Trong cơ chế thị trường hiện nay, công ty giầy Thăng Long áp dụng tất cả các hình thức đàm phán để tận dụng lợi thế của từng hình thức.
Đối với một số khách hàng quan hệ lâu năm thường đàm phán qua điện thoại, điện tín, Fax, đàm phán trực tiếp là việc không cần thiết. Chỉ cần nhận được đơn đặt hàng và mở L/C tại ngân hàng Việt Combank hay một ngân hàng nào đó.
Đối với khách hàng mới xây dựng quan hệ cần phải đàm phán, ký kết trực tiếp, trước đó công ty phải nghiên cứu rõ về khách hàng, khả năng tài chính và uy tín.
49 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên, là trọng điểm kinh tế đối ngoại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường, xúc tiến thăm dò thị trường có nhiều ý nghĩa trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong công tác xuất nhập khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Nghiên cứu và nắm vững biến động của tình hình thị trường về giá cả hàng hoá trên thế giới là những tiền đề quan trọng đảm bảo cho các tổ chức xuất nhập khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có hiệu quả cao nhất.
CHƯƠNG II
Tình hình kinh doanh xuất khẩu của công ty giầy Thăng Long
I. Khái quát về công ty giầy thăng long
1. Khái quát lịch sử hình thành của Công ty Giầy Thăng Long
Công ty Giầy Thăng Long là một đơn vị hạch toán độc lập thuộc Tổng Công ty Giầy Da Việt Nam được thành lập theo quyết định số QĐ 210 ngày 14/4/1990 của Bộ Công nghiệp. Trụ sở tại đường Nguyễn Tam Trinh - Mai Động - Hai Bà Trưng - Hà Nội. Tên giao dịch "Thăng Long Shoes Company". Sản phẩm chủ yếu của Công ty là giầy vải, giầy thể thao xuất khẩu.
Từ khi thành lập và xây dựng cho đến đầu năm 1993 Công ty thực hiện hợp đồng xuất khẩu mũ giầy cho Liên Xô. Nhưng do mới thành lập, máy móc thiết bị không đồng bộ, tay nghề của công nhân cũng như trình độ quản lý sản xuất của cán bộ quản lý chưa cao nên năng suất còn thấp, không đạt chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra. Đến năm 1993 thị trường Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hàng loạt các nhà máy trong đó có Công ty Giầy Thăng Long lâm vào tình trạng mất thị trường và không có việc làm cho người lao động. Công ty đã thực sự gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường và bạn hàng cho mình nhằm duy trì sự tồn tại. Mặt khác Công ty còn khá non trẻ, vốn do Nhà nước cấp.
Xuất phát từ việc tìm hiểu nhu cầu sử dụng giầy nội địa và đặc biệt là xuất khẩu cho bạn hàng nước ngoài, Công ty đã chủ động gia tăng nguồn vốn kinh doanh bằng việc vay lãi của ngân hàng và các nhà đầu tư, thậm chí huy động cả nguồn vốn của cán bộ công nhân viên trong Công ty để mạnh dạn trang bị máy móc thiết bị hiện đại phù hợp với thị trường và thị hiếu người tiêu dùng.
Tháng 8/1998 Công ty đã đầu tư thêm máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mở rộng qui mô sản xuất. Tính đến 31/12/2001, cơ sở sản xuất của Công ty như sau:
1. Nguồn vốn chủ sở hữu : 65 tỷ đồng
2. Số lao động : 1900 cán bộ công nhân viên
3. Tổng doanh thu : 80 tỷ đồng
4. Thu nhập bình quân : 700.000 đồng/người
2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty
a. Chức năng.
- Sản xuất giầy dép và sản phẩm từ da.
- Xuất nhập khẩu trực tiếp.
+ Xuất khẩu: Giầy dép và sản phẩm từ da.
+ Nhập khẩu: Vật tư nguyên liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất.
b. Nhiệm vụ.
- Thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trên cơ sở tự chủ động và tuân theo qui định của pháp luật.
- Nghiên cứu thực hiện có hiệu quả các biện pháp nâng cao chất lượng các mặt hàng do công ty sản xuất, kinh doanh nhằm tăng cường sức mạnh cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ.
3. Chức năng nhiệm vụ của phòng ban.
- Ban giám đốc.
+ Giám đốc là người đứng đầu công ty là người đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của công ty trước cơ quan cấp trên, trước pháp luật và đồng thời là người điều hành quản lý mọi hoạt động của công ty thông qua sự giúp đỡ của phó Giám đốc và các phòng ban chức năng.
+ Một Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật.
+ Một Phó giám đốc phụ trách kinh doanh.
+ Một Phó giám đốc xuất nhập khẩu.
- Phòng tổ chức hành chính.
+ Tuyển dụng lao động
+ Công tác bảo hiểm xã hội, văn thư lưu trữ.
- Phòng kinh doanh: gồm 2 phòng kế hoạch vật tư và phòng xuất nhập khẩu có nhiệm vụ.
+ Lập kế hoạch mua sắm thiết bị, vật tư, quản lý vật tư, nguyên liệu phụ.
+ Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, lên kế hoạch sản xuất và giao hàng cho từng hợp đồng.
- Phòng tài vụ: Thực hiện toàn bộ công tác tài chính kế toán của công ty, quản lý các nguồn thu, đảm bảo vốn cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Phòng bảo vệ: Giữ gìn an ninh trật tự, an toàn trong công ty và bảo vệ nội bộ doanh nghiệp.
- Phân xưởng cơ điện: Tiến hành theo dõi và sửa chữa toàn bộ hệ thống cung cấp điện, nước, máy móc thiết bị theo định kỳ và thường xuyên.
- Xí nghiệp I: Gồm 2 phân xưởng.
+ Phân xưởng chuẩn bị giày vải.
+ Phân xường chuẩn bị giày thể thao.
- Xí nghiệp II: Gồm 3 phân xưởng cán luyện cao su, phân xưởng ép đế, phân xưởng làm keo.
- Xí nghiệp III: Gồm 2 dây chuyền sản xuất giầy vải với 3 phân xưởng may, phân xưởng giầy và phân xưởng vệ sinh, kiểm tra, đóng gói.
- Xí nghiệp IV: Gồm 1 dây chuyền sản xuất giầy thể thao đồng thời có thể sản xuất giầy vải. Xí nghiệp này cũng có 3 phân xưởng như xí nghiệp III.
4. Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty:
Công ty giầy Thăng Long được tổ chức theo cơ cấu quản lý trực tuyến chức năng. Đây là một cơ cấu quản lý mà toàn bộ công việc được giải quyết theo một kênh liên hệ đường thẳng giữa cấp trên và cấp dưới trực thuộc. Chỉ có lãnh đạo quản lý ở từng cấp mới có nhiệm vụ và quyền hạn ra mệnh lệnh và chỉ thị cho cấp dưới (tức là mỗi phòng ban, xí nghiệp của công ty chỉ nhận quyết định của một thủ trưởng cấp trên theo nguyên tắc trực tiếp). Giám đốc công ty là người ra quyết định cuối cùng cũng như để hỗ trợ cho quá trình quyết định của giám đốc các bộ phận chức năng. Các bộ phận chức năng này không ra lệnh một cách trực tiếp cho các đơn vị cấp dưới mà chỉ nghiên cứu, chuẩn bị các qui định cho lãnh đạo, quản lý và thực hiện các hướng dẫn kiểm tra giám sát chỉ đạo việc thực hiện các mục tiêu trong phạm vi chức năng chuyên môn của mình.
II. Nội dung hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
1. Kim ngạch xuất khẩu:
Trải qua những thăng trầm và biến đổi của thời kỳ đầu sau khi thị trường truyền thống( Liên Xô cũ) và các nước Đông Âu bị sụp đổ, các hiệp định song phương bị tan vỡ. Ngành giầy nói chung và công ty nói riêng tưởng như sụp đổ hoàn toàn. Công ty đã tìm đủ mọi cách để chuyển sang phương thức làm ăn mới thiết lập các mối quan hệ với các đối tác nước ngoài, tạo lập cơ sở sản xuất, dây chuyền máy móc thiết bị mới áp dụng những bước đi và phương hướng với tình hình thị trường và khả năng thực tế. Chính vì vậy mà tình hình xuất khẩu của công ty đã chuyển biến ngày càng rõ rệt, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên trong những năm .
6347492
Sơ đồ kim ngạch xuất khẩu
7000.000
6000.000
4297941
5000.000
4000.000
2371597
3000.000
2000.000
1000.000
0
1999
2000
2001
Nhìn sơ đồ kim ngạch xuất khẩu của công ty qua 3 năm gần đây ta thấy rằng:
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 4.298.031USD tăng lên 1.926.344 USD so với năm 1999 tức là 81%. Đến năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đạt 6.347.492 USD tăng so với năm 1999 là 3.975.899 USD với tỉ lệ là 167,5%.Như vậy năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng lên rất nhanh. Điều đó chứng tỏ công ty rất nhạy bén trên thị trường, nắm bắt được thị hiếu tiêu thụ, nhu cầu tiêu dùng của dân cư, do đó sản lượng hàng xuất khẩu ngày càng tăng.
2. Hoạt động nghiên cứu, lựa chọn thị trường xuất khẩu
2.1. Thị trường xuất khẩu.
Do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ chưa chấm dứt nên thị trường
Da- Giầy vẫn còn bị ảnh hưởng, khó khăn ở thị trường cũ vẫn chưa ổn định, đơn đặt hàng chưa nhiều còn thị trường trong nước bị các sản phẩm của Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc…lấn sân vì sản phẩm của họ đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam vốn ưa mác ngoại và giá rẻ.Vì vậy việc tìm kiếm thị trường trong nước là khó thực hiện nên công ty phải tìm kiếm thị trường nước ngoài. Đến nay sản phẩm của công ty đã tiêu thụ ở 14 nước trên thế giới thuộc EU như Anh, Pháp, Italia… trong đó Đức, Italia là hai bạn hàng lớn nhất.
Khối EU là khối các nước công nghiệp phát triển ở đỉnh cao, dân cư ở mức thu nhập cao, sành về thời trang làm đẹp. Hai năm trở lại đây công ty đặc biệt chú trọng vào thị trường EU nơi đang có lợi thế so với các nước sản xuất giày như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan…bởi vì Việt nam được hưởng quy chế ưu đãi chung”GSP”. Đây là hệ thống ưu đãi phổ cập là cơ chế của các nước Tây Âu thực hiện miễn giảm thuế cho các nước đang phát triển trong đó có Việt nam. Hơn thế nữa một số nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc…đang bị EU áp dụng luật phá giá. Dưới đây là bảng tỷ trọng xuất khẩu của công ty:
Bảng tỷ trọng thị trường xuất khẩu
ĐVT:USD
TT
Năm
TT
1999
2000
2001
Tỷ trọng %
1999
2000
2001
1
Đức
1530068
1152191
2069282
64,5
26,8
32,6
2
Italia
4495068
1353761
240664
20,9
31,5
35,3
3
Hà Lan
0
784656
336417
0
18,3
5,3
4
Pháp
20856
338309
590316
0,9
7,9
9,3
5
Anh
88812
556274
431629
3,7
12,9
6,8
6
Nga
0
112840
0
0
2,6
7
Thuỵ Sĩ
40185
0
0
1,7
8
Mêhicô
8280
0
0
0,3
9
áo
56235
0
0
2,4
10
Tây Ban Nha
132093
0
0
5,5
11
Nam Tư
0
0
678184
0
10,7
12
Tổng cộng
2371567
4298031
6347492
100
100
100
Qua số liệu của bảng ta thấy kim ngạch của công ty vào các thị trường không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 1999 kim ngạch đạt 2371567 USD đến năm 2001 đã tăng 268% đạt được 6347492 USD. Năm 2001 so với năm 2000 thì tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu ở thị trường Đức, Italia, Pháp, Nam Tư tăng còn Anh với Hà Lan thì giảm. Trong đó đáng lưu ý nhất là Italia tăng từ 31,5% lên 35,3% đạt được 2240664 USD. Thị trường Đức tăng từ 26,8% lên 32,6% đạt 2069282 USD. Điều này chứng tỏ thị trường Italia, Đức đang được công ty chú trọng.
Hiện nay bốn thị trường lớn của công ty chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu là Pháp , Đức, Anh, Italia …trong đó Đức và Italia là bạn hàng lâu năm của công ty trong mấy năm gần đây. Trị giá xuất khẩu sang các nước này bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Nếu giầy dép của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng nhanh, khi tỷ trọng nhập khẩu từ Việt Nam chiếm 25% tổng sản lượng nhập khẩu vào EU. Thì Việt nam lúc đó sẽ không được hưởng ưu đãi thuế quan mà sẽ bị EU áp dụng hạn ngạch. Điều này sẽ mang đến nhiều bất lợi cho công ty, nếu công ty không dự báo được trước thì sẽ bị rủi ro. Trong thời gian tiếp theo công ty cần tìm hiểu thị trường khác như Mỹ, Bắc Mỹ, Nhật.
Việc lựa chọn thị trường là quá trình đánh giá cơ hội thị trường và xác định hướng thị trường xuất khẩu. Trên cơ sở năng lực sản xuất tiềm năng sẵn có và những thuận lợi đang có, công ty đã đưa ra những định hướng lựa chọn thị trường như sau:
Thứ nhất: tập trung chủ yếu vào thị trường EU. Đây là thị trường đông dân khoảng 370 triệu người có mức tiêu dùng giầy dép bình quân đầu người rất cao 5-6 đôi/người/năm. Hàng năm EU nhập khoảng 900 triệu đôi giầy dép các loại tuy nhiên thị trường này đòi hỏi sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, hợp thời trang.
Thứ hai: thu hút khách hàng tiềm năng và mở rộng thị trường sang Mỹ, Bắc Mỹ, Nhật.
+ Đối với thị trường Mỹ và Bắc Mỹ:
Tiềm năng tiêu thụ ở thị trường này rất lớn. Dân số gần 400 triệu người có mức tiêu thụ giầy dép cao nhất thế giới, khoảng 1.8 tỷ đôi/năm. Trong đó riêng ở thị trường Mỹ chiếm 1.5 - 1.6 tỷ đồng/năm nhưng chỉ sản xuất 10 - 15 % tổng sản lượng tiêu thụ. Vì vậy đây là một thị trường mà công ty cần phải chú trọng trong tương lai đây sẽ là một thị trường quan trọng số một của công ty khi Việt Nam và Mỹ đang bình thường hoá quan hệ.
+ Đối với thị trường Nhật:
Nhật Bản là nước có dân số đông 130 triệu người là một cường quốc có tiềm năng sản xuất nhưng do thiếu nhân công, sức ép cạnh tranh ngày càng lớn nên sản xuất bị thu hẹp trong những năm gần đây. Nhật đang trở thành một quốc gia nhập khẩu giầy dép lớn nhất thế giới (300 triệu đôi/ năm) nhưng đây cũng là một thị trường đòi hỏi cực kỳ cao về chất lượng mẫu mã phong phú xong phải phù hợp với bản sắc văn hoá phương đông của họ. Do đó công ty đang có định hướng để đổi mới công nghệ, tạo nhiều sản phẩm có chất lượng cao mẫu mã đẹp. Ngoài ra công ty còn tận dụng nguồn nhân lực dồi dào, giá cả rẻ, và sử dụng lợi thế địa lý gần, giảm cước phí vận chuyển nâng cao thêm ưu thế cạnh tranh của công ty.
Như vậy chiến lược thâm nhập và phát triển thị trường của công ty từ nay trở đi đang và sẽ tập trung vào hai khu vực thị trường EU, Nhật và Mỹ, Bắc Mỹ và ngoài ra còn có một số thị trường khác đang được công ty quan tâm là Nga và Đông Âu. Mục tiêu tỉ trọng cho từng loại thị trường ở bảng sau đây:
Bảng mục tiêu tỷ trọng từng loại thị trường
ĐVT:%
T T
Thị trường
2002
2004
1
Thị trường EU
80
70
2
Thị trường Mỹ và Bắc Mỹ
10.3
16.1
3
Thị trường Nhật
5.2
6.9
4
Thị trường khác
4.5
100
7
100
Nhưng trước mắt công ty nên tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU, đây là thị trường có nhu cầu tiêu dùng giầy dép rất lớn lại đang có mối liên hệ làm ăn trong mấy năm qua. Còn đối với thị trường Mỹ và Nhật, Nga và Đông Âu cần phải có thời gian khi quan hệ kinh tế và ngoại giao giữa Nhà nước ta và Nhà nước họ đang được mở rộng.
2.2. Mặt hàng xuất khẩu :
Công ty giầy Thăng Long tập trung sản xuất vào hai mặt hàng chính là giầy vải và giầy thể thao. Giầy vải là mặt hàng truyền thống của công ty, được bắt đầu sản xuất từ khi mới thành lập do đó chiếm ưu thế chính. Đến năm 1998, công ty quyết định đầu tư mở rộng sản xuất, thành lập thêm xưởng mới, lắp đặt hai dây chuyền sản xuất giầy thể thao. Tuy mới đưa vào sản xuất nhưng đã được khách hàng quan tâm và hưởng ứng do phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng.
Ngoài ra công ty cũng kinh doanh một số mặt hàng phụ như dép đi trong nhà, găng tay…nhưng thời gian gần đây do nhận được nhiều đơn đặt hàng chính về giầy nên công ty chỉ tập trung vào sản xuất mặt hàng chính.
Bảng cơ cấu hai mặt hàng chính
ĐVT:Đôi
TT
Mặt hàng-thị trường
1999
2000
2001
I
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
II
1
2
3
4
5
Giầy Vải
Đức
Italia
Anh
Thuỵ Sĩ
áo
Mêhicô
Pháp
Tây Ban Nha
Nga
Nam Tư
Hà Lan
Giầy Thể thao
Đức
Italia
Anh
Pháp
Tây Ban Nha
741437
495807
105894
48111
31630
39025
2880
18000
0
0
0
0
53368
22932
9984
5004
3408
12040
1350284
311922
391424
186434
0
24400
123434
123434
0
26000
17220
224450
102531
57216
26102
6532
5703
6978
2015605
753216
581334
161636
0
20100
0
0
0
8900
128322
0
157618
81213
19952
16117
20206
20230
Công ty giầy Thăng Long, qua bảng số liệu trên, tiến hành sản xuất và xuất nhập khẩu chủ yếu tập trung vào giầy vải nam. Các sản phẩm giầy vải nữ và giầy trẻ em sản xuất tỷ lệ thấp. Sản lượng giầy vải xuất khẩu các năm tăng nhanh: năm 2000 so với năm 1999 tăng 658010 đôi với tỷ lệ 82.8% năm 2001 tăng 720408 đôi tức là 90.6% so với năm 1999. Trong đó ở thị trường Italia tăng lớn nhất ( 285530 đôi )(năm 2000/1999) và Anh (138323 đôi )( năm 2001/ 2000). Tỷ lệ tăng này là hợp lý với tỷ lệ tăng đội ngũ lao động của công ty và tỷ lệ tăng thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên công ty. Mặc dù công ty giầy Thăng Long nói riêng và ngành da dầy nói chung đều đang gặp nhiều khó khăn cần khắc phục nhưng công ty luôn tổ chức nghiên cứu thị trường để tìm đầu ra cho sản phẩm sản xuất và đã bước đầu đã đi đúng hướng.
2.3. Tổ chức tạo nguồn hàng - quy trình sản xuất và vận chuyển hàng xuất khẩu
2.3.1. Quy trình sản xuất giầy tại công ty giầy Thăng Long
Từ khâu thiết kế mẫu mã phục vụ sản xuất là một bước quan trọng đầu tiên tạo nên chất lượng hàng hoá. Mẫu mã sản phẩm do phòng kỹ thuật của công ty tạo ra theo đơn đặt hàng của các hãng thương mại .
Hiện nay công ty có hai dây chuyền sản xuất có công suất thiết kế 1500000 đôi / năm và một dây chuyền sản xuất giầy thể thao công suất 400000 đôi / năm . Đây là dây chuyền hoàn toàn khép kín từ khâu may mũ giầy đến khâu vào phom, cắt dán “02” (đường viền quanh đế giầy). Đây là dây chuyền có tính tự động hoá cao trong phân xưởng, hệ thống băng tải cung cấp vật liệu chạy đến khắp nơi trong xưởng.
2.3.2. Tạo nguồn nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu:
Nguyên vật liệu là một khâu quan trọng tạo nên chất lượng hàng hoá. Nguyên vật liệu tốt kết hợp mẫu mã đẹp sẽ tạo ra sản phẩm đắt khách. Vì vậy công ty cũng rất chú trọng đến khâu nguyên vật liệu cho sản phẩm.
Công ty khai thác nguyên vật liệu theo hai nguồn:
- Nguồn trong nước:
Những năm gần đây, vải sợi bóng trong nước có nhiều tiến bộ về chất lượng, đáp ứng được phần lớn nhu cầu vải có chất lượng cao để phục vụ sản xuất xuất khẩu. Công ty dệt 19-5, công ty dệt bạt công nghiệp Hà Nội là những đơn vị cung cấp nguyên liệu chính cho công ty.
Nguồn cung cấp chủ yếu là công ty chỉ khâu Phong Phú. Còn cao su tự nhiên là nguồn cung cấp từ công ty cao su miền Nam. Đây là đơn vị chủ yếu cung cấp cho công ty trong nhiều năm qua.
- Nguồn nước ngoài:
Hiện nay công ty phải nhập khẩu toàn bộ hoá chất phục vụ cho sản xuất từ nước ngoài như Anh, Hàn Quốc…đây cũng là khó khăn của công ty và ngành công nghiệp xuất khẩu giầy. Vì phải nhập khẩu nên giá hoá chất tương đối cao mặt khác phải phụ thuộc vào thời gian bên bán cung cấp, không đảm bảo tiến độ sản xuất. Đây là một thiệt thòi lớn cho công ty.
2.4.Giá cả giao dịch:
Đây được coi là khâu quan trọng để đi đến quyết định lựa chọn thị trường xuất khẩu. Do đặc điểm của từng khu vực thị trường công ty đã đưa ra những phương án giá cả giao dịch tương ứng phù hợp. Đối với thị trường EU, công ty đưa ra giá cả tương đối cao vì công ty sử dụng những nguyên vật liệu đắt tiền phải nhập khẩu từ nước ngoài để sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt mẫu mã hợp thời trang ngoài ra công ty cũng đã nghiên cứu đến tâm lý tiêu dùng ưa những hàng hoá có giá cả cao, vì đối với người dân trong EU giá cao đi đôi với chất lượng cao, giá cả là vỏ bọc an toàn của chất lượng.
Đối với thị trường Mỹ, công ty đưa ra nhiều chủng loại giầy dép với các loại giá cả khác nhau phù hợp với mọi tầng lớp dân cư. Riêng đối với thị trường Nhật Bản, công ty phải tiến hành sản xuất giầy dép với chất lượng cao và giá cả tương đối phù hợp với bản sắc văn hoá phương Đông của họ.
Đối với mỗi thị trường, công ty giầy Thăng Long đều nghiên cứu rất kỹ tập quán, thói quen, thị hiếu tiêu dùng trước khi đưa ra một chính sách giá cho phù hợp, bên cạnh đó công ty luôn tiến hành đổi mới mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm để hoà nhập với nền kinh tế quốc tế.
3. Hoạt động đàm phán, giao dịch và ký kết hợp đồng xuất khẩu :
3.1. Tổ chức giao dịch và đàm phán:
Trong cơ chế thị trường hiện nay, công ty giầy Thăng Long áp dụng tất cả các hình thức đàm phán để tận dụng lợi thế của từng hình thức.
Đối với một số khách hàng quan hệ lâu năm thường đàm phán qua điện thoại, điện tín, Fax, đàm phán trực tiếp là việc không cần thiết. Chỉ cần nhận được đơn đặt hàng và mở L/C tại ngân hàng Việt Combank hay một ngân hàng nào đó.
Đối với khách hàng mới xây dựng quan hệ cần phải đàm phán, ký kết trực tiếp, trước đó công ty phải nghiên cứu rõ về khách hàng, khả năng tài chính và uy tín.
3.2. Kí kết hợp đồng:
*Nguyên tắc ký kết :
- Bình đẳng tự nguyện: Nguyên tắc này chỉ ra các bên tham gia ký kết hợp đồng phải dựa trên những lợi ích thu được từ hoạt động kinh tế quốc tế. Hợp đồng được ký kết khi hai bên đều cảm thấy nhất trí nguyên tắc này cho thấy nguyên tắc làm việc và nghĩa vụ của từng chủ thể và giữa các chủ thể với nhau.
- Thoả thuận song phương: Việc ký kết hợp đồng chỉ được tiến hành sau khi hai bên đã thoả thuận đàm phán và nhất trí đàm phán. Nguyên tắc này cho thấy hai bên phải tìm ra miền lợi ích có thể chấp nhận được của mình, nghĩa là “ hai bên cùng có lợi”.
- Tuân thủ luật pháp và thông lệ quốc tế : Hợp đồng kinh doanh quốc tế là một văn bản có tính pháp lý quy định quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên. Do bản chất của mình, quan hệ kinh doanh quốc tế vượt ra ngoài phạm vi quốc tế cho nên còn phải chịu sự kiểm soát của các nguồn luật quốc tế, tập quán quốc tế đầu tư thương mại và chuyển giao công nghệ.
* Phương thức ký kết:
- Ký kết hợp đồng trực tiếp: Việc ký kết nà được diễn ra trong trường hợp đại diện của các bên( theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền ) trực tiếp gặp nhau để thoả thuận và thống nhất các vấn đề kinh doanh giữa các bên xác định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm cùng ký vào văn bản hợp đồng.
- Ký kết hợp đồng gián tiếp: Đây là cách ký kết trong đó các bên ký kết thông qua trung gian, điện thoại, fax, điện tín, môi giới,uỷ thác…Mỗi bên gửi các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đặt hàng…có nội dung của công việc giao dịch.
Tại công ty giầy Thăng Long thông thường việc ký kết được thực hiện theo cách trực tiếp, khi đơn chào hàng được gửi đi hoặc việc sản xuất thử theo đơn đặt hàng của khách hàng được chấp nhận thì hai bên tiến hành ký kết hợp đồng. Đối với một số khách hàng quen thuộc như: Hàn Quốc, Đức, Italia…thì việc ký kết hợp đồng thường thông qua fax. Việc ký kết này có nhiều ưu điểm đỡ mất thời gian và kinh phí đi lại giữa các bên.
3.3. Thực hiện hợp đồng trong cơ chế thị trường :
Sau khi ký kết hợp đồng cần xác định rõ trách nhiệm nội dung trình tự công việc phải làm, cố gắng không sai sót gây nên thiệt hại. Tất cả các sai sót là cơ sở phát sinh khiếu nại.
Trình tự thực hiện hợp đồng gồm các bước sau:
Ký
kết HĐXK
Kiểm tra
L/C
Chuẩn bị
hàng
Uỷ thác thuê tàu
Kiểm nghiệm hàng
Làm thủ tục hải quan
Giải quyết khiếu nại
Làm thủ tục thanh toán
Mua bảo hiểm
Giao hàng lên tàu
Trong những năm gần đây do đúc rút được kinh nghiệm cũng như nâng cao trình độ nghiệp vụ trong công tác xuất nhập khẩu ở công ty do đó có tác động tích cực trong quan hệ buôn bán ngoại thương, tránh được những tranh chấp khiếu nại giữa các bên, có được điều này là do kiện toàn từ công tác tổ chức sản xuất cho đến khâu cuối cùng là giao hàng, mọi công việc đều được kiểm tra chặt chẽ theo thoả thuận từ hợp đồng đã ký. Do đó không xảy ra tranh chấp, khiếu nại khi giao hàng và nhận hàng giữa các bên.
4. Hình thức và phương thức xuất khẩu của công ty:
Công ty giầy Thăng Long thực hiện xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu gián tiếp.
Xuất khẩu gián tiếp là một hình thức bán hàng cho trung gian nước ngoài để họ bán lại cho người tiêu dùng cuối cùng. Xuất khẩu gián tiếp ít gặp nguy hiểm khi công ty không nắm vững thị trường nước ngoài và có thể sử dụng nguồn lực con người trung gian. Công ty một mặt luôn giữ gìn những mối quan hệ trung gian truyền thống mặt khác phải mở rộng tìm kiếm đối tác trung gian mới nâng cao thêm sản lượng tiêu thụ được. Vì phải trải qua một kênh tiêu thụ rồi sản phẩm mới đến tay người tiêu dùng nên công ty thu được lợi nhuận không cao.
Bên cạnh hình thức xuất khẩu trên công ty còn áp dụng phương thức gia công quốc tế. Khách hàng cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu,mẵu mã. Công ty tổ chức quá trình sản xuất theo yêu cầu khách hàng. Toàn bộ sản phẩm được giao cho khách hàng theo đúng kỳ hạn. Chất lượng, mẫu mã, thời gian giao hàng, phương thức vận chuyển, hình thức thanh toán… giữa công ty và khách hàng phải được quy định rõ trong hợp đồng gia công quốc tế. Đây là một hình thức xuất khẩu bị động vì công ty chỉ là người làm theo đơn đặt hàng, công ty không phải là người sáng tạo nhưng bù lại không bị rủi ro trong kinh doanh, không phải bỏ ra các chi phí khác ngoài chi phí nhân công, chi phí vận chuyển và hao mòn tài sản.
III. Kết quả hoạt động xuất khẩu của công ty :
1. Phân tích kết quả hoạt động của công ty :
Trong những năm gần đây, thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty đã không ngừng mở rộng, sang nhiều khu vực quốc gia khác nhau với khẩu hiệu “ không ngừng nâng cao hiệu quả xuất khẩu”,coi trọng chất lượng sản phẩm. Do đó đã thu hút khách hàng đến với công ty, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ, Công ty đã đầu tư nâng cấp các dây chuyền thiết bị sản xuất. Sản phẩm của công ty đã có mặt ở nhiều thị trường, kể cả thị trường khó tính.
Kết quả hợp đồng sản xuất kinh doanh của công ty được biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế như: tổng doanh thu, doanh thu từ xuất khẩu , tổng chi phí ,lợi nhuận.
Để đánh giá kết quả đó, ta xem bảng sau:
Bảng báo cáo kết quả hoạt động xuất khẩu của công ty
ĐVT: Triệu đồng
TT
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2000/1999
2001/2000
Số tiền
TL%
Số tiền
TL%
1
Tổng doanh thu
55337
80088
90600
24751
2
Doanh thu từ xuất khẩu
50667
73429
92780
22762
45
19351
26
3
Chi phí cho xuất khẩu
50365
72703
91976
22338
4
Lợi nhuận từ xuất khẩu
302
726
804
424
140
78
11
Qua số liệu trên ta thấy, mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong điều kiện hết sức khó khăn về nhiều mặt như nguồn vốn eo hẹp, thị trường biến động về nhiều mặt, cạnh tranh gay gắt nhưng công ty đã đạt được kết quả khả quan. Đáng chú ý là doanh thu từ xuất khẩu tăng nhanh chóng. Năm 1999 đạt 50667 triệu đồng, đến năm 2000 đã đạt được 73429 triệu đồng tăng 22762 triệu đồng ứng với tỷ lệ tăng là 45 %. Năm 2001 doanh thu là 92780 triệu đồng tăng so với năm 2000 là 26 % với số tiền là 19351 triệu đồng. Tốc độ tăng này ít hơn so với tốc độ tăng doanh thu trước đó nhưng do đầu tư đổi mới công nghệ, tiết kiệm nguyện vật liệu , điều này đã làm giảm bớt đi chi phí do hiệu quả sản xuất cao. Vì vậy lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu đã tăng lên. Năm 2001 tổng chi phí lớn hơn tổng doanh thu chung nhưng trong hoạt động xuất khẩu công ty vẫn thu được lợi nhuận chứng tỏ hàng nội địa kinh doanh bị thua lỗ nhưng hàng xuất khẩu thu lợi nhuận bù đắp lại. Điều này chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty hướng về xuất khẩu rất có hiệu quả.
Bên cạnh đó, lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu tăng nhanh qua các năm. Năm 1999 là 302 triệu đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0389.doc