Đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam

 

Lời mở đầu 1

Chương1: Cơ sở lí luận về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. 3

1.1. Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt 3

1.2. quá trình phát triển các hình thức thanh toán qua ngân hàng 4

1.3. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường 6

1.4. Các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt 7

1.4.1. Thể thức thanh toán bằng séc: 7

1.4.2. Thể thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi: 10

1.4.3. Thể thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu: 11

1.4.4. Thể thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C): 12

1.4.5. Thanh toán bằng thẻ thanh toán: 14

1.5. Các phương thức thanh toán qua Ngân hàng 16

1.5.1. Thanh toán liên hàng: 16

1.5.2. Thanh toán bù trừ giữa các Ngân hàng: 16

1.5.3. Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước: 19

1.5.4. Thanh toán điện tử liên Ngân hàng: 20

1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh toán không dùng tiền mặt 20

1.6.1. Yếu tố luật pháp: 20

1.6.2. Yếu tố kinh tế: 21

1.6.3. Yếu tố khoa học- công nghệ: 22

1.6.4. Yếu tố con người: 22

Chương 2: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở việt nam 25

2.1. Thực trạng 25

2.2. Nguyên nhân 28

2.3. Một số giải pháp cơ bản 29

2.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý: 29

2.3.2. Cải tiến quy trình công nghệ: 30

2.3.3. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ: 31

2.3.4. Giải pháp Marketing: 33

2.3.5. Các giải pháp khác: 33

Kết luận 35

Danh mục tài liệu tham khảo 36

 

 

 

 

doc37 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trả tiền trong L/C hoàn toàn dựa trên các chứng từ mà không đi vào thực tế hàng hoá, nên người nhập khẩu có thể gặp rủi ro nếu ngưòi xuất khẩu có hành vi lừa đảo trong việc giao hàng. Bên cạnh đó, do quy trình thanh toán phức tạp nên Ngân hàng phải thu phí cao hơn so với các hình thức khác nên chi phí của người nhập khẩu sẽ tăng. - Đối với người xuất khẩu: Các chứng từ thương mại có ý nghĩa rất quan trọng trong thanh toán L/C, chúng là cơ sở cho thanh toán nên chỉ một chút sơ suất nhỏ trong việc lập chứng từ thì người xuất khẩu có thể bị Ngân hàng từ chối thanh toán. 1.4.5. Thanh toán bằng thẻ thanh toán: Thẻ thanh toán là phương thức thanh toán hiện đại do Ngân hàng phát hành theo yêu cầu cả khách hàng dùng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động. Theo quyết định số 22- QĐ/ NH1 ngày 21-02-1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, hiện nay Việt Nam có ba loại thẻ thanh toán: thẻ ghi nợ, thẻ ký quỹ, thẻ tín dụng. Sơ đồ 9: Quy trình thanh toán bằng thẻ thanh toán Ngân hàng phát hành Ngân hàng đại lý Người sử dụng thẻ Cơ sở tiếp nhận thẻ (6) (7) ATM (1a) (1b) (8) (5) (4) (3) (3) (2) (1a) Các đơn vị, cá nhân đến Ngân hàng phát hành xin được sử dụng thẻ (ký quỹ hoặc vay) (1b) Ngân hàng phát hành cung cấp thẻ cho người sử dụng và thông báo co Ngân hàng đại lý và cơ sở tiếp nhận thanh toán thẻ (2) Người sử dụng thẻ mua hàng hóa, dịch vụ và giao thẻ cho cơ sở tiếp nhận (3) Rút tiền ATM hoặc ở Ngân hàng đại lý (4) Trong vòng 10 ngày, cơ sở tiếp nhận nộp biên lai vào Ngân hàng đại lý để đòi tiền (5) Trong vòng 1 ngày Ngân hàng đại lý trả tiền cho cơ sở tiếp nhận (6) Ngân hàng đại lý chuyển biên lai để thanh toán, lập bảng kê cho Ngân hàng phát hành (7) Ngân hàng phát hành thẻ hoàn lại số tiền mà Ngân hàng đại lý đã thanh toán (8) Người sử dụng thẻ muốn sử dụng thẻ nữa hoặc không sử dụng hết số tiền trên thẻ thì Ngân hàng phát hành hoàn tất quá trình sử dụng thẻ. Trong phạm vi 10 ngày làm việc kể từ ngày viết hóa đơn cung ứng hàng hóa, dịch vụ, người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ phải nộp biên lai vào Ngân hàng đại lý, quá thời hạn Ngân hàng không nhận thanh toán. Trong phạm vi một ngày làm việc kể từ khi nhận được biên lai thanh toán hợp lệ Ngân hàng đại lý phải thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ số tiền ghi trong các biên lai. * Ưu, nhược điểm của thẻ thanh toán: + Ưu điểm: Thẻ thanh toán là loại thẻ được sử dụng công nghệ tiên tiến nhất cho đến lúc này, giúp người có thẻ không phải mang theo nhiều tiền bên mình. Thủ tục cấp thẻ rất đơn giản, dễ dàng và nhanh chóng, có rất nhiều loại thẻ khác nhau cho khách hàng lựa chọn. Hiện nay, một số Ngân hàng cung cấp các dịch vụ kèm theo như bảo hiểm, dự thưởng... + Nhược điểm: Bên cạnh ưu điểm trên thì thẻ thanh toán có nhược điểm thể hiện ở hai khía cạnh sau: - Về phía Ngân hàng: khi cung cấp dịch vụ thanh toán bằng thẻ đòi hỏi Ngân hàng phải sử dụng công nghệ cao (tức sử dụng một số thiết bị hỗ trợ vói trình độ thanh toán cao) - Về phía khách hàng: Khi sử dụng dịch vụ này thì khách hàng cũng phải có trình độ hiểu biết nhất định về tiện ích mà nó mang lại. Mặt khác, khi sử dụng dịch vụ này thì các khách hàng cũng phải tốn thêm khoản phí như phí thường niên, phí đổi pin,.... 1.5. Các phương thức thanh toán qua Ngân hàng 1.5.1. Thanh toán liên hàng: Thanh toán liên hàng là phương thức thanh toán vốn giữa các chi nhánh Ngân hàng trong cùng một hệ thống Thực chất của thanh toán liên hàng là việc chuyển tiền từ Ngân hàng này đến Ngân hàng khác để phục vụ thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ của hai khách hàng (mua và bán) khi cả hai đó không cùng mở tài khoản ở một Ngân hàng, hoặc là chuyển cấp vốn, điều hòa vốn trong nội bộ một hệ thống Ngân hàng. Hiện nay, ở Việt Nam có các hệ thống thanh toán liên hàng sau: Hệ thống thanh toán liên hàng của Ngân hàng Nhà nước Các hệ thống thanh toán liên hàng của 4 Ngân hàng thương mại Nhà nước Các hệ thống thanh toán liên hàng của các Ngân hàng thương mại cổ phần Các hệ thống thanh toán liên hàng của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài Hệ thống thanh toán của Kho bạc Nhà nước Tùy theo đặc điểm của từng hệ thống Ngân hàng để tiến hành tổ chức hệ thống thanh toán liên hàng một cách thích hợp. Một số hệ thống Ngân hàng, bên cạnh hệ thống thanh toán liên hàng toàn hệ thống còn thiết lập thêm hệ thống thanh toán liên hàng nội tỉnh để phục vụ cho việc thanh toán giữa các chi nhánh Ngân hàng trong cùng tỉnh, một thành phố và thực hiện kiểm soát, đối chiếu liên hàng nội tỉnh theo sự ủy quyền của cấp Trung Ương. Trong thời đại công nghệ thông tin đang phát triển và được áp dụng rộng rãi trong hoạt động Ngân hàng, các Ngân hàng Việt Nam đang chuyển dần từ thanh toán liên hàng truyền thống sang thanh toán liên hàng điện tử nhằm xây dựng hệ thống thanh toán hiện đại đảm bảo tính chính xác, kịp thời, an toàn và quản lý chặt chẽ vốn trong thanh toán. 1.5.2. Thanh toán bù trừ giữa các Ngân hàng: Thanh toán bù trừ giữa các Ngân hàng là phương thức thanh toán vốn giữa các Ngân hàng được thực hiện bằng cách bù trừ tổng số phải thu, phải trả để thanh toán số chênh lệch (kết quả bù trừ). Tùy thuộc vào phương pháp trao đổi chứng từ, chuyển số liệu mà có thể phân thanh toán bù trừ thành: bù trừ bằng giấy và bù trừ điện tử: + Thanh toán bù trừ bằng giấy: Ngân hàng chủ trì thanh toán bù trừ mở tài khoản chi tiết để hạch toán kết quả thanh toán bù trừ của các thành viên tham gia thanh toán bù trừ. - Nợ: số tiền chênh lệch của các Ngân hàng thành viên phải thu trong thanh toán bù trừ. - Có: số tiền chênh lệch của các Ngân hàng thành viên phải trả trong thanh toán bù trừ. Các Ngân hàng thành viên tham gia thanh toán bù trừ có trách nhiệm xử lý tất cả các chứng từ có liên quan đến thanh toán bù trừ với các Ngân hàng khác và phải chịu trách nhiệm về các số liệu trên các bảng kê chứng từ, bảng thanh toán bù trừ và các chứng từ kèm theo. Nếu chứng từ sai sót nhầm lẫn phải cùng thống nhất xử lý và báo ngay cho Ngân hàng Nhà nước chủ trì thanh toán bù trừ để cùng thống nhất số liệu thanh toán. Khi giao dịch thanh toán bù trừ: Các thành viên tham gia thanh toán bù trừ phải tổ chức giao nhận trực tiếp chứng từ khác nhau hoặc trực tiếp truyền thông tin cho nhau, tất cả phải được đối chiếu khớp đúng giữa chứng từ và bảng kê, sau đó các thành viên tham gia thanh toán nộp bảng kê cho Ngân hàng chủ trì thanh toán. + Thanh toán bù trừ điện tử: Hệ thống thanh toán bù trừ được thực hiện theo quyết định số 1557/ 2001/ QĐ- NHNN ngày 14-12-2001, quyết định số 212/ 2002/ QĐ- NHNN ngày 20-03-2002 và quyết định số 309/ 2002/ QĐ- NHNN là quá trình thanh toán bù trừ điện tử liên Ngân hàng giữa các tổ chức tham gia thanh toán bù trừ do Ngân hàng Nhà nước chủ trì. * Quyết toán thanh toán bù trừ điện tử: Đây là công việc xử lý thanh toán bù trừ điện tử lần cuối trong ngày giao dịch sau khi Ngân hàng Nhà nước đối chiếu chính xác toàn bộ doanh số thanh toán trong ngày với các thành viên tham gia thanh toán. Ngân hàng chủ trì và các thành viên tham gia thanh toán bù trừ điện tử phải xử lý tất cả khoản sai lầm chênh lệch số liệu trước khi quyết toán. Nếu các khoản sai sót chưa được xử lý xong trước khi quyết toán thì Ngân hàng Nhà nước có thể lùi thời gian quyêt toán ngày giao dịch sang ngày tiếp theo nhưng số liệu vẫn phản ánh ngày phát sinh giao dịch tại thời điểm quyết toán bù trừ. Ngân hàng Nhà nước xử lý bù trừ điều chỉnh đối với những lệnh thanh toán của Ngân hàng thành viên đã bổ sung đủ nguồn vốn bù đắp khoản thiếu trong thanh toán bù trừ, trả lại hoặc hủy lệnh thanh toán vượt quá khả năng chi trả của Ngân hàng thành viên đồng thời gửi kết quả quyết toán bù trừ cho các thành viên tham gia trực tiếp. Trường hợp sai sót sau khi đã thực hiện thanh toán bù trừ thì Ngân hàng Nhà nước phải thông báo cho Ngân hàng nhận lệnh để ngừng việc thanh toán. Đồng thời thông báo cho Ngân hàng gửi biết để lập lệnh hủy và điều chỉnh vào phiên thanh toán bù trừ tiếp theo. * Nguyên tắc trong thanh toán bù trừ: - Ngân hàng chủ trì thực hiện xử lý bù trừ các lệnh thanh toán và thanh toán số chênh lệch phải trả- kết quả thanh toán bù trừ phải trả của Ngân hàng thành viên trong phạm vi khả năng chi trả thực tế của Ngân hàng thành viên tại Ngân hàng chủ trì. - Trong trường hợp tài khoản tiền gửi của Ngân hàng thành viên bị thiếu khả năng chi trả so với kết quả thanh toán bù trừ khi thực hiện xử lý bù trừ trong phiên thanh toán bù trừ điện tử và khi quyết toàn thanh toán bù trừ điện tử trong ngày thì tiến hành xử lý: -Nếu tại thời điểm thực hiện thanh toán bù trừ mà một Ngân hàng thành viên không đủ khả năng chi trả để thanh toán cho các khoản phải trả khi xử lý kết quả thanh toán bù trừ thì Ngân hàng chủ trì xử lý như sau: • Theo nguyên tắc thanh toán trong phạm vi khả năng chi trả thực tế, Ngân hàng chủ trì sẽ không xử lý bù trừ (loại bỏ) một số lệnh thanh toán. Việc loại bỏ lệnh xếp theo thứ tự ưu tiên từ thấp đến cao. • Các lệnh thanh toán không được xử lý bù trừ trong phiên thanh toán sẽ được Ngân hàng chủ trì để lưu lại xử lý bù trừ vào phiên thanh toán bù trừ điện tử tiếp theo trong ngày (nếu có), đồng thời thông báo các lệnh thanh toán không được xử lý bù trừ cho Ngân hàng thành viên bị thiếu khả năng chi trả biết. - Thời gian hoàn thành quyết toán bù trừ điện tử của ngày làm việc 15h30. Ngân hàng chủ trì chỉ nhận lệnh thanh toán của các Ngân hàng thành viên đến 15h, từ 15h đến 15h30 Ngân hàng chủ trì sẽ đối chiếu kết quả thanh toán bù trừ trong ngày và điều chỉnh sai sót. - Trật tự ưu tiên xử lý các lệnh thanh toán áp dụng trong phiên thanh toán bù trừ điện tử được sắp xếp theo trật tự thời gian lập lệnh thanh toán. * Điều kiện tham gia thanh toán bù trừ: - Phải có văn bản đề nghị cho tham gia thanh toán bù trừ được Ngân hàng chủ trì thanh toán bù trừ đồng ý. - Các thành viên tham gia thanh toán bù trừ phải có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng chủ trì và phải duy trì số dư đảm bảo khả năng thanh toán, tuân thủ và thực hiện đúng quy trình kế toán và hạch toán tại trung. - Có văn bản giới thiệu cán bộ chịu trách nhiệm giao nhận chứng từ và làm thủ tục thanh toán bù trừ. - Phải đăng ký mẫu chữ ký của cán bộ đó với các Ngân hàng thành viên tham gia thanh toán bù trừ và Ngân hàng chủ trì. 1.5.3. Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước: Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước về các lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- thanh toán- ngoại hối và nhằm mục đích điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, đảm bảo cho lưu thông tiền tệ là lưu thông hàng hóa được nhanh chóng, chính xác và thông suốt.... Do vậy, Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm ban hành các hình thức thanh toán, các chế độ quy trình kế toán, hạch toán cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng áp dụng. Ngân hàng Nhà nước cũng chính là người tổ chức và duy trì thanh toán cho các tổ chức tín dụng khi họ có các khoản thanh toán lẫn nhau. Trên cơ sở các chuẩn mực thanh toán được ban hành, Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc giám sát quy trình thanh toán cũng như chấp hành các quy định, chế độ... để nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh toán trong nền kinh tế đồng thời ngăn ngừa những vi phạm trong quá trình thanh toán nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà nước phát hiện những điều chưa phù hợp trong các quy định về chuẩn mực thanh toán để tiến hành chỉnh sửa và hoàn thiện chúng. Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước được áp dụng trong thanh toán qua lại giữa hai Ngân hàng hoặc đơn vị Ngân hàng khác hệ thống đều có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước (cùng hoặc khác chi nhánh, Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước). Để các Ngân hàng thực hiện thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, trên cơ sở chứng từ giấy, cần có các điều kiện sau. * Điều kiện tham gia thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước - Các Ngân hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại Sở giao dịch hoặc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước và phải đăng ký mẫu dấu, chữ ký trong giao dịch thanh toán với Ngân hàng Nhà nước nơi mở tài khoản. - Dấu và chữ ký trên chứng từ thanh toán và bảng kê chứng từ thanh toán qua Ngân hàng Nhà nước phải đúng với mẫu đã đăng ký với Ngân hàng Nhà nước nơi mở tài khoản. - Tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước của Ngân hàng trả tiền (Ngân hàng phát sinh nghiệp vụ thanh toán) phải có đủ số dư để bảo đảm thanh toán kịp thời. 1.5.4. Thanh toán điện tử liên Ngân hàng: Cho đến nay, thanh toán điện tử liên Ngân hàng đã và đang được Ngân hàng Nhà nước áp dụng và triển khai trên phạm vi toàn quốc theo hai phân hệ là Hệ thống thanh toán điện tử liên hàng và Thanh toán bù trừ điện tử liên Ngân hàng. Hệ thống thanh toán điện liên Ngân hàng là hệ thống thanh toán tổng thể, bao gồm hệ thống bù trừ liên Ngân hàng, hệ thống xử lý tài khoản tiền gửi thanh toán và cổng giao diện với hệ thống chuyển tiền điện tử của Ngân hàng Nhà nước. * Điều kiện tham gia thanh toán điện tử liên Ngân hàng: - Các Ngân hàng phải được cài đặt chương trình phần mềm, nối mạng các Ngân hàng trong và ngoài hệ thống và tuân thủ các quy trình kế toán và hạch toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. - Đăng ký mẫu mã số chứng từ, mã số chữ ký điện tử trước với trung tâm thanh toán - Thành viên trực tiếp phải có tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và phải đăng ký danh sách các chi nhánh trực thuộc của mình tham gia thanh toán điện tử liên Ngân hàng để kết nối trực tiếp vào hệ thống, thành viên gián tiếp tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên Ngân hàng thông qua các thành viên trực tiếp. Thanh toán không dùng tiền mặt là phương thức thanh toán “phi tiền mặt”, thực chất là sử dụng các công cụ thanh toán khác thay thế tiền mặt. Trong thế giới hiện đại, nhờ công nghệ mới, thanh toán không dùng tiền mặt đã trở nên khá phổ biến ở hầu hết các quốc gia. Đến nay, không có một quốc gia nào loại trừ tiền mặt ra khỏi hệ thống thanh toán chung. Tuy nhiên, mức độ và tỷ lệ khác nhau. Câu hỏi ở đây là những yếu tố nào tác động, ảnh hưởng đến thanh toán không dùng tiền mặt? 1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh toán không dùng tiền mặt 1.6.1. Yếu tố luật pháp: Ngân hàng là định chế tài chính rất phức tạp, hoạt động của nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Nghề Ngân hàng phát triển kéo theo sự phát triển kinh tế của quốc gia, nhưng một sự đổ vỡ của một Ngân hàng sẽ kéo theo sự sụp đổ toàn hệ thống Ngân hàng, đó là nguy cơ tiềm ẩn của các cuộc khủng hoảng tài chính không đáng có trong nước và khu vực. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng chỉ là nhận gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán nhưng nó cũng phải luôn tuân thủ theo quy trình đề ra để có thể đảm bảo an toàn. Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán hộ khách hàng, nên độ an toàn, chính xác, kịp thời của Ngân hàng và khách hàng đưa ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp và của nền kinh tế. Bất kỳ một sự sơ suất, chậm trễ của cả hai bên sẽ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc như: doanh nghiệp mất cơ hội đầu tư, luân chuyển hàng hóa bị gián đoạn,.... Chính vì lí do đó trong việc cung cấp dịch vụ thanh toán không chỉ có Ngân hàng mà cả khách hàng phải luôn tuân thủ đúng nghiêm ngặt mọi chế độ cũng như quy định đã được đặt ra. Các quy định về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở các quốc gia khác nhau, nó tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế cũng như việc triển khai sử dụng dịch vụ này. Việt Nam đến nay có quyết định số 22- QĐ/NH1 ban hành 21- 02- 1994 quy định các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt, nhưng mấu chốt của từng văn bản luật cần phải quy định rõ quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên khi tham gia thanh toán. Do vậy, việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật cũng như quy định kèm theo sẽ tạo ra hành lang pháp lý an toàn tạo điều kiện cho mọi người dân có thể tiếp cận được với loại hình tiên tiến này. 1.6.2. Yếu tố kinh tế: Trong chúng ta ai cũng biết dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt và sự phát triển kinh tế có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Kinh tế phát triển đồng nghĩa với sản xuất và lưu thông hàng hóa cũng phát triển thì sẽ thúc đẩy việc sử dụng dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng. Ngược lại, sự ách tắc trong kinh tế làm cho sản xuất và lưu thông trở nên trì trệ, lúc đó dù cho các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt có đa dạng phong phú đến mấy cũng không thể thúc đẩy được nền kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, bên cạnh nhiều yếu tố thì các doanh nghiệp thường cạnh tranh với nhau bởi giá cả. Giá cả là yếu tố quan trọng để thúc đẩy lưu thông hàng hóa của doanh nghiệp và trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Do đó, tiết kiệm chi phí luôn là nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp. Phí để sử dụng các hình thức thanh toán qua Ngân hàng cũng là một khoản chi phí của doanh nghiệp, với mỗi loại hình thanh toán không dùng tiền mặt mà Ngân hàng cung cấp sẽ có những mức phí khác nhau giúp doanh nghiệp có thể lựa chọn phù hợp với nhu cầu của mình. Khi kinh tế phát triển các hình thức này sẽ đa dạng hơn, phong phú hơn và trên hết mức phí sử dụng nó sẽ giảm. Từ đó không những doanh nghiệp có nhiều lựa chọn hơn mà quan trọng nó làm giảm chi phí, giúp doanh nghiệp có thể hạ giá thành. Ngược lại, các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng có ảnh hưởng nhất định đến kinh tế. Chỉ khi các hình thức đó phát triển thì mới có thể đảm bảo độ nhanh chóng, an toàn và chính xác- đây cũng là yếu tố quan trọng để giúp lưu thông phát triển tạo đà cho sản xuất trong nước tăng nhiều hơn. Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế gặp nhiều khó khăn do hậu quả của các cuộc chiến tranh để lại, nên cho đến nay dù triển khai sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt từ khá lâu nhưng kết quả thu được chưa như mong đợi. Hoà mình với xu thế hội nhập, muốn phát triển được kinh tế Việt Nam phải đặt mình trong mối quan hệ biện chứng với việc sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. 1.6.3. Yếu tố khoa học- công nghệ: Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của khoa học công nghệ, thời kỳ mà nó phát triển mạnh mẽ nhất từ trước đến nay. Từng quốc gia trên thế giới đang nỗ lực hết mình để tạo ra thành tựu mới để ứng dụng vào đời sống thực tế của con người. Khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin đang phát triển mạnh giúp con người chúng ta xoá bỏ được mọi khoảng cách địa lý- đây là cơ sở thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Thanh toán không dùng tiền mặt là một dịch vụ tiên tiến, hiện đại nhất mà Ngân hàng đã cung cấp cho chúng ta. Nếu như trước đây việc thanh toán qua Ngân hàng chỉ dừng lại việc ghi chép sổ sách, lưu chuyển chứng từ qua bưu điện tốn thời gian, xảy ra nhiều sơ suất gây thiệt hại đáng tiếc cho cả Ngân hàng và khách hàng thì ngày nay với sự tiến bộ khoa học công nghệ với những trang thiết bị máy tính được nối mạng trong và ngoài nước, với những đường truyền tín hiệu thông minh giúp cho các khoản thanh toán chính xác hơn và kịp thời hơn. Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, công nghệ thông tin và thương mại điện tử đang trở thành một xu thê phát triển tất yếu. Nếu nền kinh tế hay một doanh nghiệp cụ thể nào không có đủ khả năng để trang bị thì sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi và sẽ không còn cơ hội tồn tại và phát triển. Để chủ động hội nhập, từng chi nhánh Ngân hàng cần mở rộng đầu tư nhằm nâng cấp hệ thống tin học. Việc tìm hiểu, có chủ trương chiến lược hiện đại hóa trong thanh toán của Ngân hàng mình là rất cần thiết. Đây là cách thức phù hợp với cá thể tham gia mua bán giao dịch. Ngân hàng là trung gian thanh toán giúp cho cả người mua, người bán trong giao dịch thương mại điện tử thực hiện được ý định của mình. Thương mại điện tử do vậy đã tạo cho Ngân hàng một loại dịch vụ mới với khối lượng khách hàng lớn qua đó nó kích thích sự phát triển của Ngân hàng: Ngân hàng phải đầu tư hình thành những phương thức tác nghiệp phù hợp với loại dịch vụ này, đồng thời phải hiện đại hóa các công cụ thích hợp nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt. 1.6.4. Yếu tố con người: Con người luôn đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động của xã hội, con người ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở hai khía cạnh: * Từ phía khách hàng: Chắc hẳn trong chúng ta không ai có thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của khách hàng đối với sự sống còn của doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế hiện đại. Đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ như ngành Ngân hàng của chúng ta, điều đó lại càng đúng. Bình thường, ai trong chúng ta cũng đều nghĩ rằng người chủ công ty trả tiền cho mình, nhưng thực sự người trả lương cho chúng ta lại là khách hàng. Bởi vì, thu hút được nhiều khách hàng đến với mình thì Ngân hàng mới hoạt động và tạo ra được nhiều lợi nhuận. Vì thế, nếu như Ngân hàng đó không chủ động quan tâm đến khách hàng thì Ngân hàng không thể tồn tại và phát triển được. Đấy chính là điều kiện để Ngân hàng đặt mình vào trong môi trường cạnh tranh gay gắt và không ngừng phát triển dịch vụ về khách hàng- đặc biệt trong điều kiện hiện nay ngoài Ngân hàng quốc doanh còn nhiều Ngân hàng cổ phần hiện đại khác đã và đang hình thành. Thanh toán không dùng tiền mặt là dịch vụ hiện đại đòi hỏi người sử dụng phải có hiểu biết nhất định về nó. Do đó, trình độ dân trí của một quốc gia sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả khi triển khai sử dụng dịch vụ này. Khi nhận biết của người dân được mở rộng họ sẽ nhìn thấy tiện ích mà thanh toán không dùng tiền mặt sẽ mang lại cho từng cá nhân và cả nền kinh tế. Tuy nhiên, không phải bất cứ một vấn đề nào đặt ra cũng được người dân thấu hiểu và chấp nhận một cách dễ dàng. Từng vùng, từng quốc gia khác nhau, trình độ dân trí sẽ khác nhau thì thành công thu được khi triển khai dịch vụ này cũng khác nhau. Việt Nam hiện nay vẫn là một thị trường thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt. Tuy một số phương thức thanh toán không dùng tiền mặt như: thẻ tín dụng, séc, chuyển tiền qua Ngân hàng đã được áp dụng nhưng vẫn chưa đạt đến mức xã hội hóa cao. Thêm vào đó là thói quen tích trữ và dùng tiền mặt hàng ngày của mỗi người dân, hơn nữa trình độ dân trí còn thấp, sự hiểu biết về thanh toán không dùng tiền mặt còn ít, nên để thay đổi được thói quen đó là không dễ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn hy vọng rằng trong tương lai với sự nỗ lực của các Ngân hàng thì thói quen này sẽ có thể thay đổi được. * Từ phía Ngân hàng: Như đã phân tích trên 3 yếu tố kinh tế, luật pháp, hay khoa học- công nghệ cũng đều ảnh hưởng nhất định đến hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, nhưng ngoài 3 yếu tố đó cũng cần nhấn mạnh vai trò của người trực tiếp truyền đạt lợi ích dịch vụ này tới khách hàng. Bằng những kiến thức, kỹ năng khéo léo của cán bộ Ngân hàng sẽ giúp cho loại hình thanh toán này tiếp cận với người dân nhanh chóng hơn. Tóm lại: Thanh toán không dùng tiền mặt là một phương thức thanh toán mà hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đang sử dụng rất nhiều bởi những ưu điểm của nó, ở Việt Nam hình thức này đã và đang trở nên phổ biến. Thông qua phần trình bày lý thuyết trên, đã cho thấy được cái nhìn sơ lược về hình thức thanh toán này, để hiểu rõ hơn chúng ta sẽ đi vào thực tế hoạt động của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Chương 2 Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở việt nam 2.1. Thực trạng Đến nay, dân số Việt Nam có trên 80 triệu người, trong đó 80% là nông nghiệp có thu nhập thấp, 20% còn lại phân bổ thu nhập không đồng đều. Bình quân thu nhập 400USD/người/ năm (là nước có thu nhập thấp so với thế giới). Hệ thống Ngân hàng Việt Nam gồm Ngân hàng Nhà nước và 64 chi nhánh trong cả nước. Hệ thống các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng đa dạng (80 đơn vị); bao gồm: 5 Ngân hàng thương mại quốc doanh; 24 Ngân hàng cổ phần đô thị; 12 Ngân hàng cổ phần Nông thôn; 4 Ngân hàng liên doanh; 34 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài; 1 Ngân hàng chính sách xã hội; 1 Quỹ tín dụng nhân dân và hơn 900 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và 13 tổ chức tài chính phi Ngân hàng. Về giải pháp công nghệ mới, 8 Ngân hàng đã có hệ thống kế toán tập trung tài khoản; 14 Ngân hàng đã trang bị máy rút tiền tự động ATM; 20 Ngân hàng đã phát hành thẻ thanh toán; 42 Ngân hàng đã tham gia hệ thống thanh toán quốc tế (swift); 3 Ngân hàng đang triển khai ứng dụng Internet Banking. Với hệ thống rộng lớn này, là những điều kiện cơ bản, có nhiều cơ hội sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt trong hoạt động Ngân hàng. Trong những năm đổi mới, hệ thống các công cụ thanh toán chủ yếu ở Việt Nam bao gồm: Séc; Uỷ nhiệm thu; Uỷ nhiệm chi; Thư tín dụng; Thanh toán điện tử- thẻ thanh toán hoạt động thu được kết quả đáng khích lệ: Bảng 2: Công cụ thanh toán 2002- 2003 Đơn vị: Tỷ đồng Stt Các công cụ Thanh toán Số món (2002) Số tiền (2002) Số món (2003) Số tiền (2003) Số món % Số tiền % 1 Séc 252.315 35.609 323.821 74.946 Tăng 28% Tăng 110% 2 Uỷ nhiệm chi 9.918.307 3.768.006 12.752.256 4.320.663 Tăng 29% Tăng 15% 3 Uỷ nhiệm thu 440.968 88.780 343.579 43.912 Giảm 22% Giảm 52% 4 Thẻ 340.342 156.603 1.157.593 21.694 Tăng 240% Giảm 86% 5 P/ tiện khác 7.121.952 2.580.261 9.063.84

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0718.doc
Tài liệu liên quan