nhằm khuyến khích sự hợp tác giữa giáo dục, chính phủ, và ngành công nghiệp. SFI dự tính đầu tư 652 triệu đô la Mỹ trong giai đoạn 2000-2006 cho các nhà nghiên cứu hàn lâm và các nhóm nghiên cứu trong hai lĩnh vực: công nghệ sinh học và công nghệ thông tin và truyền thông.70 IDA có vai trò trung tâm trong những sự phát triển này, nhưng một số nhà bình luận nghi ngờ rằng liệu tổ chức này có tự vươn xa quá mức không. Lý do tồn tại của tổ chức này luôn luôn là tạo ra công ăn việc làm và thành công của họ vì vẩy có thể được đo lường dễ dàng. Tuy nhiên, trong một kỷ nguyên toàn dụng lao động thì trọng tâm đã chuyển từ số lượng sang chất lượng việc làm và việc đánh giá hiệu quả hoạt động của IDA ngày càng trở nên khó khăn hơn. Hơn nữa, EU kỳ vọng là sẽ áp đặt những giới hạn trong năm 2006 về sự trợ giúp của nhà nước cho các công ty, qua đó loại bỏ một công cụ mà IDA có thể tùy ý sử dụng. Còn gây khó khăn hơn nữa là sự gia nhập của 10 nước thành viên mới vào EU đe dọa vị thế của Ailen như là sự lựa chọn cho căn cứ xuất khẩu của châu Âu. Chi phí thấp và lao động dồi dào của các nước này tương phản hết sức rõ rệt Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen Laura Alfaro và cộng sự 16 Biên dịch: Hải Đăng với nước Ailen “mới”. Ngay cả lợi thế về ngôn ngữ của Ailen cũng bị trung hòa bởi sự thống trị của tiếng Anh trên toàn khu vực Đông Âu. Lợi thế về thuế của Ailen cũng bị đặt trong tầm ngắm, với sức ép từ Brussels nhằm hài hòa mức thuế doanh nghiệp trong toàn EU. Nhìn về phía trước Thành quả của Ailen kể từ năm 1987 là tuyệt vời nhưng sự tăng trưởng trong tương lai được kỳ vọng là sẽ khiêm tốn hơn. Một nhà kinh tế của IDA lưu ý: “Chúng ta ném ra bốn con át chủ bài cùng một lúc trong thập niên 1990 và điều này sẽ không lặp lại nữa – nhưng nó không cần phải xảy ra nữa.”71 Mặc dù người dân Ailen đã trở nên quen thuộc với sự thành công kinh tế, Sean Dorgan phủ nhận rằng sự tự mãn là không thể tránh khỏi: “Có lẽ tất cả các nước giàu có đểu trở nên béo phì và lười nhác. Nhưng tôi tin rằng chúng tôi vẫn còn đói bụng.”72 Việc xác định nguyên nhân của sự bùng nổ là rất quan trọng đối với việc duy trì sự bùng nổ đó và tương lai của Ailen tùy thuộc vào các bài học học hỏi được từ những năm là Con Hổ Vùng Celtic. Nếu sự tăng trưởng được tạo ra bởi FDI, như ESG tin là như vậy, thì có lẽ sự tập trung nên tiếp tục vào việc thu hút đầu tư tốt hơn từ nước ngoài. Nhưng điều gì xảy ra nếu FDI không phải là nguyên nhân chủ yếu? Liệu Ailen có quá phụ thuộc vào người nước ngoài? Liệu những nguồn lực khan hiếm có thể được dùng tốt hơn cho những cải cách giáo dục, cải thiện cơ sở hạ tầng hay khuyến khích các doanh nghiệp bản địa? Các nhà hoạch định chính sách có nhiều chọn lựa để tiến về phía trước. Bảng 1a. Dòng FDI vào Ailen phân theo hình thức đầu tư, 1975-2001 (triệu đô la Mỹ) Năm 1974 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2001 Đầu tư vào Vốn cổ phần n.a n.a n.a n.a n.a n.a 12127 5339 Lợi nhuận tái đầu tư n.a n.a n.a n.a 660 2006 10819 10432 Khác 51 158 286 164 -33 -560 -168 -5905 Tổng cộng 51 158 286 164 627 1446 22778 9866 Đầu tư ra Vốn cổ phần n.a n.a n.a n.a n.a n.a 3254 3765 Lợi nhuận tái đầu tư n.a n.a n.a n.a 365 820 1300 1973 Khác -571 -334 Tổng cộng 365 820 3983 5404 Nguồn: Lấy từ UNCTAD, cơ sở dữ liệu FDI. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen Laura Alfaro và cộng sự 17 Biên dịch: Hải Đăng Hình 1b. Ailen: Dòng vào đầu tư trực tiếp tính bằng triệu đô la Mỹ Nguồn: Lấy từ United Nations Conference on Trade and Development (Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên Hiệp Quốc), cơ sở dữ liệu FDI. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Bài đọc Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen Laura Alfaro và cộng sự 18 Biên dịch: Hải Đăng Hình 2. Ailen Nguồn: CIA World Factbook, trang web của CIA, . Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Niên khóa 2005 – 2006 Bài đọc Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen Laura Alfaro và cộng sự 19 Biên dịch: Hải Đăng Hiệu đính: Bảng 3. Tài khoản quốc gia và các dữ liệu kinh tế khác (tỷ đô la Mỹ) 1970 1975 1980 1985 1990 1995 2000 2001 2002 2003 GDP (tỷ đô la Mỹ) 20,8 26,5 33,1 37,5 47,2 59,3 94,8 100,6 107,6 111,6 Chi tiêu tiêu dùng cuối cùng của chính phủ 4,6 6,6 8,4 8,8 8,5 9,7 13,2 14,7 16,3 n.a Tích lũy tài sản cố định n.a 6,1 9,2 8,4 11,1 12,2 23,7 23,4 23,4 n.a Chi tiêu tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình 14,7 17,5 22,0 22,4 26,6 31,1 45,0 47,3 48,3 n.a Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ 5,0 6,4 10,1 14,9 22,8 41,6 92,3 99,9 106,1 n.a Nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ 7,2 8,3 13,6 15,9 22,3 35,7 79,9 85,1 87,1 .. Thay đổi trong hàng tồn kho n.a -2,0 -3,1 -1,2 0,4 0,4 0,5 0,4 0,6 n.a Chi tiêu tính theo % của GDP Chi tiêu tiêu dùng cuối cùng của chính phủ 21,9 25,1 25,5 23,4 18,0 16,4 13,9 14,6 15,1 n.a Chi tiêu tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, v.v 70,6 66,2 66,6 59,7 56,4 52,4 47,5 47,0 44,9 n.a Tích lũy tài sản cố định n.a 23,1 23,1 22,5 23,6 20,6 25,0 23,3 21,7 n.a Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ 23,9 24,3 24,3 39,8 48,4 70,2 97,4 99,3 98,6 n.a Nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ 34,8 31,4 31,4 42,4 47,2 60,2 84,4 84,6 81,0 n.a GDP bình quân đầu người 7.005,3 8.327,1 9.719,7 10.590,4 13.458,1 16.463,0 24.848,4 26.035,3 27.373,1 27.932,0 Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của GDP bình quân đầu người (%) 4,13 3.37 3,14 1,73 4,91 4,11 8,58 4,78 5,14 2,04 Các dữ liệu khác Chỉ số giá tiêu dùng (2000=100) 10,3 19,2 37,1 66,2 77,9 88,2 100,0 104,9 109,8 113,6 Tổng dân số (triệu người) 3,0 3,2 3,4 3,5 3,5 3,6 3,8 3,9 3,9 4,0 Tỷ lệ thất nghiệp (% tổng lực lượng lao động) n.a n.a n.a 16,7 13 12,2 4,3 3,7 4,2 n.a Nguồn: Lấy từ World Development Indicators (WDI) (Chỉ số Phát triển Thế giới), World Bank (Ngân hàng Thế giới) Lưu ý: Tất cả dữ liệu thô được lấy từ cơ sở dữ liệu WDI. Chi tiêu tính theo % của GDP cũng như Thay đổi trong hàng tồn kho được tính bằng tay. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Toàn cầu hóa Niên khóa 2005 – 2006 Bài đọc Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài (FDI) và nền Kinh tế Hùng mạnh của Ailen Laura Alfaro và cộng sự 20 Biên dịch: Hải Đăng Hiệu đính: Bảng 4. Tài chính chính phủ, tỷ bảng Ailen Năm 1980 1985 1990 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐầu tư trực tiếp nước ngoài (fdi) và nền kinh tế hùng mạnh của ailen.pdf
Tài liệu liên quan