Đề án Bàn về các chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Chương I: Những vấn đề chung về DNNN và CPH 2

1.1 . Doanh nghiệp nhà nước 2

1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp Nhà nước 2

1.1.1.1. DNND là gì? 2

1.1.1.2. Quan niệm về DNNN trong nền KTTT ở Việt Nam 2

1.1.2 Đặc điểm của DNNN. 3

1.1.3 Vị trí vai trò của DNNN trong nền KTTT định hướng XHCN 4

1.1.3.1 Điều kiện hình thành DNNN. 4

1.1.3.2 Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. 4

1.1.3.3 Vai trò của DNNN. 5

1.2. Cổ phần hoá 6

1.2.1 Khái niệm Cổ phần hoá DNNN . 6

1.2.2 . Mục tiêu cổ phần hoá DNNN 7

1.2.2.1 Mục tiêu trực tiếp của cổ phần hoá DNNN. 7

1.2.2.2. Mục tiêu tổng quát của cổ phần hoá DNNN 9

1.3. cổ phần hoá DNNN cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. 10

1.3.1. Cơ sở lý luận. 10

1.3.2. Cơ sở thực tiễn. 11

Chương II. Thực trạng tiến hành cổ phần hoá DNNN 15

2.1. Tình hình thực hiện cổ phần hoá trong những năm qua 15

2.1.1.Những bước phát triển ban đầu. 15

2.1.1.1. Hình thành mô hình doanh nghiệp mới, gắn bó chặt chẽ quyền lợi và trách nhiệm. 15

2.1.1.2. Kết quả được nâng cao, lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân đều được đáp ứng. 16

2.1.2. Tiến trình chuyển DNNN thành các công ty cổ phần trong những năm gần đây. 17

2.1.2.1.Tình hình thực hiện. 17

2.1.2.2. Hạn chế trong việc thực hiện. 22

2.2. Mục đích đặt ra trong những năm sắp tới. 30

2.2.1. Quán triệt sâu sắc chủ trương chính sách và giải pháp đổi mới DNNN. 31

2.2.2. Giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công chương trình cổ phần hoá, giao, khoán, cho thuê DNNN. 32

2.2.3.Tích cực giải quyết các khoản nợ của DNNN thực hiện cổ phần hóa, giao, khoán, bán, cho thuê. 32

2.2.4. Hoàn thiện chính sách cổ phần hoá, giao khoán, cho thuê DNNN. 33

2.2.5. Tăng cường tổ chức chỉ đạo công tác cổ phần hoá, giao, khoán, bán, cho thuê. 34

2.3. Một số khó khăn gây trở ngại cho việc cổ phần hoá và nguyên nhân. 35

2.3.1. Chính sách CPH còn nhiều yếu tố bất hợp lý. 35

2.3.2. Khâu tổ chức còn yếu kém. 36

2.3.3. Những vướng mắc đối với người lao động: 37

Chương III: Một số chính sách nhằm đẩy mạnh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. 38

3.1. Các chính sách chung: 39

3.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý: 39

3.1.2. Tập trung chỉ đạo cải tiến, cải cách tổ chức thực hiện CPH. 40

3.2. Các chính sách cụ thể. 40

3.2.1 Chính sách tài chính -vốn. 40

3.2.2 Quản trị chiến lược. 41

3.2.3.Đẩy mạnh tuyên truyền, cổ động cho cổ phần hóa: 42

3.2.4. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực. 43

3.2.5 Một số chính sách khác. 43

Kết luận 46

Tài liệu tham khảo 47

 

doc54 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bàn về các chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thành tựu mới trong quản trị doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Thu hút được người ngoài xã hội tham gia quản lý, điều hành CTCP. - Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được tăng lên rõ rệt: hầu hết các DNNN CPH đều có chuyển biến tích cực, toàn diện, kể cả những doanh nghiệp trước CPH thua lỗ. Doanh thu bình quân hàng năm tăng trên 25% trong 6 tháng đầu năm 1999, có những CTCP đạt doanh thu gấp đôi của cả năm trước khi CPH. Lợi nhuận trước thuế bình quân hàng năm trên 26%, có công ty đạt lợi nhuận gấp 2-3 lần so với trước khi CPH. Nộp ngân sách tăng bình quân hàng năm trên 30%, một số công ty đạt gấp đôi so với trước khi CPH. Thu nhập hàng tháng của người lao động tăng. -Hình thành cơ chế phân phối mới ở các DNNN CPH theo hướng phát huy các nguồn lực trong điều kiện KTTT. Trước CPH, việc phân phối thu nhập ở các DNNN do Nhà nước trực tiếp quy định mang nặng tính binh quân. Sau khi chuyển thành CTCP, người lao động mua cổ phiếu và trở thành cổ đông, họ vừa là người chủ doanh nghiệp, vừa là người làm thuê. Điều đặc biệt trong các DNNN CPH đã hạn chế được tình trạng lãng phí, thất thoát vốn, giảm các chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khẳ năng cạnh tranh trong doanh nghiệp trên thị trường. Điển hình như khách sạn Phú Gia (Hà Nội) sau khi CPH đã tiết kiệm được hơn 50% tiền điện, gần 30% chi phí hành chính và vệ sinh. Đối với Nhà nước: Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới DNNN. -Vốn và tài sản Nhà nước không chỉ được bảo toàn mà còn tăng vốn đáng kể. Hàng năm Nhà nước thu được lợi tức từ cổ phần Nhà nước tại CTCP, các khoản lãi do cho người lao động vay mua chịu cổ phiếu, các khoản thuế mua từ thuế của CTCP. Do chuyển sang CTCP các doanh nghiệp làm ăn ngày càng hiểu quả hơn, Tính đến hết năm 1996, phần lợi tức Nhà nước thu được tại các DNNN đã CPH là 6.995 triệu đồng, tiễn lai do cho người lao động vay mua chịu cổ phiếu là 522 triệu đồng, nộp ngân sách Nhà nước của 16 CTCP đầu tiên đã hoạt động được trên một năm bình quân tăng 260% so với trước khi CPH. -Đổi mới nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, việc CPH DNNN đã thúc đẩy quá trình chuyển quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp từ trực tiếp sang gián tiếp thông qua các công cụ pháp luật, chính sách, thúc đẩy củng cố, nâng cao hiệu lực của hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước, nâng cao năng lực của quản lý kinh tế của đội ngũ cán bộ. Các cơ quan quản lý Nhà nước không còn vướng nhiều vào quản lý những nội dung như vốn, lao động, những tác nghiệp của CTCP như các DNNN trước đây mà tập trung nghiên cứu xây dựng môi trường pháp lý phù hợp nền KTTT định hướng XHCN. -Nhà nước không phải mất một khoản ngân sách để hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ hàng năm cho các DNNN đã CPH như các thời kỳ trước đây. -Sở hữu Nhà nước bước đầu được cấu trúc lại theo yêu cầu phát triển nền KTTT, tăng cường vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước. Qua bán cổ phiếu Nhà nước đã huy động được một lượng vốn quan trọng từ người lao động trong doanh nghiệp và trong dân cư vào đầu tư phát triển. Tại 370 DNNN đã CPH, tính đến hết năm 1999, Nhà nước đã thu hút được 1.349 tỷ đồng đầu để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH. CPH không chỉ cơ cấu lại sở hữu Nhà nước, hệ thống DNNN phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mà còn tạo điều kiện để Nhà nước đầu tư theo chiều sâu, đổi mới kỹ thuật, công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống DNNN, qua đó tăng cường vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước trong nền KTTT. Thông qua cổ phiếu của mình trong các CTCP và bằng luật pháp, chính sách của Nhà nước vẫn phát huy tốt vai trò điều tiết, định hướng nền kinh tế. Đối với người lao động: -Phát huy vai trò làm chủ của người lao động trong quản lý và hoạt động sản xuất- kinh doanh của DNNN. Trở thành cổ đông- người chủ sở hữu của doanh nghiệp, quyền lợi của người lao động găn chặt với sự phát triển của doanh nghiệp- vì vậy, khắc phục được những hiện tượng tiêu cực, vô trách nhiệm, lãng phí,vv...,căn bệnh hết sức nghiêm trọng trong cơ thế cũ. -Thu nhập của người lao động tăng lên. Trong DNNN CPH, ngoài tiền lương được trả gắn liền với sự đóng góp của doanh nghiệp, họ còn được hưởng lợi tức cổ phần mà mình góp vồn vào công ty. Do chuyển sang CTCP, doanh nghiệp kinh doanh có hiểu quả và ngày càng phát triển nên cả tiền lương và lợi tức cổ phần ngày càng tăng lên. Thu hút thêm lực lượng lao động xã hội. Sau CPH, lực lượng lao động trong doanh không không giảm đi mà còn tăng lên, các cán bộ công nhân viên của DNNN vẫn được tiếp tục làm việc tại CTCP. Theo số liệu ban đầu của doanh nghiệp TW, tính đến 20-10-1999, tại 270 DNNN CPH lao động tăng thêm bình quân 20% do mở rộng sản xuất, tăng thêm mặt hàng... Góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán cơ bản, có 5 chủ thể lớn, đó là người mua chứng khoán; người bán chứng khoán; người môi giới chứng khoán và kinh doanh chứng khoán; người điều hoà thị trường chứng khoán; người tổ chức hoạt động mua bán chứng khoán. Trong 5 chủ thể trên, chủ thể thứ nhất và thứ hai mang tính quyết định bởi lẽ ra nó là nhân tố ban đầu tạo ra thị trường chứng khoán. Nguồn cung cấp bao gồm: chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ chức tài chính, các DNNN, nhưng nguồn quan trọng nhất tạo nên sự chú ý cho người mua chứng khoán vẫn là cổ phiếu của các CTCP CPH DNNN nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong khu vực và thế giới, thúc đẩy quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tình hình thực hiện CPH được thực hiện thông qua hệ thống luật cải cách doanh nghiệp và nó đã có các hình thức CPH DNNN là: điều 3- NĐ số 64/2002/ NĐ-CP ngày 19/6/2002 -Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. Trong quá trình thực hiện, cần quan tâm đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp CPH: điều 7- NĐ số 64/ 2002/ NĐ-CP ngày 19/6/2002 Doanh nghiệp CPH có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng tối đa số lao động có tại thời điểm CPH và giải quyết các chế độ cho người lao động theo quy trình hiện hành. CTCP có trách nhiệm kế thừa mọi nghĩa vụ đối với người lao động từ DNNN chuyển sang; có quyền tuyển chọn bố trí sử dụng lao động và phối hợp với các cơ quan liên quan giải quyết chế độ cho người lao động theo quy định của pháp luật. CTCP được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã CPH để tổ chức sản xuất kinh doanh; kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của DNNN trước khi CPH và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Doanh nghiệp thành viên thuộc tổng công ty Nhà nước CPH mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối (trên 50% vốn điều lệ) thì vẫn là thành viên của tổng công ty. 2.1.2.2. Hạn chế trong việc thực hiện. Vì sao cổ phần hoá chậm. tạp chí tài chính số 32, tháng 9-10/1999. Trong thời gian gần đây tốc độ CPH diễn ra nhanh so với trước.Tính riêng 8 tháng đầu năm 1999 đã CPH được 98 doanh nghiệp, trong khi hơn 7 năm trước (từ tháng 5-1990 đến hết năm1998) chỉ CPH được 108 doanh nghiệp. Có thể nói đây là sự tiến bộ vượt bậc về CPH. Tuy nhiên, so với chỉ tiêu mà Chính Phủ đề ra cho năm 1999 là 400 doanh nghiệp thì mới chỉ đạt 24,5%. Như vậy tiến độ CPH vẫn còn rất chậm. Vì sao vậy? Về phía khách quan: Chúng ta tiến hành CPH DNNN trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện những bước quá độ từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền KTTT. Trong bối cảnh đó, các điều kiện khách quan cần thiết cho việc triển khai CPH còn nhiều bất cập; Trình độ xã hội hoá sản xuất chưa thật chín muồi Từ một nền sản xuất nhỏ, cái thiếu lớn nhất của ta là “ Cốt vật chất” của một nền kinh tế phát triển. Ngoài một số ít lĩnh vực và cơ sở kinh tế được trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, còn phần lớn là thủ công (hiện còn 54,3% số DNNN TW và 94% DNNN địa phương ở trình độ thủ công). Vì thế năng suất chất lượng, hiệu quả sản suất của ta còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới (mỗi ngày một người dân Việt Nam chỉ thu nhập khoảng 1USD, trong khi đó của Trung Quốc là 2,3 USD, Malaixia là 9,5 USD, Singapo 84USD, Hàn Quốc 16 USD. Phân công lao động xã hội ở trình độ thấp kém: hơn 70% lực lượng lao động và gần 80% dân số trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Năm 2000 cơ cấu GDP của ta còn rất lạc hậu: nông nghiệp chiếm 25,3%, công nghiệp chiếm 32,7%, dịch vụ 42% trong khi đó cũng vào năm này cơ cấu của Trung Quốc là 16,5%- 55,4%-28,3%; của Malaixia là 11,3%-45,8%- 42,9% ;của Hàn Quốc là 6,1%- 43,2%-50,6%. Trình độ kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng cho sản xuất rất yếu kém. Sản xuất điện của ta năm 2000 đạt 279 kwh, Philippin 510kwh, Thái Lan 1541 kwh và Singapo 8448 kwh. Nền kinh tế đó phản ánh tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất đang ở trình độ rất thấp. Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì ở nước ta chưa thực sự có những cơ sở điều kiện chín muồi để các hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất xã hội hoá rộng rãi như CTCP ra đời và phát triển. Nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành. Hiện có hơn 40000 doanh nghiệp và công ty, song hoạt động cũng chưa thực sự được thương mại hoá. Tính đến hết tháng 8-1999 mới có khoảng 400 CTCP. Như vậy số CTCP mới chiếm khoảng 1% trong tổng số doanh nghiệp hiện có của nền kinh tế. Điều đó chứng tỏ rằng hình thức CTCP chưa phải là phổ biến ở nước ta hiện nay. Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ.Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, lại nhiều năm vận hành trong cơ chế cũ, nên trình độ kiến thức và yếu tố tâm lý của ta còn bị ảnh hưởng nặng nề, chưa thích ứng với cơ chế mới. Theo điều tra mới đây của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội Số người có trình độ đại học,cao đẳng trở lên của ta chiếm 1,3% dân số (khoảng 1 triệu người). Số lao động giản đơn chiếm tỷ lệ rất cao:87,8%, trong khi số trình độ lao động có trình độ trung cấp và sơ cấp lại rất thấp khoảng 4% trong tổng số lao động hiện có. Kiến thức thiếu hụt nhất trong nhân dân và cán bộ ta hiện nay về KTTT, công nghệ, tin học và ngoại ngữ. Ngay cả đội ngũ giám đốc trong các DNNN cũng phần lớn chưa ngang tầm được giao.Qua khảo sat 506 DNNN có 37 giám đốc chưa tốt nghiệp văn hoá phổ thông, chỉ co 87 người sử dụng được ngoại ngữ nhưng chưa thành thạo. Đội ngũ này trình độ đào tạo mới chỉ được nâng lên về hình thức,vì vậy tri thức về, kinh doanh... chưa được chuyển tải kịp thời và đầy đủ cho đội nguc cán bộ doanh nghiệp. Đây là những lực cản không nhỏ đối với tiến trình CPH. Về mặt tâm lý xã hội: do bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của xã hội cổ truyền và những năm bao cấp, nên nhân dân ta còn mang nặng tâm lý “đồng tiền ăn liền khúc ruột”, chưa quen với đầu tư tiền vào mua cổ phiếu. Theo điều tra, ước tính của bộ kế hoạch và đầu tư và tổng cục thống kê, nguồn vốn trong dân hiện có từ 6-8 tỷ USD, trong đó 44% để dành mua vàng, ngoại tệ; 20% mua nhà, đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt; 17% tiền gửi tiết kiệm, chủ yếu loại ngắn hạn; chỉ có 19% dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, nhưng chủ yếu là đầu tư ngắn hạn. Các loại thị trường chưa phát triển đồng bộ. Hiện tại ta có thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường các yếu tố sản xuất khác như sức lao động, vốn... đang ở trình độ sơ khai, thị trường chứng khoán chưa hình thành. Theo logic của sự phát triển thì CTCP là sản xuất tất yếu của nến sản xuất xã hội hoá và của nền kinh tế thị trường phát triển. Nhưng ở nước ta, nền sản xuất đang trong giai đoạn đầu của xã hội hoá, nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành. Vì vậy các điều kiện kinh tế liên quan trực tiếp đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của CTCP, cũng như việc triển khai DNNN ở nước ta chưa phải đã hình thành đầy đủ và đồng bộ như ở các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển. Những hiện tượng như chụp giật, chiếm giật vốn của nhau, lừa đảo, tham nhũng, coi thường kỷ cương phép nước... đã có ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý đầu tư vào cổ phiếu của người có vốn. Thực tế, vốn trong dân có nhiều, nhưng do môi trường pháp lý chưa thật sự đảm bảo nên họ không dám đầu tư. b. Về phía chủ quan. Trong điều kiện chủ quan như trên, để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, song trong thời gian qua nhân tố này có nhiều vướng mắc. Thứ nhất, việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng. Điều này trước hết thể hiện ở một số nội dung trong đó các văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rõ ràng và thiếu tính hệ thống. Chẳng hạn: CPH là tự ng chưa làm tốt việc thâu suốt quan điểm, chủ trương CPH DNNN của Đảng và Nhà nước. Cho đến nay vẫn còn các cấp, ngành, địa phương chưa hưởng ứng tích cực chủ trương CPH vì cho rằng CPH chẳng khác gì tư nhân hoá, nó sẽ là chệch hướng XHCN, làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Từ đó họ do dự, chần chừ, chờ đợi, nghe ngóng thiếu chủ động. Một số bộ, tỉnh, thành phố xuất phát từ những lợi ích cục bộ, muốn có trong tay một số doanh nghiệp để chi phối nên cũng không muốn CPH. Họ sợ mất chức quyền, bổng lộc,lại phải lãnh trách nhiệm nặng nề hơn. Họ viện lý do củng cố, sắp xếp tổ chưc lại doanh nghiệp, để trì hoãn công việc này. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc phối hợp chỉ đạo giữa các cấp uỷ, chính đoàn thể không đồng bộ, thiếu thống nhất, làm cho CPH chậm trễ ngay từ khâu xây dựng phương án cơ sở. Công ty tuyên truyền vận động từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, trong cán bộ công nhân viên và toàn xã hội chưa được đẩy mạnh. Thậm chí đã có những công nhân đã mua cổ phần ở doanh nghiệp CPH, song cũng không hiểu biết về chủ trương này. Thực chất họ nộp tiền mua cổ phần là để tiếp tục được làm việc tại công ty. Họ không biết rằng họ dã trở thành cổ đông của công ty, rằng mình sẽ có quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng với số cổ phần mà mình mua vv....Tất cả những điều đó là do công tác tuyên truyền, vận động, giải thích về chủ trương CPH chưa được quán triệt, chưa làm đến nơi, đến chốn và đó là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến trình này.uyện hay bắt buộc đối với các DNNN? Giá trị đất đai có tính vào giá trị doanh nghiệp để CPH không? Trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong triển khai CPH như thế nào? Sự chậm trễ và lúng tung trong việc triển khai CPH còn thể hiện ở chỗ cho đến nay chính phủ vẫn chưa có chủ trương CPH tổng thể mang tầm vĩ mô cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân để làm căn cứ cho việc xác định tiến độ CPH; chưa có một đạo luật hay pháp lệnh CPH DNNN làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện, vẫn con những tỉnh chưa, thành phố chưa thành lập được ban chỉ đạo CPH. Thứ hai, chưa làm tốt việc thâu suốt quan điểm, chủ trương CPH DNNN của Đảng và Nhà nước. Cho đến nay vẫn còn các cấp, ngành, địa phương chưa hưởng ứng tích cực chủ trương CPH vì cho rằng CPH chẳng khác gì tư nhân hoá, nó sẽ là chệch hướng XHCN, làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Từ đó họ do dự, chần chừ, chờ đợi, nghe ngóng thiếu chủ động. Một số bộ, tỉnh, thành phố xuất phát từ những lợi ích cục bộ, muốn có trong tay một số doanh nghiệp để chi phối nên cũng không muốn CPH. Họ sợ mất chức quyền, bổng lộc,lại phải lãnh trách nhiệm nặng nề hơn. Họ viện lý do củng cố, sắp xếp tổ chưc lại doanh nghiệp, để trì hoãn công việc này. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc phối hợp chỉ đạo giữa các cấp uỷ, chính đoàn thể không đồng bộ, thiếu thống nhất, làm cho CPH chậm trễ ngay từ khâu xây dựng phương án cơ sở. Công ty tuyên truyền vận động từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, trong cán bộ công nhân viên và toàn xã hội chưa được đẩy mạnh. Thậm chí đã có những công nhân đã mua cổ phần ở doanh nghiệp CPH, song cũng không hiểu biết về chủ trương này. Thực chất họ nộp tiền mua cổ phần là để tiếp tục được làm việc tại công ty. Họ không biết rằng họ dã trở thành cổ đông của công ty, rằng mình sẽ có quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng với số cổ phần mà mình mua vv....Tất cả những điều đó là do công tác tuyên truyền, vận động, giải thích về chủ trương CPH chưa được quán triệt, chưa làm đến nơi, đến chốn và đó là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến trình này. Thứ ba, chế độ chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp CPH chậm được ban hành, sửa đổi và chưa đủ sức hấp dẫn.Theo nghị định 44/1998/NĐ-CP, các doanh nghiệp CPH được hưởng một số ưu đãi hơn các doanh nghiệp được CPH về mức vay, khoản nợ, xoá nợ tại ngân hàng thương mại, lại chưa nộp tiền thuê đất. Các DNNN được vay vốn bằng tín chấp của cơ quan Nhà nước, còn các doanh nghiệp được CPH phải thế chấp mới được vay...Thực tế này đã níu kéo các DNNN, không khuyến họ hưởng ứng CPH. Mặc dù chính phủ đã ban hành và sửa đổi nhiều chế độ, chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp CPH song đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc. Chẳng hạn việc thực hiện nghị định 44/1998/ NĐ-CP đã dẫn đến hiện tượng ở doanh nghiệp này người lao động được mua đủ 10 cổ phiếu ưu đãi cho một năm, nhưng ở doanh nghiệp khác người lao động chỉ được mua 6 cổ phiếu, 4 cổ phiếu thậm chí còn ít hơn. Bộ tài chính đã trình đề án thành lập quỹ hộ trợ sắp xếp và CPH DNNN để giải quyết tình trạng trên. 2.1.2.2.2. Khó khăn khi thực hiên cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Tạp chí quản lý Nhà nước. - Khó khăn đầu tiên đối với quá trình CPH DNNN là phản ứng từ một bộ phận lãnh đạo DNNN. Những người này sợ bị mất chức, mất quyền, sợ trách nhiệm, sợ phải đối mặt với thị trường nên đã không hang hai thực hiện CPH. Ngoài ra còn có một số quy định chưa đồng bộ và không khuyến khích người lãnh đạo doanh ngiệp tham gia CPH. Ví dụ: Việc xếp lương chức vụ đối với viêm chức quản lý doanh nghiệp, xác định phụ cấp...dựa trên cơ sở xếp hạng doanh nghiệp và hạng doanh nghiệp được đánh giá theo các tiêu chí về vốn, chủng loại mặt hàng kinh doanh, phạm vi hoạt động, hiểu quả sản xuất kinh doanh (doanh thu, nộp ngân sách Nhà nước, lợi nhuận...). Khi DNNN CPH đơn vị thành viên hay tổng công ty CPH doanh nghiệp thành viên thì các tiêu chí nêu trên của doanh nghiệp hay tổng công ty đều có xu hướng giảm xuống,... và doanh nghiệp sẽ bị xuống hạng, làm giảm mức lương, phụ cấp của người lãnh đạo. Do vậy, họ không muốn CPH bộ phận doanh nghiệp hoặc CPH doanh nghiệp thành viên của tổng công ty. -Một số quy định ưu đãi đối với DNNN CPH ít đi vào thực tế do chưa đảm bảo tính đồng bộ giữa các văn bản pháp lý. Mặc dù có quy định doanh nghiệp CPH tiếp tục được vay vốn tín dụng ngân hàng theo cơ chế và lãi suất như DNNN, nhưng thực tế doanh nghiệp CPH gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực này. Ví dụ: trong một số trường hợp khi doanh nghiệp CPH muốn vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất, kinh doanh thì phải có ý kiến của cơ quan chủ quản, nhưng doanh nghiệp đã CPH nên không có cơ quan chủ quản và như vậy doanh nghiệp không thẻ vay được vốn của ngân hàng. Người lao động có tâm lý chung sợ mất việc làm sau khi doanh nghiệp CPH, sợ sự phân biệt đối xử giữa khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Nhà nước... Tuy quan niệm Xã hội đã có nhiều thời thay đổi nhưng định kiến về vị trí người lao động làm việc trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn khá nặng nề. Thực tế người lao động trong DNNN được chia lợi tức của doanh nghiệp thông qua việc họ được hưởng và các khoản phúc lợi từ lợi tức của doanh nghiệp dù họ không phải đóng góp vốn, nhưng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh người lao động không được chia lợi tức nếu hộ không góp vốn. Việc sa thải lao động trong DNNN khó hơn nhiều so với việc sa thải lao động không muốn CPH. Nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành, địa phương đã không tích cực triển khai việc CPH bởi vì họ không muốn mất đầu mối quản ly, giảm quyền lực đối với những DNNN này. -Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp và giá bán cổ phần của doanh nghiệp còn nhiều bất hợp lý. Theo quy định hiện hành, việc xác định giá trị doanh nghiệp mới tính đến giá trị tài sản và lợi thế kinh doanh trong quá khứ và hiện tại. Trên thực tế, còn có doanh nghiệp bất lợi thế nhưng quy định hiện hành không khấu trừ bất lợi vào trong giá trị doanh nghiệp. Giá bán cổ phần của doanh nghiệp cũng có những điểm bất cập. Hiện tại, việc xác định giá trị doanh nghiệp đồng nghĩa với việc xác định giá bán. Do đó, giá bán mang tính áp đặt mới chỉ cá các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và doanh nghiệp tham gia định giá, còn người mua thụ động và lệ thuộc vào quyết định của người bán. - Một điểm nữa trong việc xác định giá bán doanh nghiệp là chưa tính đầy đủ đến yếu tố lao động. Với các điều kiện khác tương tự như nhau thì giá của doanh nghiệp có nhiều lao động dôi dư phải khác giá của doanh nghiệp ít hoặc không có lao động dôi dư. Theo quy định hiện hành, Doanh nghiệp CPH phải đảm bảo sử dụng hết lao động của doanh nghiệp trong thời gian ít nhất là một năm. Như vậy, lao động là một yếu tố mà nhà đầu tư xem xét khi quyết định mua cổ phần của doanh nghiệp. Như hiện nay cách định giá doanh nghiệp chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư mua cổ phần. Quy định việc phân bổ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận trên vốn năm nay không thấp hơn năm trước đã gây khó khăn đối với doanh nghiệp CPH bộ phận hoặc tổng công ty CPH doanh nghiệp thành viên, bởi vì bộ phận hoặc doanh nghiệp thành viên tiến hành CPH thường là những đơn vị kinh doanh tốt và do đó sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận trên vốn của doanh nghiệp hoặc tổng công ty sau CPH. - Chưa có chính sách công khai hoá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã CPH để tạo lòng tin cho các doanh nghiệp chuẩn bị CPH và các doanh nghiệp khác trong diện CPH 2.1.2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế. a. Nguyên nhân khách quan. - Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp. Đại bộ phận cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình độ thấp máy móc cũ, kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, quy mô nhỏ bé. Bộ phận lao động thủ công vẫn còn chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn xã hội. Trình độ phân công lao động xã hội còn rất thấp, hơn 70% lao động và 80% dân số thuộc lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Nông nghiệp chủ yếu là cây lúa, cây công nghiệp mới được chú trọng phát triển, công nghiệp chế biến phát triển chậm, tỷ trọng nông sản hàng hoá thấp so với tổng khối lượng sản phẩm nông nghiệp, nhiều vùng còn mang tính tự túc tự cấp. - Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành. Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền KTTT với điểm xuất phát thấp và chịu ảnh hưởng rất nặng nề của cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp. Các hình thức tổ chức của KTTT đang trong quá trình hình thành. Cả nước có hơn 40000 doanh nghiệp và công ty, nhưng quy mô nhỏ và hoạt động của chúng chưa thực sụ được thương mại hoá. Tính đến hết năm 2000 cả nước mới chỉ có 396 doanh nghiệp CPH. - Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ. Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, lại qua nhiều năm vận hành theo cơ chế tập trung, quan liên, bao cấp nên cả trình độ văn hoá cũng như chuyên môn và tâm lý xã hội bị hạn chế và ảnh hưởng nặng nề, chưa thích ứng với yêu cầu phát triển cơ chế thị trường. Về mặt tâm lý xã hội, do nền kinh tế kém phát triển, lại sống trong chế độ bao cấp nhiều năm, nên tâm lý kinh doanh, đầu tư, nhất là kinh doanh vốn, tiền tệ, như đầu tư và mua cổ phiếu vẫn là vấn đề rất xa lạ với đại đa số dân cư. Theo điều tra và ước tính của bộ kế hoạch và đầu tư, tổng cục thống kê, số tiền để dành trong dân cư trong thời điểm năm 2000 có từ 6 đến 8 tỷ USD, trong đó 44% để mua vàng, 20% mua nhà đất và cải thiện đời sống sinh hoạt; 17% gửi tiết kiệm; chỉ có 19% được sử dụng vào các dự án đầu tư, nhưng chủ yếu là ngắn hạn. Bên cạnh đó, những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, chụp giật, lừa đảo chiếm đoạt tài sản...xảy ra phố biến và nghiêm trọng cùng với môi trường pháp lý không hoàn thiện đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý đầu tư vào cổ phiếu của người dân. Tóm lại, các điều kiện kinh tế xã hội liên quan trực tiếp đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của CTCP cũng như triển khai CPH DNNN ở Việt Nam chưa phải đã hình thành đầy đủ và đồng bộ. b. Nguyên nhân chủ quan. - Nhận thức về vai trò của DNNN trong nền KTTT chưa thống nhất. Không ít ý kiến vẫn coi trọng số lượng hơn chất lượng - Chưa làm tốt việc tuyên truyền về chủ trương CPH DNNN của đảng và chính phủ. Công tác tuyên truyền chưa được quan tâm đúng mức, nội dung và hình thức tuyên truyền chưa phù hợp nên chưa thống nhất được nhận thức về CPH DNNN trong toàn đảng, toàn dân. Nhiều người cho rằng CPH chẳng khác gì tư nhân hoá, nảy sinh tư tưởng sợ chệch hướng XHCN, chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc CPH DNNN. Vì vậy, chủ trương CPH DNNN chưa được các cấp, các nghành, địa phương hưởng ứng tích cực. - Đặt lợi ích cục bộ lên lợi ích quốc gia. Các địa phương, bộ, ngành, tổng công ty vẫn muốn có trong tay mình một số DNNN đáng kể để chi phối, nên CPH- tức là mất quyền mất lợi ích. Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp, bí thư đảng uỷ tỏ ra lo ngại CPH, vì sợ mất quyền lực, chức tước và lợi ích, mất đặc quyền, đặc lợi,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35679.doc
Tài liệu liên quan