Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại khu vực kinh tế động lực miền Bắc - Thực trạng và phương hướng phát triển

A- ĐẶT VẤN ĐỀ 1

B- NỘI DUNG 3

I-/ LÝ LUẬN CHUNG 3

1-/ Khái niệm 3

2-/ Ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài đến nền kinh tế của nước

tiếp nhận đầu tư 6

3-/ Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư

trực tiếp nước ngoài 9

II-/ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ Ở KHU VỰC KINH TẾ ĐỘNG LỰC

MIỀN BẮC 13

1-/ Vùng kinh tế động lực miền Bắc trong bối cảnh chung

của cả nước 13

2-/ Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế

động lực miền Bắc 14

2-/ Sự tác động trở lại đến kinh tế cả nước 20

3-/ Các yếu tố tác động đến đầu tư nước ngoài tại vùng

kinh tế động lực miền Bắc 20

III-/KINH NGHIỆM THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC

NGOÀI VÀO CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI (Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Trung Quốc) 30

1-/ Kinh nghiệm thu hút vốn FDI 31

2-/ Kinh nghiệm sử dụng vốn FDI 33

IV.1 NHỮNG GIẢI PHÁP CẤP BÁCH TRƯỚC MẮT NHẰM THU HÚT CÓ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 34

1-/ Tiếp tục hoàn thiện chiến lược thu hút đầu tư 34

2-/ Xây dựng và lựa chọn đối tác đầu tư 34

3-/ Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư nước ngoài 35

4-/ Tăng cường kết cấu hạ tầng hoàn thiện các chính sách

khuyến khích 35

5-/ Vấn đề bảo vệ môi trường 35

6-/ Về bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài và đội ngũ cán bộ

làm công tác đầu tư 35

7-/ Về hệ thống ngân hàng 36

IV.2 36

1-/ Giải pháp chính trị 36

3-/ Hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý

cho đầu tư nước ngoài 37

TÀI LIỆU THAM KHẢO 40

MỤC LỤC 41

 

doc42 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại khu vực kinh tế động lực miền Bắc - Thực trạng và phương hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao (8,8% năm 91 tăng lên 9,4% năm 1995 và 10,5% năm 1997). Ngoài ra, GDP bình quân đầu người đạt gần 500 USD gấp 2 lần mức trung bình cả nước. Thu nhập thuần tuý của dân cư đạt trên 300.000 đ/người/tháng, gấp 1,9 lần mức trung bình cả nước. Trên đây là những nét sơ lược về tình hình kinh tế và tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước nói chung và của khu vực kinh tế trọng điểm miền Bắc nói riêng. Với cách nhìn khái quát như vậy, ta có thể xem xét cụ thể hơn về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực phía Bắc trong những năm gần đây. 2-/ Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế động lực miền Bắc a-/ Quy mô và nhịp độ đầu tư Năm 1998, khi bắt đầu thực hiện luật đầu tư thì chỉ có 37 dự án với số vốn 366 triệu USD thì đến năm 1994 đã là 3.746 triệu USD, năm 1997 là 4.654 triệu USD, năm 1998 là 3.925 triệu USD, năm 1999 là 1.477 triệu USD. Nhìn vào các số liệu trên ta có thể thấy quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước tăng nhanh từ năm 1991 đến 1996, sau đó có giảm dần từ năm 1997 trở đi, tuy nhiên theo dự báo của các nhà kinh tế thì trong năm 2000 có thể tăng lên 3.000 triệu USD. Trên đây là các số liệu về quy mô đầu tư của cả nước. Để có thể thấy được thực tế quy mô đầu tư của vùng kinh tế động lực miền Bắc, ta sẽ xem xét chi tiết về ba đỉnh của tam giác kinh tế trong đó đi sâu vào phân tích số liệu của Hà Nội và Hải Phòng. Trước hết là tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội giai đoạn 1989 - 1998, số liệu thể hiện ở bảng sau: Năm Chỉ tiêu 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng Số dự án 4 8 13 26 43 62 59 45 50 46 356 Vốn đầu tư đăng ký (triệu USD) 78,17 295,088 126,352 301 856,912 989,781 1.058 2.641 913 673 7.902,303 Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư UBND thành phố Hà Nội Như vậy, tính đến hết năm 1998, Hà Nội đã có 356 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 8 tỷ USD. Riêng năm 1998, tuy được đánh giá là đầu tư nước ngoài có chững lại và giảm nhiều so với 1997, ngoài 46 dự án được cấp giấy phép mới, Hà Nội có 52 dự án điều chỉnh tăng vốn. Trong 6 tháng đầu năm 1999, Hà Nội đã tiếp nhận và cấp giấy phép cho 4 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn 240 triệu USD vốn đăng ký (đạt 80% so với cùng kì năm 1998). Còn tại Hải Phòng, kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đến hết tháng 12 năm 1998, Hải Phòng đã có 95 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép. Trong đó, 79 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 1.349 tỷ USD chiếm gần 50% tổng số vốn đầu tư của cả thành phố. Quảng Ninh tuy được coi là một đỉnh trong tam giác kinh tế song việc thực hiện thu hút vốn đầu tư còn đạt hiệu quả chưa cao. Do đó, trong những năm gần đây, quy mô và tốc độ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Quảng Ninh vẫn nhỏ và chậm, chưa có đột biến và bước tiến mới. Nhìn lại các số liệu và tình hình nêu trên, có thể thấy quy mô và nhịp độ vốn đầu tư tại Hà Nội và Hải Phòng tăng nhanh, trong giai đoạn khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực thì các con số này có giảm đi đôi chút song những năm 1999-2000 xu hướng là đầu tư nước ngoài sẽ có chiều hướng tăng trở lại. Riêng Quảng Ninh, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài còn nhiều hạn chế và chưa đạt được quy mô vốn ở mức khả quan. b-/ Cơ cấu đầu tư b1. Cơ cấu ngành Việc xem xét cơ cấu đầu tư theo tiêu thức ngành là rất cần thiết bởi nó phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nền kinh tế quốc dân. Tại Hà Nội, năm 1997 và 1998, cơ cấu vốn đầu tư từng bước chuyển dịch vào các lĩnh vực như: công nghiệp chiếm 23% trong hai năm, dịch vụ khách sạn, căn hộ, văn phòng cho thuê lần lượt chiếm 27% và 30%, giao thông bưu điện 11% năm 1997 tăng lên 38% năm 1998, phát triển đô thị, xây dựng hạ tầng kỹ thuật là 36% năm 1997. Số liệu cụ thể được thể hiện qua bảng sau: Tính đến 1997 Riêng năm 1998 Tổng vốn đăng kí (triệu USD) 7.286 100% 673 100% Trong đó: - Công nghiệp 1.674 23% 155 23% - Bất động sản 1.963 27% 202 30% - Giao thông vận tải 831 11% 257 38% - Đô thị hạ tầng 2.586 36% - Tài chính - ngân hàng 58 1% - Nông lâm nghiệp 17 0,2% - Các ngành khác 157 2% 59 9% Cơ cấu trên có ưu điểm là đã chú trọng vào việc phát triển cơ sở hạ tầng, phục vụ công nghiệp hoá. Tuy nhiên, với số lượng dịch vụ khách sạn, cho thuê căn hộ như hiện nay thì không cần nhận thêm đầu tư vào lĩnh vực này vì cung đã vượt quá cầu. Số lượng dự án công nghiệp được đầu tư nhiều trong giai đoạn 89-97 (142 dự án, chiếm 45%) song quy mô đầu tư không lớn, mức vốn bình quân cho mỗi dự án chỉ khoảng 3 triệu USD. Ngoài ra, tình hình đầu tư vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng nhìn chung còn thấp. Điều này cũng phần nào thể hiện sự kém hấp dẫn của lĩnh vực này. Tại Hải Phòng, vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu được tập trung vào ngành công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng, ít được tập trung vào du lịch và dịch vụ. Đây là điều không bình thường trong cơ cấu đầu tư nước ngoài, mặc dù nó có phần nào phản ánh tính chất đặc thù của Hải Phòng vốn là một thành phố công nghiệp truyền thống. Các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Phòng thường là các dự án công nghiệp về sản xuất xi măng, thuỷ tinh, thép,... Cơ cấu đầu tư của Hải Phòng như vậy còn bộc lộ nhiều hạn chế, vốn đầu tư chỉ tập trung vào các ngành công nghiệp truyền thống hoặc những ngành có nguồn nguyên liệu sẵn có, cơ cấu vốn đầu tư cho du lịch dịch vụ - ngành mà Hải Phòng có nhiều lợi thế còn thấp và đặc biệt không có dự án đầu tư trong nông nghiệp. Trong thời gian tới Hải Phòng tiếp tục kêu gọi đầu tư thêm vào các lĩnh vực sửa chữa tàu biển, du lịch,... nhằm tạo điều kiện để Hải Phòng có được một số sản phẩm mũi nhọn. b2. Cơ cấu lãnh thổ Xu hướng hiện nay là chuyển dịch đầu tư nước ngoài theo vùng. Nếu ở giai đoạn trước, cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ còn bị thiếu hợp lý thì hiện nay đã có sự điều chỉnh. ở giai đoạn 5 năm đầu 1988-1993, vốn đầu tư chỉ tậpt rung chủ yếu ở Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh với 81% số dự án và gần 90% số vốn. Hiện nay, vùng kinh tế trọng điểm này chỉ còn chiếm 74,7% số dự án và 75,7% số vốn đầu tư vào các tỉnh phía Bắc. Làn sóng đầu tư đã lan toả tới các tỉnh xung quanh Hà Nội như Hải Hưng, Hà Tây, Hà Bắc, Bắc Thái, Vĩnh Phúc, Ninh Bình và các tỉnh khu bốn cũ như Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh,... Cuối giai đoạn 88-93, trong 10 tỉnh và thành phố thu hút nhiều đầu tư của nước ngoài, miền Bắc chỉ có 2 thành phố Hà Nội và Hải Phòng thì đến nay đã có thêm hai tỉnh Hải Hưng và Thanh Hoá (thay thế vị trí Khánh Hoà và Tiền Giang). c-/ Hình thức đầu tư: Hiện nay các hình thức đầu tư đã thực hiện ở khu vực kinh tế động lực miền Bắc là: xí nghiệp đầu tư 100% vốn nước ngoài; doanh nghiệp liên doanh và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hình thức đầu tư tại địa bàn Hà Nội tính đến 1997 được thể hiện qua bảng sau: Loại hình Số dự án Vốn đầu tư (triệu USD) 100% vốn nước ngoài 66 550 Doanh nghiệp liên doanh 227 5.895 Hợp đồng hợp tác liên doanh 17 841 Có thể thấy, hình thức liên doanh chiếm tỷ trọng lớn trong các hình thức đầu tư nước ngoài tại Hà Nội, thể hiện sự linh hoạt của các doanh nghiệp trong nước huy động vốn của mình cùng tham gia đầu tư. Tuy nhiên, vốn đóng góp của bên Việt Nam thường là giá trị quyền sử dụng đất và chiếm tỷ trọng không cao trong tổng vốn đầu tư của một liên doanh. Tại Hải Phòng, phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới hình thức các doanh nghiệp liên doanh. Với sự hoạt động của gần 30 doanh nghiệp liên doanh nước ngoài hiện nay, các cụm công nghiệp lớn đã và đang được hình thành. Các cụm công nghiệp vừa sử dụng công nghiệp - kỹ thuật hiện đại, vừa sử dụng công nghệ - kỹ thuật trung bình để sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. d-/ Kết quả đầu tư d1. Tình hình thực hiện đầu tư Tình hình thực hiện đầu tư thể hiện tiến độ đưa vốn vào sử dụng. Đây là một vấn đề đáng quan tâm vì chỉ khi vốn được thực hiện thì mới phát huy tác dụng. Tại Hà Nội, tỉ lệ % vốn thực hiện trên vốn cam kết ngày càng tăng. Nếu năm 1959, tỉ lệ này là 1,45% (0,700/48,17) thì đến năm 1993 đã là 12,71% (108,933/856,912) và đến năm 1998 đạt tới mức 78,01% (525/673). Trung bình cả 10 năm là 37,37%. Tại Hải Phòng tỉ lệ vốn thực hiện cũng đạt 60% so với số vốn đăng ký. Với chỉ tiêu này, hiện Hải Phòng là địa phương có tỉ lệ vốn thực hiện cao nhất cả nước. Các con số trên có thể cho ta thấy tiến độ triển khai các dự án đầu tư ngày càng được nâng cao. Đây là một dấu hiệu tốt cho tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại khu vực phía Bắc. d2. Thành tựu do đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại Có thể xem xét sự tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở từng địa bàn như sau: Tại Hà Nội, ta thấy có những khía cạnh sau: - Về tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của Hà Nội trong giai đoạn 86-97 đạt 8,2%/năm trong khi toàn quốc chỉ đạt trung bình hơn 7%. Tăng trưởng GDP của Hà Nội đạt 11,5% nhưng nếu không có đầu tư nước ngoài thì chỉ đạt 5,7%. Điều này cho thấy vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tính đến cuối năm 1997, Hà Nội thu hút được khoảng 17.000 lao động tại khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã được đào tạo và tiếp cận với trình độ kỹ thuật và quản lý tiên tiến. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm thu nhập của doanh nghiệp và cá nhân tăng nhanh, mức đóng góp ngân sách cũng ngày một nhiều hơn. Tại Hải Phòng, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tác động làm cho: - Tính điến năm 98, các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo việc làm cho gần 10.000 lao động trong các doanh nghiệp, gần 8.000 lao động trong các đơn vị gia công và hàng vạn lao động phục vụ các ngành khác. - Doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 17% năm 1997 lên 22% năm 1998. Thu nhập của người lao động bình quân xấp xỉ 75 USD/người/tháng - cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp khác trong thành phố. Từ đó, thực hiện tốt nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước, góp phần thúc đẩy mức tăng trưởng GDP của Hải Phòng trong năm 1998 đạt 8%. - Ngoài ra, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn giúp Hải Phòng mở rộng thị trường xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu, thúc đẩy áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ và góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hải Phòng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. d3. Những hạn chế còn tồn tại Tại Hà Nội, ta thấy nổi lên những thiếu xót như sau: - Còn phân biệt công ty trong và ngoài nước (ví dụ như áp dụng phân biệt các mức cước phí điện, điện thoại,...) - Hiệu quả của các dự án đầu tư còn chưa cao. - Sức mua hàng hoá và dịch vụ giảm đáng kể nên không kích thích sản xuất và đầu tư. - Thủ tục đầu tư còn phức tạp. Từ đó làm cho đầu tư nước ngoài tại Hà Nội đã chững lại trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, trên địa bàn Hà Nội còn có rất nhiều dự án đầu tư đang thực hiện dỡ dang phải đình lại vì không có vốn để tiếp tục đầu tư. Tại Hải Phòng, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đang còn tồn tại những vấn đề sau: - Đã xuất hiện những bất hợp lý về cơ cấu đầu tư từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. - ở Hải Phòng đã có một số dự án không triển khai hoặc hầu như không thực sự triển khai, không thực hiện việc góp vốn theo quy định và có một số dự án bị rút giấy phép. - Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, sát sao và đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các cơ sở ngay từ khi chuẩn bị dự án đến khi tổ chức thực hiện dự án đã được cấp phép đầu tư. 2-/ Sự tác động trở lại đến kinh tế cả nước Như đã trình bày ở trên, kinh tế động lực miền Bắc phát triển đã góp phần vào kết quả chung của cả nước. Và có được kết quả này có sự đóng góp đáng kể của khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Không những có đóng góp chung vào các chỉ tiêu tổng hợp của cả nước mà nhờ có sự phát triển của tam giác kinh tế, đặc biệt là Hà Nội và Hải Phòng nên đã làm cho các khu vực lân cận phát triển theo. 3-/ Các yếu tố tác động đến đầu tư nước ngoài tại vùng kinh tế động lực miền Bắc a-/ Yếu tố ngoài vùng * Quốc tế: - Tình hình kinh tế thế giới: Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam á nên chúng ta không thể không nhắc đến cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. Cuộc khủng hoảng này đã tác động rất lớn đến luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) chu chuyển giữa các nước đặc biệt là các nước trong khu vực. Các quốc gia bị tác động nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính đã phải giảm mạnh vốn đầu tư vào Việt Nam. Tên nước Vốn đầu tư quí I/1997 Vốn đầu tư quí I/1998 Hàn Quốc 71 triệu USD 7,5 triệu USD Malaysia 17 triệu USD 3 triệu USD Thái Lan 252 triệu USD 0,55 triệu USD Nguồn: Tạp chí xây dựng 4/1998 Các nhà đầu tư khác từ Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Anh, Đức,... cũng giảm mức đầu tư vào Việt Nam (Nhật từ 120 triệu USD xuống còn 95 triệu USD; Đài Loan từ 35 triệu USD xuống 22 triệu USD,...). Cuộc khủng hoảng tài chính chưa kết thúc; ảnh hưởng của nó chắc còn lâu dài. Do vậy việc chờ mong các nước trong khu vực phục hồi lại tốc độ gia tăng đầu tư vào Việt Nam là chưa thể có được. FDI và Việt Nam những năm qua chủ yếu là từ Nhật Bản, các nước NICs Châu á và ASEAN. Năm 1997, từ cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán và sau đó là những biến động tài chính đã buộc Chính phủ Nhật Bản phải có những điều chỉnh nhất định chiến lược đầu tư ra nước ngoài, tập trung nguồn lực để giải quyết những vấn đề trong nước. Thêm vào đó, do sự giảm giá của đồng Yên so với đồng đô-la Mỹ đã làm cho các công ty Nhật Bản, nhất là các công ty vừa và nhỏ quan tâm nhiều hơn đến thị trường trong nước, hạn chế đầu tư ra nước ngoài. Đối với Hàn Quốc, nhà đầu tư lớn ra nước ngoài trong những năm trước đây và các nước ASEAN, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Châu á đã giáng một đòn mạnh vào các công ty và tập đoàn nước đó, vốn là những đối tác đầu tư tài chính hiện nay tại Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tiền tệ đã dẫn đến sự phá sản hàng loạt công ty, trước hết là các công ty vừa và nhỏ các nước này hoặc làm cho chúng rơi vào tình trạng hết sức khó khăn về tài chính, dẫn đến việc phải cắt giảm đầu tư ra nước ngoài và từ bỏ các dự án đã được cấp phép. Mức tăng trưởng GDP của hầu hết các nước ASEAN và Hàn Quốc đã giảm sút nghiêm trọng trong 1,2 năm gần đây. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến giảm khả năng tích luỹ từ GDP, nhất là từ khu vực tư nhân cho đầu tư tăng trưởng kinh tế trong nước và đầu tư ra nước ngoài. Vì vậy khả năng tăng FDI của các nước này vào Việt Nam trong những năm tới sẽ khó trở thành hiện thức. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở các nước Châu á là sự sai lầm trong chiến lược cơ cấu kinh tế của họ. Các nước này buộc phải có những điều chỉnh cơ cấu cần thiết, tập trung nguồn lực để giải quyết những vấn đề trong nước, hạn chế đầu tư ra nước ngoài. Cũng cần phải nhận thấy rằng sự sụt giá các đồng tiền Châu á đã làm tăng khả năng cạnh tranh và xét dưới góc độ nào đó là động lực mới cho sự tăng trưởng kinh tế các nước này. Chính sự giảm giá đồng tiền khu vực sẽ làm tăng khả năng xuất khẩ, nhất là xuất khẩu nguyên liệu, hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến. Mặt khác, do giá các yếu tố đầu vào của các ngành công nghiệp, giá sinh hoạt giảm sẽ kích thích sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ đặc biệt là du lịch, vốn là những ngành có vị trí quan trọng đối với quá trình tăng trưởng kinh tế các nước Đông Nam á. - Sự cạnh tranh trong thu hút FDI. Đầu tư nước ngoài vào khu vực Châu á - Thái Bình Dương, mà Việt Nam là một thành viên trong đó, đang phải chịu tác động của hai yếu tố cạnh tranh: cạnh tranh giữa các nước trong khu vực với nhau và cạnh tranh giữa các nước trong khu vực với các nước ngoài khu vực. + Cạnh tranh giữa các nước trong và ngoài khu vực. Trong thời gian gần đây, khu vực Châu á - Thái Bình Dương đã trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của các nước trên thế giới vì tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc - nếu không muốn nói là thần kỳ - của nó. Ngoài ra việc thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN AFTA (Asean Free Trade Area) sẽ làm ASEAN trở thành một thị trường hợp nhất khá lớn với dân số gần 500 triệu người, với sự phân công lao động chặt chẽ hơn, sẽ là địa bàn thu hút đầu tư của nhiều công ty đa quốc gia và tập đoàn kinh tế lớn từ Nhật Bản, Tây Âu, Mỹ và các nước NICs. Nhưng những biến cố quan trọng xảy ra liên tiếp ở khu vực này đã làm sức cạnh tranh của nó giảm đi ít nhiều. Trong khi đó, các khu vực khác lại không ngừng phát triển nhằm thu hút vốn đầu tư mà Châu á - Thái Bình Dương đã bỏ lỡ: ã Khu vực Mỹ La tinh. Trước những năm 80, lượng vốn FDI đổ vào khu vực này khá lớn, nhưng chưa thực sự tạo ra hiệu quả trong sản xuất, và cũng chưa tạo ra được sự biến đổi về chất trong cơ cấu kinh tế. Nhưng với sự hình thành khu vực tự do buôn bán Bắc Mỹ NAFTA (North America Free Trade Area), mà tương lai sẽ mở rộngt hành khu vực mậu dịch tự do toàn châu Mỹ thì Mỹ La tinh sẽ có nhiều cơ hội mới để phát triển thành một trong những khu vực năng động của thế giới. Thời gian gần đây, bên cạnh các nhà đầu tư truyền thống của khu vực là Mỹ, Anh, Pháp, Nhật thì các nhà đầu tư từ NICs và Trung Quốc cũng đang tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư và buôn bán vào khu vực này. ã Khu vực Trung và Đông Âu. Từ cuối thập kỷ 80 trở về trước, các nước thuộc khu vực này hầu hết là các nước XHCN, đầu tư nước ngoài được thực hiện trong khu vực chủ yếu thông qua các hiệp định tương trợ. Trong năm 1980 các nước thuộc Trung và Đông Âu (kể cả khu vực Trung á thuộc Liên Xô cũ) chỉ tiếp nhận được 0,7 tỷ USD. Nhưng sau chính biến 1989-1990, đầu tư nước ngoài vào khu vực này đã tăng lên nhanh chóng và góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội ở các nước này. Tổng vốn FDI vào các nước Trung và Đông Âu Đơn vị: triệu USD Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Vốn ĐT 250 623 2.500 3.800 4.600 4.800 10.000 Nguồn: World economic and social survey, 1996, trang 123 Các chủ đầu tư vào khu vực này là Đức, áo, Pháp, Italia, Mỹ, Nhật Bản và NICs Châu á. Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng lượng vốn FDI vào Trung và Đông Âu là do: quá trình tư nhân hoá diễn ra mạnh mẽ trong khu vực; một thị trường mới đang khao khát tiêu dùng những hàng hoá có chất lượng; giá nhân công rẻ và được đào tạo tương đối tốt; giá cung cấp nguyên nhiên vật liệu tương đối thấp kết cấu hạ tầng khá hoàn thiện. ã Khu vực châu Phi. Trong khi lượng vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển tăng lên gấp 4 lần từ 1990-1995, thì lượng vốn đầu tư mà các nước châu Phi tiếp nhận được không tăng lên là bao. Tuy nhiên, bức tranh kinh tế châu Phi không hoàn toàn xám xịt. Sự kiện 12 quốc gia thành viên cộng đồng phát triển Nam Phi dẹp bỏ bất đồng, cùng nhau ký Nghị định thư thiết lập khu vực mậu dịch tự do và cắt giảm thuế trong vòng 7 năm, đang tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động đầu tư trong khu vực. + Cạnh tranh giữa các nước trong khu vực. Với tư cách nước nhận đầu tư, các nước ASEAN, Trung Quốc và Việt Nam là những đối thủ cạnh tranh. Do có lợi thế so sánh gần giống nhau nên trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, các nước này có xu hướng bố trí cơ cấu kinh tế giống nhau với đặc trưng chủ yếu là các ngành có hàm lượng lao động sống và nguyên liệu cao như khai thác tài nguyên thiên nhiên, công nghiệp hàng tiêu dùng, lắp ráp điện tử, chế biến nông, lâm, hải sản,... nên tính chất cạnh tranh trong thu hút đầu tư giữa các nước này là rất lớn, khả năng hấp dẫn đầu tư của các thành viên cộng đồng hoàn toàn tuỳ thuộc vào chính sách và môi trường đầu tư của từng nước. Xét trong phạm vi các nước ASEAN, Việt Nam cũng gặp phải sự cạnh tranh gay gắt trong thời gian sắp tới. Việc gia nhập AFTA buộc Việt Nam phải sớm thực hiện lộ trình cắt giảm thuế đối với hàng ngoại nhập từ các nước ASEAN xuống dưới 5%. Thực tế Việt Nam đã bắt đầu thực hiện giai đoạn một của quá trình này, để đến năm 2006 có thể tham gia với tư cách thành viên đầy đủ của AFTA. Điều này có nghĩa là Việt Nam phải dỡ bở hàng rào thuế đối với hàng hoá nhập từ các nước ASEAN. Yêu cầu đó đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào một môi trường cạnh tranh quốc tế, trước hết và trực tiếp nhất là doanh nghiệp các nước ASEAN trong những ngành và lĩnh vực mà họ đã và đang hoạt động hết sức hiệu quả. Con đường ngắn nhất và trực tiếp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế là nhanh chóng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý, sắp xếp, tổ chức lại sản xuất trên cơ sở hợp tác với các công ty nước ngoài. Muốn vậy, phải tạo môi trường tốt, có tính cạnh tranh cao để các công ty đa quốc gia chọn Việt Nam làm địa bàn đầu tư, đặt cứ điểm cho các cơ sở sản xuất công nghiệp của họ, đồng thời mở rộng hợp tác với tất cả các nước, kể cả với các nước ASEAN trong những lĩnh vực mà Việt Nam còn có thể phát huy được lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế khu vực và giữa nội lực các nước trong khu vực. Các nước ASEAN do có nhiều mặt tương đồng, cho nên chủng loại hàng hoá xuất khẩu thường giống nhau. Việt Nam sẽ chịu thiệt thòi hơn nhiều so với các nước ASEAN khác để có kinh nghiệm buôn bán trên các thị trường thế giới. Xuất khẩu gạo, hàng may mặc, sản phẩm dệt là một thí dụ cho thấy Việt Nam luôn chịu thua thiệt hơn trên thị trường thế giới. Do vậy, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam như thế nào là tuỳ thuộc vào các chính sách của Việt Nam. Có những chính sách thích hợp với xu thế phát triển của thời đại, Việt Nam sẽ tranh thủ được nhiều thời cơ thuận lợi, mau chóng hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. - Xu hướng của các nhà đầu tư. + Về địa điểm đầu tư. Mặc dù tổng lượng vốn FDI trên toàn thế giới là rất lớn, nhưng phần lớn là đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển. Tỷ trọng đầu tư vào các nước đang phát triển trong tổng FDI của toàn thế giới chỉ chiếm 17% trong năm 1990 và có thể còn giảm xuống trong các năm tới. Do đó cuộc cạnh tranh để thu hút FDI giữa các nước đang phát triển còn tiếp tục gia tăng. Trong số các nước đang phát triển, đầu tư nước ngoài chỉ tập tủng vào một số nước. Trong danh sách 10 nước và lãnh thổ trong khối các nước đang phát triển dẫn đầu về thu hút FDI trong thập kỷ 80 có tới 6 nước và lãnh thổ thuộc khu vực Châu á - Thái Bình Dương, trong đó có Trung Quốc và Thái Lan. Điều này cho thấy rằng, cùng với sự phát triển năng động, Châu á - Thái Bình Dương đang trở thành địa bàn đầu tư ngày càng được quan tâm. Trong thời kỳ 1986-1990, trung bình hàng năm lượng vốn ĐTTTNN chảy vào các nước ở Đông và Đông Nam á là 14 tỷ USD, chiếm 54% trong tổng số vốn FDI vào tất cả các nước đang phát triển (Nguồn: World Investment Report, United Nations, New York 1992, trang 23). Các nền kinh tế năng động và đầy tiềm năng ở khu vực này quả thực đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đầu tư nước ngoài. Sẽ chỉ có điều này là do mức tăng trưởng cao và ổn định cùng với những cải cách kinh tế tài chính của các nước Đông á và Đông Nam á, sự chuyển đổi cơ chế kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam; đồng Yên tăng giá đã kích thích tư bản Nhật Bản đầu tư ra nước ngoài nhiều hơn mà Châu á lại vốn là thị trường quen thuộc của Nhật Bản; hình thành và phát triển nhiều hình thức thu hút FDI như các KCX và đặc khu kinh tế. Nằm trong một khu vực đang phát triển năng động, nếu có cách đi phù hợp, Việt Nam có những cơ hội để thu hút FDI như Trung Quốc và Thái Lan đã làm. + Về cơ cấu đầu tư. Hiện nay, một cơ cấu kinh tế được coi là hiện đại là cơ cấu kinh tế trong đó các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm một tỷ lệ lớn. Đây là xu hướng có tính phổ biến trên thế giới và xu hướng này đã chi phối toàn bộ hoạt động đầu tư, trong đó đáng kể là hoạt động ĐTTTNN. Vào giữa thập kỷ 80, số vốn FDI vào ngành dịch vụ chiếm tới 50% tổng số vốn FDI trên toàn thế giới. Các công ty xuyên quốc gia công nghiệp nắm gần một nửa FDI ra nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ ở các nước đang phát triển. Hiện nay có nhiều công ty lớn và nổi tiếng thế giới, không còn sản xuất kinh doanh ở một ngành truyền thống nữa mà có xu hướng đầu tư kinh doanh đa ngành và mở rộng hoạt động sang lĩnh vực dịch vụ. Ví dụ: hãng Mercedes - Benz của CHLB Đức vốn nổi tiếng về các loại xe con, xe buýt và xe tải nặng, nhưng đã từ nhiều năm nay, hãng cũng hoạt động mạnh trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng và là một đối thủ kinh doanh khá “nặng cân” trên thị trường tài chính quốc tế. Hoặc như công ty ITT là một công ty xuyên quốc gia đứng đầu ngành thông tin liên lạc, nhưng lại kiểm soát phần lớn khách sạn nổi tiếng trên thế giới. Trong thời gian gần đây, FDI tập trung nhiều vào 2 ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ là do một số nguyên nhân sau đây: cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất ngày một nâng cao, nhờ vậy mà nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh tăng lên mạnh mẽ, nhất là dịch vụ kỹ thuật, tài chính, du lịch, đòi hỏi ngành điện phải được phát triển tương ứng. Ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều phân ngành, mà những phân ngành đó thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, như đầu tư, thông tin liên lạc, vật liệu mới,... Do đặc tính kỹ thuật của hai ngàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0007.doc
Tài liệu liên quan