Đề án Bàn về việc sử dụng màu sắc nhằm nâng cao hiêụ quả quảng cáo cho sản phẩm may mặc ở Việt Nam

 

MỤC LỤC

trang

Lời mở đầu 1

Chương I

2 Khoa học màu sắc trong quảng cáo

Tổng quan về màu sắc

ánh sáng và màu sắc

thuyết nhìn màu của một số tác giả

II Cảm nhận màu sắc dưới tác động văn hoá 8

III Vai trò của màu sắc trong quảng cáo 11

1 Thực trạng của việc sử dụng màu của các nhà thiết kế quảng cáo 11

2 Vai trò đối của những người có nhu cầu quảng cáo 12

3 Vai trò đối với nhận thức của đối tượng nhận tin 13

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DUNG MÀU SẮC TRONG QUẢNG CÁO SẢN PHẨM MAY MẶC Ở VIỆT NAM 14

I Thực trạng quảng cáo sản phẩm may mặc ở Việt Nam những năm qua 14

1 Sơ lược về thị trường may mặc ở Việt Nam những năm qua 14

2 Thực trạng quảng cáo sản phẩm may mặc ở Việt Nam những năm qua 18

II Thực trạng của việc sử dụng màu trong quảng cáo sản phẩm may mặc ở Việt Nam 20

1 Phân tích thực trạng của việc sử dụng màu trong quảng cáo sản phẩm may mặc ở Việt Nam 20

2 ưu và nhược điểm của việc sử dụng màu trong quảng cáo sản phẩm may mặc ở Việt Nam 23

CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VIỆC SỬ DỤNG MÀU TRONG QUẢNG CÁO SẢN PHẨM MAY MẶC Ở VIỆT NAM 25

KẾT LUẬN 28

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bàn về việc sử dụng màu sắc nhằm nâng cao hiêụ quả quảng cáo cho sản phẩm may mặc ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yết Hurvich-jameson. (Leo.M. hurvich và Dorothea Jaméon). Lý thuyết này kết hợp các yếu tố của lý thuyết Young-Helmholtz và lý thuyết Hering. Ba tế bào phản ứng riêng lẻ hình nón trong lý thuyết Yung – Helmholtz được kết hợp trong mô hình này. Các phản ứng của mỗi tế bào hình nón này rất rộng, tuy nhiên chỉ có những đỉnh điểm tại các bước sóng 450nm, 530nm và 560nm. Vì thế thay vì gọi chúng là các điểm tiếp nhận màu Red – Green – Blue, hay gọi chính xác hơn là các tiếp nhận các bước sóng ngắn, trung bình và dài. ý tưởng đối lập trong lý thuyết Hering được kết hợp lại ở cấp độ tế bào thần kinh. Một số tế bào thần kinh luôn luôn ở trong tình trạng hoạt động dù không có sự kích thích. Nếu được kích thích thì tần số rung động của chúng tăng lên và nếu ngừng kích thích thì tần số rung sẽ giảm. Vì thế hai loại thông tin đối lập nhau có thể được truyền dẫn bởi một dây thần kinh. Người ta cho rằng các tế bào hạch hoạt động như các tế bào đối lập (mỗi tế bào hạch được nối với ba tế bào hình nón). Lý thuyết qui trình đối lập đã có những giải thích đáng tin cậy cho sự cảm nhận màu sắc không bình thường cũng như các dư ảnh âm và sư tương phẩn đồng thời. Các yếu tố như tương phản màu đồng thời và tương phản biên diễn tả một khía cạnh khác của sự cảm nhận màu vốn rất quan trọng đối với sự phục chế màu. Tương quan màu đồng thời là một phản ứng xẩy ra khi các màu giống nhau có vẻ khác nhau khi chúng có các màu viền khác nhau. Tương phản màu biên xẩy ra khi hai tông gặp nhau để có độ tương phản cao hơn ở biên. Lời giải thích cho những phản ứng này bắt đầu từ thực tế là võng mạc được tạo thành bởi các nhóm tế bào có cùng đặc tính được gọi là các vùng cảm nhân. Các vùng này có kích thước thay đổi, những vùng gần vùng trung tâm bằng khoảng 1/20 kích thước của những vùng nằm ở rìa mắt. lý thuyết về quy trình đối lập của sự cảm nhận màu sắc cho rằng tạo thành những ảnh hưởng tương phổ đơn phương. Do đó trung tâm của vùng tiếp nhận có thể cảm nhận màu Red, trong khi vùng biên có thể ghi nhận màu Green, nên nếu màu Red này bao quanh một chấm màu Green thì chấm này trông sẽ mạnh mẽ hơn một chấm tương tự nhưng trên nền trung tính bởi vì ảnh hưởng của màu Red mạnh hơn ảnh hưởng của màu Green. Những loại tác động tương hỗ như thế cũng được đưa ra để giải thích sự thay đổi rõ ràng về mật độ tại các biên của hai tông màu xám kề cận nhau. II. Cảm nhận màu sắc dưới tác động văn hóa Màu sắc không chỉ đơn giản là một hiện tượng vật lý lệ thuộc vào mỗi vật nguồn chiếu sáng. Nó nhất thiết phải là sự phức tạp có thể thấy được bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm sinh lý, có thể làm cho sự cảm nhận của người này hơi khác với người kia. Tuy nhiên, sự cảm nhận về màu sắc của mỗi người còn có sự tác động rất lớn của nền văn hoá mà anh ta đang chịu ảnh hưởng. Màu sắc tác động đến tâm tư tình cảm của mỗi con người, cụ thể như màu sắc sáng, tươi tạo cảm giác dễ chịu, màu tối sẫm trông u buồn. Tác dụng của nhiều màu sắc khác nữa cần được nhận dạng cho thật đầy đủ, chính xác. Ví dụ như ở phương Tây và Mỹ người ta quan niệm màu trắng tượng trưng cho sự tinh khiết, trong trắng và sạch sẽ nên cô dâu mặc đồ trắng. Phương Đông trong đó có Việt Nam thì coi màu trắng như sự thất bại, chết chóc và lạnh gía nên nhà nào có ma chay thì mới mặc đồ tang trắng mỏng, người chết được liệm bằng vải trắng. Ngày nay cô dâu mặc đồ trắng trong ngày cưới là do bị ảnh hưởng của phương Tây. Như vậy, chúng ta có thể phân tích tác động của văn hoá Việt Nam tới sự cảm nhận về màu sắn của mỗi người như sau. Đỏ Màu đỏ tượng trưng cho nhiều may mắn và hạnh phúc, đỏ là chỉ sức mạnh, có danh vọng. Theo truyền thống, cô dâu mặc áo cưới màu đỏ thắm, ngày tết cho tiền đựng trong bao lì xì màu đỏ. Theo quan niệm xưa, khi mặt trời ló dạng ở đường chân trời, là lúc bình minh lên, đây là thời khắc đẹp nhất trong ngày và màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh của đất trời. Người Việt nam quan niệm về màu đỏ cũng khá phức tạp, nếu là màu đỏ tươi thì nó không được coi trọng vì nó thể hiện sự trơ tráo, không chung thuỷ. Xong nếu là màu đỏ sẫm lại được người Việt nam rất coi trọng vì nó là màu lá quốc kỳ Việt nam, biểu tượng cho ý chí cách mạng. Các bằng cấp, chứng chỉ nếu là đỏ sẫm hoặc là màu đỏ tía thì chứng tỏ chủ nhân của nó đã học tập và nghiện cứu với kết quả xuất sắc. Vàng Do màu vàng thuộc hành thổ trong âm dương ngũ hành, là màu của trung tâm đất trời. Nên màu vàng tượng trưng cho sức mạnh và quyền lực, vì thế các vua chúa và các công tử ngày xưa đã chiếm lấy màu vàng cho riêng mình, các đồ vật dụng của họ đều được trang trí bằng màu vàng. Ngày nay tại trụ sở của các cơ quan chính quyến nhà nước đều được sơn màu vàng cho ngôi nhà, điều này nhằm để tạo sự uy nghiêm và sức mạnh của quyền lực. Tuy nhiên, nếu là màu vàng thuần khiết thì không được người Việt nam tôn trọng lằm vì nó gắn liền với sự tàn lụi của mùa thu. Màu đen Quan niệm về màu đen của người Việt nam và các dân tộc khác trên thế giới là khá giống nhau. Theo đúng nghĩa tên gọi của màu đen hoặc các vật thể có màu sẫm tối, nó tạo cảm giác sâu thẩm, thâm trầm cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Màu đen là biểu hiện của sự không tốt lành, tang tóc và tội ác. Tuy nhiên ngày nay , trong một số trường hợp màu đen còn biểu hiện sự sang trọng và quý phái. Màu xanh lá cây Đây là màu chỉ sự tươi tốt của cây rừng, tượng trưng cho mùa xuân, hy vọng, màu của hoà bình và tuổi trẻ. Một đặc tính rất quan trọng của màu xanh lá cây là nó tạo ra một cảm giác thư giãn và thoải mái đầu óc. Màu này rất tốt cho những người làm công việc căng thẳng trí óc, nên họ thường tìm cho mình những khoảng không gian của mùa xuân để ngắm và thư giãn. Màu nâu Màu này gợi nên cảm giác nặng nề, xong nó còn để chỉ một lập trường kiên định, không thay đổi, màu nâu còn tượng trưng cho sự bền bỉ, chắc chắn nên ở châu Âu, người ta thường sơn ngôi nhà bằng màu nâu để gợi một ý tưởng xa xôi, tồn tại về lâu về dài. Màu này cũng hợp với người cao tuổi, nó trông cũng lịch sự, phong nhã. Người Việt nam coi màu nâu là màu của sự giản dị, sạch sẽ, uyên bác. Màu hồng Màu này tượng trưng cho tình ái, tâm tư trong sáng, niềm vui, sung sướng, lãng mạn và mơ mộng. Những người đang yêu thường hay sử dụng màu này để thể hiện với người bạn tình của mình. Phòng ngủ của những cặp vợ chồng mới cưới cũng sử dụng màu hồng cho những vật dụng như chăn, gối, ga chải… Một số màu khác như: màu lục tượng trưng cho sự thanh bình, hy vọng và tươi tốt. Màu lục cũng thuộc vào hành thổ trong âm dương ngũ hành nên nó còn tượng trưng cho mùa xuân, đất tốt cây cỏ luôn xanh tươi. Màu tía cũng tượng trưng cho điềm lành, màu mà cũng được nhiều người tôn sùng, một màu may mắn hơn màu đỏ. Còn màu da cam, đây là màu phối hợp giữa màu đỏ và vàng, nó chỉ điều lành, được hưởng cuộc sống yên vui , có nhiều quyền hành. Màu hoa anh đào là màu rất gợi cảm, cũng là màu của tình yêu, nhưng màu anh đào chỉ hợp với những người còn sống độc thân, bởi nó rất quyến rũ và gợi tình người khác giới. Màu này không hợp với những người đã có gia đình vì nó dễ gây ra ngoại tình. III. vai trò của màu sắc trong quảng cáo Thực trạng về sử dụng màu của các nhà thiết kế quảng cáo. Thực tế màu sắc nó nói lên nhiều về sản phẩm quảng cáo, điều đó đã làm cho các nhà thiết kế quảng cáo phải đi sâu và tìm hiểu cặn kẽ các yếu tố của màu sắc để có thể đưa ra sự nổi bật đặc trưng của sản phẩm cũng như biểu tượng của công ty. Những nhà thiết kế cố gắng làm cho màu sắc của sản phẩm tác động đến đối tượng nhận tin thông qua bộ não. Họ đã kết hợp được những gam màu lại với nhau có sự hài hoà. Chính vì thế trong mỗi phương tiện quảng cáo riêng biệt họ đã có những cách sử dụng màu sắc khác nhau để có thể đạt được những chương trình quảng cáo tốt nhất. Cụ thể xét về quảng cáo trên truyền hình, cùng với sự phát triển của thông tin đại chúng hiện nay, truyền hình đã có vị trí trung tâm, trọng yếu trong cơ cấu truyền thông đại chúng. Nó đã trở thành phương tiện cần thiết cho mọi gia đình. Hầu như ngày nay ai cũng xem truyền hình một cách đều đặn, dù ở lứa tuổi nào, địa vị xã hội nào. Truyền hình là phương tiện truyền tải thông tin có khả năng xâm nhập vào mọi thị trường khác nhau, mọi khách hàng khác nhau. Truyền hình có thể gây chú ý tới tất cả mọi người, không kể tuổi, giới tính, nghề nghiệp, mức thu nhập, trình độ văn hoá…Chính vì vậy các nhà thiết kế đã tận dụng được ưu điểm này, khai thác triệt để các yếu tố sử dụng màu cho sản phẩm quảng cáo vào trong truyền hình. Những sản phẩm quảng cáo có màu sắc phong phú đã được truyền hình gợi tả một cách sinh động, nêu nên đặc trưng cho sản phẩm: Chẳng hạn chương trình quảng cáo bia, các nhà thiết kế đã đưa màu vàng, chính màu vàng đặc trưng này đã giúp cho đối tượng cảm thấy bia được chưng cất từ những hạt lúa mỳ. Hay chương trình quảng cáo Cool-air hương vị bạc hà với màu xanh bạc hà, nó tạo cảm giác mát lạnh cho sản phẩm cho dù đối tượng chưa cần dùng đến sản phẩm…Bên cạnh đó quảng cáo trên truyền hình các nhà thiết kế đã tạo cho người xem một tâm lý thoả mái và thư giãn. Quảng cáo qua báo tạp trí, hiện nay báo trí đang là phương tiện thông tin đại chúng được sử dụng rất rộng rãi và có hiệu quả. Nó không chỉ được coi như một phương quảng cáo chủ yếu mà còn được ưu tiên như một phương tiện quảng cáo công cộng. Quảng cáo qua báo trí có thể lựa chọn và có thể cung cấp thông tin rộng rãi. Báo trí vừa có tính chất toàn quốc vừa có tính chất địa phương, điều này đã tạo cho nó những ưu thế mà các phương tiện khác không có được. Chính vì thế ngày nay báo trí đã được coi là phương tiện truyền tải thông điệp quảng cáo nhiều màu hết sức hữu hiệu, các nhà thiết kế đã chọn lọc màu sắc cho từng loại, chỗ nào cần sử dụng ít màu, chỗ nào cần sử dụng ít màu. Các nhà thiết kế quảng cáo đã hiểu rằng không phải tất cả những chương trình quảng cáo một sản phẩm nào đó cũng có rất nhiều màu là thành công. Có khi chỉ cần hai màu đen trắng cũng có thể làm nổi bật lên sản phẩm (quảng cáo trên báo). 2. Vai trò đối với những người có nhu cầu quảng cáo. Trong thực tế có rất nhiều trong số họ có khái niệm sơ sài về màu sắc trong quảng cáo, họ cũng chỉ như đối tượng nhận tin. Tức là họ chỉ biết cảm nhận cái đã được tạo từ các nhà thiết kế mà không biết nó đã được làm thế nào. Nhưng khác đối tượng nhận tin ở chỗ họ đã giao phó toàn bộ những công việc này cho các nhà thiết kế quảng cáo, đôi khi họ cũng chỉ có một chút ít tác động đối với các nhà thiết kế. Dẫn đến họ thường bị động trong việc tạo màu sắc đặc trưng cho sản phẩm của công ty mình khi đưa ra quảng cáo. Tuy nhiên cũng có một số người có nhu cầu quảng cáo, họ đã nêu ra được ý tưởng cho sản phẩm của họ. 3. Vai trò đối nhận thức của đối tượng nhận tin. Cách duy nhất để khán giả tiếp cận những thông tin trong mục quảng cáo là sự nhận thức. Nhận thức là quá trình chú ý, tiếp nhận thông tin ở một chừng mực nào đó và sau đó diễn dịch thông điệp vừa nhận được. Sự tiếp nhận thông tin ở đây là tiếp nhận qua từ ngữ, hình ảnh, lời thoại,màu sắc…nhưng ở đây ta đề cập sự tiếp nhận màu sắc của của một chương trình quảng cáo. Sự tiếp nhận có thể sẽ được diễn dịch đúng đắn (đúng theo sự mong đợi của doanh nghiệp). Tuy các nhà thiết kế đã cố gắng đưa màu sắc cho sản phẩm quảng cáo sinh động diễn tả được sản phẩm, thực tế đối tượng nhận tin có người hiểu được màu sắc nói nên ý nghĩa của sản phẩm, nhưng vẫn vòn rất nhiều người không nhận thức được màu sắc của chương trình quảng cáo họ hiểu sai lệch, nhầm sang một ý đồ khác. Quá trình nhận thức khởi đầu bằng thông điệp quảng cáo, đó là lý do tại sao doanh nghiệp đã chi hàng triệu đôla để chen quảng cáo vào những chương trình tivi phù hợp với khán giả tiềm năng, những chương trình quảng cáo màu sắc hết sức sinh động, bắt mắt. Có những kênh thông tin mà người ta chủ động tránh né như trên truyền hình chẳng hạn, người xem có thể bỏ đi nơi khác khi tivi đến chương trình quảng cáo hoặc chuyển sang các chương trình khác, nhưng họ rất khó lòng không dán mắt vào các bảng quảng cáo ngoài trời mỗi khi đi qua một đoạn đường nào đó. Thực tế cho thấy đối tượng nhận tin ngày nay thường có những khuynh hướng sau. Người xem có khuynh hướng đơn giản hoá những thông tin trên quảng cáo. Điều này cho thấy những quảng cáo qua phức tạp, khó hiểu, khó liên kết là những quảng cáo đễ bị nhầm nhất, có những quảng cáo xem xong vẫn chưa biết là quảng cáo cái gì. Người xem có khuynh hướng tập chung vào tình huống duy nhất gọi là chủ đề phần còn lại gọi là nền thường bị lãng quên. Chủ đề quảng cáo là các sản phẩm còn các khung cảnh, con người xung quanh là nền. Có những quảng cáo quá chú ý tới mô tả phần nền làm cho người xem không chú ý hay quên phần chủ đề. Người xem có khuynh hướng liên tưởng sản phẩm với những gì gần gũi với mình về mặt vật chất. Ví dụ một sản phẩm quảng cáo ngay sau chương trình tin thế có thể có hiệu ứng không lường trước được nếu như trong chương trình đó có cảnh tai nạn, chết chóc hay nhữn tin xấu. Người xem có khuynh hướng tự mình suy diễn để đi đến kết luận riêng nếu như quảng cáo có kết thúc mở (một hình thức kết do người xem tự tưởng tượng ra). Có thể họ tự đặt ra thêm một câu tiếp theo cho lời quảng cáo hoặc tự hỏi bỏ ngỏ câu này là gì, hay tự nảy ra một hình ảnh nào đó tiếp theo hình ảnh họ vừa xem trong phim quảng cáo hoặc tự hát theo giai điệu chưa kết thúc…Việc nhận thức này làm cho người xem tự nhận thức được sản phẩm tốt hơn. Bởi vì đối tượng nhận tin là tất cả mọi người từ nam nữ, trẻ già nên có rất nhiều cách cảm nhận khác nhau về màu sắc của sản phẩm được quảng cáo. Nhưng để nói về nó thì ta phải chia theo từng độ tuổi. Tuổi thiếu nhi, màu sắc đã được hình thành nhưng chúng chỉ được dựa theo cảm tính. Nên chúng thường cảm nhận sản phẩm quảng cáo phải có nhiều màu sắc phong phú. Tuổi thanh niên, theo như nghiên cứu hành vi, ở độ tuổi này họ ưa hoạt động, không muốn bị ràng buộc trong một khuôn khổ nhất định nào. Chính vì vậy hành vi của họ rất thất thường nên màu sắc của họ thay đổi bất cư lúc nào. Nó thay đổi theo mùa vụ, và họ luôn chạy theo mốt, cho nên màu sắc sản phẩm của họ cần phải có sự mạnh mẽ. Điều đó cần từ nhà thiết kế phải luôn cho ra đời các màu sắc mới mẻ, trẻ trung, sôi động trong sản phẩm luôn đi theo họ. Tuổi trung niên, đây là một lứa tuổi ổn định về tâm lý nên hành vi tiêu dùng của họ cũng ổn đinh, họ không ưa thích sự thay đổi nhiều mà cái họ cần lúc này là màu sắc cần phải tôn vinh địa vị cuả họ và họ cũng cần nữa ở màu sắc phải mang lại cho họ sự trẻ trung. Người cao tuổi rất khắt khe trong việc lựa chọn màu sắc. Và màu sắc của sản phẩm đối với họ phải có tính giáo dục cao. Chương II: Thực trạng sử dụng màu sắc trong quảng cáo sản phẩm may mặc ở Việt Nam 1. Sơ lược về thị trường thời trang may mặc ở Việt Nam hiện nay. Dệt và may mặc Việt nam hiện nay đang được coi là một trong những nghành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Bởi nghành này đã và đang mang lại rất nhiều lợi ích kinh tế và xã hội cho đất nước như giải quyết công ăn việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia… nên cũng được Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng, quan tâm đầu tư và khuyến khích phát triển. Nhất là việc đổi mới, nâng cấp công nghệ, nâng cao tay nghề công nhân và trình độ quản lý của cán bộ nhằm đưa nghành dệt may Việt nam phát triển ngang tầm với các nước tiên tiến trên thế giới. Vì vậy mà từ những năm đầu thập niên 90 trở lại đây tổng sản lượng của nghành đã không ngứng tăng lên. cụ thể là: Bảng 1. Sản lượng sản phẩm công nghiệp chủ yếu Tên sản phẩm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1998 2000 Sơ bộ 2001 Vải lụa (triệu m) 280 272 215 226 263 285 299 315 322 356 379 Quần áo dệt kim (tr cái) 26,1 18,0 31,4 28,7 30,2 25,3 25,1, 29,4 34,5 45,8 47.7 Quần áo may sẵn (tr cái) 106,1 104,4 90,9 121,0 172,9 207,0 302,2 275,0 304,4 339,2 351,4 Theo số liệu của Thời báo Kinh tế Việt nam (VietNam Economic Times) kinh tế năm 2001- 2002 tr51. Cùng với việc mở cửa nền kinh tế với phương châm "Việt nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới" và "hợp tác hai bên cùng có lợi" đã tạo điều kiện rất tốt cho nghành dệt may Việt nam vươn ra thị trường quốc tế. Do đó, tổng kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may kể từ năm 1991 đến nay đã tăng lên đáng kể. Cụ thể là: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu hàng dệt may (triệu USD) 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 117 190 239 476 850 1.150 1.503 1.450 1.747 1.892 2.000 Thời báo Kinh tế Việt nam - Kinh tế 2001 - 2002, tr52 Bảng.2 EU là thị trường tiêu thụ lớn nhất của hàng dệt may Việt nam. Tổng kim nghạch xuất khẩu sang EU đã liên tục tăng trong suốt từ năm 1994 trở lại đây. Số liệu dưới đây sẽ cho ta thấy rõ điều này : Năm Xất khẩu vào EU (triệu USD) 1994 289 1995 355 1996 428 1997 400 1998 546 1999 605 2000 650 Trích Kinh tế và Dự báo số 2/2002, tr14 Bảng. 3 Trong 6 tháng đầu năm 2002 hàng dệt may đã có gía trị xuất khẩu lớn đứng hàng thứ hai sau dầu thô và nó nằm trong top 5 mặt hàng xuất khẩu cao nhất Việt nam. Năm mặt hàng xuất khẩu cao nhất (sáu tháng đầu năm 2002 đơn vị triệu USD) Dầu thô Hàng dệt và may mặc Giày dép Thuỷ sản Gạo 1.482 990 877 816 343 Trích Thời báo kinh tế Sài Gòn số 29/2002 ra ngày 11/07/02, tr7. Như vậy, để đạt được vị thế như ngày hôm nay toàn nghành đã không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên về mọi mặt, trong đó không thể không kể tới các chiến lược quảng cáo và quan hệ công chúng của các doanh nghiệp trong nghành. Sự đúng đắn trong các chiến lược quảng cáo ở trong nước cũng như quốc tế của họ đã góp phần tạo nên những thành công của ngày hôm nay. Tuy những chiến dịch quảng cáo của họ không rầm rộ, không tốn kém như các chiến dịch quảng cáo của bia TIGER, HINIKEN, COCA - COLA hay nước giả khát quốc tế PEPSI cola… nhưng vì những thông điệp quảng cáo của Cty Dệt May Việt nam vừa nhằm đúng đối tượng nhận tin mục tiêu, vừa tạo ra nhu cầu cho họ, khuyến khích họ phải hành động ngay. Vì vậy, những chiến dịch quảng cáo đó đã mang lại hiệu quả rất cao trong kết quả sản xuất kinh doanh của ngành Dệt may Việt nam, điều này được thể hiện qua các số liệu thống kê ở trên. Hà Nội với số dân hiện nay đã lên tới trên 2,7 triệu người, cùng với mức thu nhập thuộc vào dạng cao nhất trong cả nước. Nên đây được coi là một thị trường rất lớn và đầy tiềm năng đối với tất cả các doanh nghiệp sản xuất cũng như kinh doan dịch vụ, đặc biệt là với nghành dệt may và thời trang. Bởi hiện nay, nhu cầu về làm đẹp của người dân Thủ đô rất cao và những đòi hỏi về bộ trang phục của mình cũng rất khắt khe, vì thế mà không có doanh nghiệp nào có thể kham nổi tất cả những nhu cầu đó của thị trường, mà họ phải tự phân chia ra từng khúc thị trường để phục vụ. Có như vậy họ mới có thể làm tốt những đòi hỏi của thị trường thí dụ như Cty TNHH Dệt Thái Tuấn đã xác định đối tượng phục vụ của mình là phụ nữ, nên Cty chuyên sản xuất các loại vải thời trang cao cấp như: Gấm, Phi, Lụa, Voan… Cty SX&DVXK Nguyễn Hoàng đã xác định đối tượng tiêu dùng của mình là trẻ em cho nên họ đã tập trung gia công sản xuất rất nhiều loại mặt hàng khác nhau để có thể đáp ứng một cách tốt nhất những khách hàng khó tính hiện nay. Ngoài ra, cũng còn rất nhiều các Cty khác như Cty May Nhà Bè, Cty May 10, Cty Dệt May Thành Công, Cty May Chiến Thắng, Cty May Việt Tiến, Cty An Phước… tất cả đều xác định đối tượng phục vụ riêng cho mình, nhìn chung đa phần họ đều nhắm vào khách hàng và người tiêu dùng mục tiêu là những người ở độ tuôỉ thanh niên và trung niên. Nhưng để khách hàng nhận biết được đâu là những sản phẩm của mình, các doanh nghiệp đã rất chú trọng tới khâu quảng cáo, tiếp thị và giới thiệu sản phẩm của mình và hình thức quảng cáo đã được các doanh nghiệp quan tâm, sử dụng nhiều nhất vẫn là quảng cáo trên các phương tiện in ấn. Thực trạng quảng cáo sản phẩm may mặc ở Việt Nam trong những năm qua Thời kỳ trước năm 90. Cũng như nhiều loại sản phẩm hàng tiêu dùng khác sản phẩm may mặc nó cũng có thời kỳ phát triển của nó. Trước những năm 90, khi mà đất nước ta còn khó khăn, nền kinh tế còn tự cấp tự túc. Người dân chỉ mơ có cuộc sống “ ăn no mặc ấm”. Tức là trong cách ăn mặc con người chỉ cần chắc và bền mà không cần quan tâm đến thẩm mĩ. Thực tế ở nước ta lúc đó cũng như tất cả các nghành công nghiệp khác, nghành công nghiệp may mặc chưa phát triển sản phẩm sản xuất ra còn thiếu và khó khăn nên chưa có gì để mà quảng cáo, để giới thiệu cũng vì những lí do sau: -Thời kỳ mà hàng hoá khan hiếm, các công ty làm ăn theo kiểu tự cung tự cấp. Nên một người mua được một bộ quần áo là may mắn lắm, họ không có cơ hội và thời gian lựa chọn. - Nghành quảng cáo còn rất xa lạ đối với người dân Việt Nam, quảng cáo lúc này còn rất ít và thiếu sức mạnh để các công ty dựa vào đó mà giới thiệu sản phẩm của mình tới khách hàng b, Thời kỳ sau năm 90. Đặc biệt là sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận với nước ta năm 91. các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày một nhièu. Đời sống của nhân dân ta ngày càng được thay đổi, cải thiện. Thì thực tế hàng may mặc nó cũng phát triển và quảng cáo là một công cụ rất hữu hiệu để các công ty may mặc giới thiệu sản phẩm của mình (quảng cáo sản phẩm may mặc rất phát triển) vì những lý do sau: - Cuộc sống của nhân dân ta ngày càng cao, lúc này họ không quan tâm "ăn no mặc ấm nữa" mà họ quan tâm đến "ăn ngon mặc đẹp" cuộc sống biết thưởng thức cái đẹp. Nên khi mua sắm quần áo hàng may mặc người ta chọn những loại có chất lượng cao, đúng mốt, giá cả hợp lý. - Cũng do sự đầu tư mạnh từ nước ngoài nên có rất nhiều công ty đầu tư vào Việt Nam và phân bố đều ở nhiều địa phương. Vì thế các công ty canh tranh mạnh mẽ với nhau để kéo khách hàng về phía mình. Bên cạnh đó ngày nay ở nước ta có hàng trăm công ty may mặc bắt buộc các công ty phải cạnh tranh phải quảng cáo nhiều. - Ngành quảng cáo đã du nhập vào Việt Nam. Người dân trở nên quen thuộc với các thông điệp quảng cáo. Các công ty coi quảng cáo là cầu nối quan trọng để giới thiệu sản phẩm của mình tới khách hàng mục tiêu, tăng doanh số bán và lợi nhuận công ty. Từ những lý do trên mà quảng cáo hàng may mặc ngày nay phát triển mạnh mẽ, quảng cáo bằng nhiều hình thức, trên nhiều phương tiện, ở mọi nơi mọi lúc. Thực tế xét về khía cạnh hành vi tiêu dùng thì sản phẩm may mặc thường được phái nữ quan tâm nhiều nên các công ty may mặc cũng nắm bắt được tâm lý này để đưa ra các hình thức quảng cáo cho phù hợp. Đặc biệt với hình thức quảng cáo trên tạp trí, catalo, và tham gia các hội chợ triển lãm hàng tiêu dùng chất lượng cao được các công ty rất quan tâm ví dụ như các công ty dệt may Hà Nội, công ty dệt may An Giang, công ty dệt may Thắng Lợi, công ty may 10, công ty may 20 và rất nhiều các nhà may cũng tham gia. Còn trên truyền hình chúng ta chưa thấy xuất hiện mẫu quảng cáo nào về thời trang. II. Thực trạng sử dụng màu sắc trong quảng cáo sản phẩm may mặc ở Việt Nam. 1. Phân tích thực trạng sử dụng màu sắc trong quảng cáo sản phẩm may mặc ở Việt Nam. Hiện nay có rất nhiều công ty may mặc được thành lập và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Nên sản phẩm may mặc ở nước ta rất phong phú về chủng loại và đa dạng về màu sắc phù hợp mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp. Nhưng mục đích của đề án này em đi sâu vào nghiên cứu thự trạng sử dụng màu sắc trong quảng cáo hàng may mặc. Với nhu cầu của khách hàng rất đa dạng các công ty may mặc cũng đưa ra thị trường những sản phẩm chất lượng tốt, với nhiều gam màu để khách hàng thoả mãn lựa chọn Câu hỏi đặt ra vậy với mỗi gam màu như thế các công ty sử dụng các hình thức như thế nào để quảng cáo sản phẩm của mình tới khách hàng? Vì đã nghiên cứu ở trên các công ty chủ yếu dựa vào hai phương tiện là tham gia các hội chợ và sử dụng trên tạp chí, catalo để quảng cáo cho sản phẩm của mình. a. Sử dụng màu sắc trong các gian hàng ở hội chợ để quảng cáo cho sản phẩm may mặc. ở hội chợ triển lãm. đây là nơi đông đúc nó tạo ra không khí ngột ngạt, cảm giác khó chịu. Để khách hàng muốn dừng chân tại gian hàng của mình các công ty may mặc đã phải sử dụng một không gian thoáng đãng, ánh sáng dịu tạo lên cảm giác thoả mái. Thực trạng khi tham gia hội chợ, xét từ những vách ngăn, tới những giá treo hàng để tạo ấn tượng đối với khách hàng các công ty như công ty may 10, công ty dệt may Hà Nội, công ty dệt may Thắng Lợi… thường sử dụng gam màu tím hay màu hồng nhạt. Còn đối với những sản phẩm may mặc có gam màu giống nhau thường được xếp cùng một chỗ. Thực tế khi đi qua những gian hàng được trang trí như trên khách hàng thường có cảm giác bắt mắt, dừng lại xem hàng lâu hơn. Sử dụng màu sắc trên tạp chí để quảng cáo cho sản phẩm may mặc . Không phải bất cứ loại phương tiện in ấn nào cũng được các nhà quảng cáo sử dụng để quảng cáo cho sản phẩm của mình tới đối tượng nhận tin mục tiêu. Điều này là do, để quảng cáo có hiệu quả họ đã phải xem xét những đặc điểm của khách hàng mục tiêu để biết được họ hay sử dụng những loại ấn phẩm nào, ngoài ra quảng cáo những sản phẩm thời trang cũng cần phải thể hiện được những đặc tính của sản phẩm. Mẫu quảng cáo phải lôi cuốn, hấp dẫn người xem và tạo ra cho họ có được những cảm giác thích thú cho người xem nó. Nên hầu hết các thông điệp quảng cáo về sản phẩm dệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35406.doc
Tài liệu liên quan