MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. SỰ CẦN THIẾT VÀ TÁC DỤNG CỦA BHHHXNK 3
1.1. Sự cần thiết và lịch sử ra đời của bảo hiểm 3
1.2. Tác dụng 5
1.3. Gia nhập WTO và sự tác động đến thị trường bảo hiểm Việt Nam 6
1.3.1. Những cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam
tại WTO 6
1.3.2. Sự tác động của các cam kết đến thị trường bảo hiểm
Việt Nam 8
II. BẢO HIỂM HÀNG HÓA XNK CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO 10
2.1. Khái quát thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK trước khi gia nhập WTO 10
2.2. Thực trạng BHHHXNK Việt Nam sau khi vào WTO 12
2.2.1. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn 12
2.2.2. Thực Trạng Hoạt Động BHHHXNK 14
2.2.3. Những Tồn Tại,Hạn Chế Và Nguyên Nhân 19
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 23
KẾT LUẬN 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2206 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ ngày 1/1/2008 đã được phép đối xử quốc gia, và được bình đẳng như các DNBH của Việt Nam. Các hạn chế về tái BH bắt buộc 20%, không được bán BH vào khu vực kinh tế nhà nước, hạn chế về mở chi nhánh của DNBH có vốn đầu tư nước ngoài đương nhiên bị bãi bỏ ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
1.3.2. Sự tác động của các cam kết đến thị trường bảo hiểm Việt Nam
Có thể nói bảo hiểm là ngành dịch vụ mà các thành viên WTO quan tâm và yêu cầu cao về mức độ mở cửa thị trường cho các công ty bảo hiểm nước ngoài.Tuy nhiên,mức cam kết của ta đạt được trong biểu cam kết tốt hơn so với mức cam kết của các nước mới gia nhập WTO gần đây.Về tổng thể ,mức cam kết như trên là tương đương với BTA.Điểm khác duy nhất là ta mở thêm cho chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ.Cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm trong nước sau WTO đã sôi động hơn và có tác dụng thúc đảy thị trường bảo hiểm phát triển.
Trên thực tế thị trường bảo hiểm nước ta đã mở cửa cho các công ty bảo hiểm quốc tế 100% vốn đầu tư nước ngoài từ năm 1999.Nhiều công ty bảo hiểm lớn trên thế giới đều đã có mặt tại thị trường Việt Nam.Từ khi mở cửa thị trường bảo hiểm (1993)các công ty bảo hiểm Việt Nam lớn mạnh hơn,doanh số vẫn tăng hàng năm.Việc phát triển thị trường bảo hiểm là yêu cầu tất yếu của đời sống xã hội,bảo hiểm là dịch vụ cơ bản rất cần thiết cho hoạt động đầu tư và thương mại.
Và khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO,việc thực hiện các cam kết đã tác động mạnh mẽ tới ngành bảo hiểm của Việt Nam.Theo đánh giá sơ bộ việc mở cửa thị trường theo các cam kết WTO về cơ bản sẽ có tác động tích cực đối với cạnh tranh,thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước.
Việc cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam sẽ tăng thêm năng lực khai thác bảo hiểm của thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên phạm vi quốc tế sẽ giúp chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm tại Việt Nam.
Với năng lực tài chính mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm mới tham gia thị trường này cũng sẽ cho ra đời các sản phẩm bảo hiểm mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Trong điều kiện cung cấp dịch vụ tốt hơn, khách hàng sẽ là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất. Đặc biệt, chi phí bảo hiểm là một cấu phần ngày càng quan trọng trong chi phí sản xuất và kinh doanh của các đơn vị kinh tế khi nền kinh tế ngày càng phát triển, vì vậy giảm giá thành đầu vào đối với chi phí bảo hiểm sẽ giúp giảm một cách tương đối giá thành sản xuất sản phẩm và dịch vụ đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam và là cơ sở để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung trong điều kiện toàn cầu hoá ngày càng được đẩy mạnh.
Có thể nói, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ đem lại những lợi ích tổng thể cho thị trường.
Tuy nhiên, song song với các khía cạnh tích cực như vậy, điều kiện thị trường bảo hiểm với sự có mặt của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cũng sẽ đặt ra một số vấn đề như cạnh tranh không lành mạnh, hệ thống pháp lý chưa đủ mạnh để kiểm soát hoạt động đa dạng của các doanh nghiệp này, song các vấn đề này có thể được kiểm soát tốt nếu có những bước đi phù hợp trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường.
Gia nhập WTO không chỉ tác động đến hoạt động của thị trường bảo hiểm mà còn tác động đến khuôn khổ pháp luật và công tác quản lý nhà nước về bảo hiểm.Các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm về cơ bản đã hoàn chỉnh,đảm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hầu hết các cam kết trong lĩnh vực này.Tuy nhiên,để triển khai thực hiện một số các kết còn lại và đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường,một số yêu cầu đặt ra về hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật:
- Để thực hiện các cam kết,bổ sung các quy định về chi nhánh trực tiếp của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài,bãi bỏ các quy định mang tính bảo hộ các doanh nghiệp trong nước về địa bàn hoạt động,đối tượng khách hàng,các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc,tái bảo hiểm bắt buộc;hoàn thiện các điều kiện;tiêu chuẩn cấp phép minh bạch,thận trọng thay thế cho cơ chế cấp phép theo từng trường hợp cụ thể.
- Bổ sung,sửa đổi một số quy định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của các công ty bảo hiểm bao gồm vốn pháp định,khả năng thanh toán,hoạt động tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chon được các nhà đầu tư có năng lực tài chính,cam kết lâu dài với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam,đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO.Các quy định này giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều hành,phát triển sớm các rủi ro đồng thời hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát của các cơ quan chức năng.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế,chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị trường,bao gồm các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy định về nội dung và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo tính an toàn của giao dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối tượng có liên quan(đại lý,môi giới bảo hiểm).Cần có các quy định cụ thể và đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động cạnh tranh đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh trên thị trường ngành bảo hiểm bởi đây là một ngành rất đặc thù và nhạy cảm.
II. BẢO HIỂM HÀNG HÓA XNK CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
2.1. Khái quát thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK trước khi gia nhập WTO
Thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK đã hình thành và phát triển rất mạnh mẽ từ những ngày sơ khai của thị trường bảo hiểm.Ở Việt Nam,từ những năm 1960,tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam đã được giao nhiệm vụ bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa.Bảo Việt đã độc quyền trên cả thị trường bảo hiểm đến cuối năm 1994.Sau khi nhà nước ban hành những quy định mới,mở cửa nền kinh tế,xóa bỏ chế độ độc quyền trong nhiều ngành trong đó có ngành bảo hiểm,nhiều công ty bảo hiểm phi nhân thọ đã ra đời như Bảo Minh,PJICO,PVI,Bảo Long…làm cho thị trường bảo hiểm ngày càng sôi động hướng đến hội nhập quốc tế.Tuy nhiên cho đến nay,hoạt động bảo hiểm cho hàng hóa XNK do các công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành vẫn còn ở mức rất hạn chế,tốc độ tăng trưởng không cao.Cụ thể:
Bảng 1:Số lượng hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm giai đoạn 2003-2006
Chỉ tiêu
Kim ngạch hàng hóa XNK(tỷ USD)
Kim ngạch hàng hóa XNK tham gia bảo hiểm trong nước(tỷ USD)
Tỉ trọng(%)
XK
NK
XK
NK
XK
NK
2003
20,2
25,2
0,972
6,37
4,81
25,3
2004
26,4
31,9
1,003
8,74
3,8
27,4
2005
32,4
36,9
1,62
10,51
5,0
28,5
2006
40,3
43,2
2,015
13,4
5,0
31,2
(Nguồn:Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam)
Nhìn chung hoạt động XNK của nước ta tăng nhanh trong các năm qua,năm 2003 tổng kim ngạch XNK đạt 45,4 tỷ USD trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 20,2 tỷ USD,kim ngạch nhập khẩu đạt 25,2 tỷ USD.đến năm 2006 tổng kim ngạch XNK đã đạt 83,5 tỷ USD tăng gần gấp đôi so với năm 2003.Như vậy có thể thấy rằng hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta trong thời gian vừa qua đã đạt được những thành tựu to lớn.Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh trong thời gian qua tất nhiên sẽ kéo theo sự gia tăng của nghiệp vụ vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu,theo thông lệ quốc tế tất cả hàng hóa xuất nhập khẩu đều phải tham gia bảo hiểm,vì thế thị trường bảo hiểm hàng hóa XNK của nước ta có cơ hội lớn để phát triển và tăng mạnh về doanh thu.
Tuy nhiên trái ngược với số liệu về kim ngạch xuất nhập khẩu thì nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa của nước ta vẫn còn thấp,chưa xứng với tiềm năng XNK của nước ta.
2.2. Thực trạng BHHHXNK Việt Nam sau khi vào WTO
2.2.1. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn
a.thuận lợi
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện các cam kết khi trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại quốc tế WTO.Nền kinh tế Việt tiếp tục mở cửa và hội nhập quốc tế với mức độ sâu rộng hơn với nhiều cơ hội và thách thức cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế xã hội nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng.
Gia nhập vào tổ chức WTO,bước vào sân chơi chung của nền kinh tế thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa nói riêng.Những thuận lợi đó là:
- Việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới,đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ đa dạng hóa và thúc đẩy sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam qua đó sẽ thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa.
- Mở cửa thị trường đã tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nghiệp vụ này.Các công ty bảo hiểm trong nước có điều kiện tiếp thu ở một trình độ nhất định những kiến thức và kỹ năng chuyên ngành của các công ty bảo hiểm nước ngoài.Bên cạnh đó,sức ép cạnh tranh lớn hơn buộc các công ty bảo hiểm trong nước phải chủ động điều chỉnh mô hình và chính sách quản lý,đào tạo nhân viên,ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo được lợi thế với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài.
- Gia nhập WTO sẽ thúc đẩy nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao,hàng hóa và các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ có một thị trường rộng lớn hơn,đồng thời hàng hóa của các nước thành viên WTO sẽ tràn vào thị trường Việt Nam.Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước phát triển một cách nhanh chóng,tạo tiền đề cho các ngành nghề phát triển như :giao thông vận tải đường bộ,hàng không,xuất nhập khẩu làm tiền đề cho bảo hiểm hàng hóa phát triển.
- Gia nhập WTO đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu quốc tế,tận dụng được kinh nghiệm,công nghệ,sản phẩm mới và hệ thống của đối tác chiến lược để phát triển hệ thống phân phối sản phẩm,nâng cao uy tín thương hiệu của mình.
b.khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nói trên thì việc mở cửa thị trường bảo hiểm với sự tham gia ngày càng nhiều các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng có những khó khăn nhất định đối với các công ty bảo hiểm trong nước,đó là :
- Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa sẽ phải chia sẻ thị phần cho các công ty nước ngoài và cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn.
- Hiện tại mức phí bảo hiểm tại Việt Nam còn khá cao do đó các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khá vất vả khi gặp những tập đoàn bảo hiểm tầm cỡ với chương trình bảo hiểm toàn cầu có mức phí rất thấp.
- Các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước sẽ đứng trước sức ép cạnh tranh lớn trong khi năng lực về vốn,công nghệ còn yếu và nhỏ bé ảnh hưởng trực tiếp đến doanhh thu của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa.
- Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm.Một thực tế đã diễn ra khi sự gia tăng của số lượng doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng nguồn nhân lực trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo hiểm.Nếu để mất lực lượng cán bộ cốt cán sẽ kéo theo mất doanh thu thị phần là điều chăc chắn.Do đó,nếu các công ty bảo hiểm trong nước không có những chính sách điều chỉnh liên quan đến chính sách nhân sự trong thời gian tới sẽ bị mất lợi thế quan trọng trước các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh.
- Thị trường phát triển nhanh về quy mô,đa dạng về sản phẩm là sức ép đối với các nhà quản lý trong lĩnh vực này,bao gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng ;khả năng giải quyết quyền lợi tranh chấp ;thị trường bị chia cắt manh mún và vấn đề rất quan trọng là ngăn ngừa rủi ro mang tính hệ thống.
2.2.2. Thực Trạng Hoạt Động BHHHXNK
a.Tình hình kinh tế
Bước vào năm 2007 Việt nam có thuận lợi cơ bản là sau hơn 20 năm đổi mới thế và lực của nền kinh tế cũng như những kinh nghiệm tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường đều đã được tăng lên đáng kể. Việc nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo thêm cơ hội để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào kinh tế thế giới.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 tăng 8,48% so với năm 2006, đạt kế hoạch đề ra (8,2-8,5%). Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu Á, tăng trưởng kinh tế năm 2007 của Việt nam đứng thứ hai sau Trung quốc trong số các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực.
Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% tổng sản phẩm trong nước và tăng 15,8% so với năm 2006. Giá trị xuất, nhập khẩu dịch vụ cả năm 2007 đạt khoảng 12,4 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm trước, trong đó giá trị xuất khẩu dịch vụ 6 tỷ USD, tăng 18,2% và giá trị nhập khẩu dịch vụ, gồm cả phí vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu đạt 6,4 tỷ USD, tăng 24,9%.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam tính đến hết năm 2007, tổng doanh thu thị trường bảo hiểm Hàng hải Việt nam đạt gần 1.529 tỷ đồng tăng gần 33% so với cùng kỳ năm trước.
b.Bảo hiểm hàng hóa
Giá trị hàng hóa xuất khẩu năm 2007 đạt gần 48,4 tỷ USD, tăng 21,5% so với năm 2006. Có 10 mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị trên 1 tỷ USD là Dầu thô 8,5 tỷ USD, dệt may 7,8 tỷ USD, giày dép gần 4 tỷ USD, thủy sản 3,8 tỷ USD, tăng 12,9%; sản phẩm gỗ 2,4 tỷ USD, tăng 22,3%; điện tử máy tính 2,2 tỷ USD, tăng 27,5%; cà phê 1,8 tỷ USD, tăng 52,3%; gạo 1,4 tỷ USD, tăng 13,9%; cao su cũng đạt 1,4 tỷ USD, tăng 8,8%; than đá trên 1 tỷ USD, tăng 11,3%. Thị trường xuất khẩu hàng hoá tiếp tục phát triển, hầu hết các thị trường lớn đều tăng so với năm trước. Năm 2007 có 10 thị trường đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó Mỹ 10 tỷ USD, tiếp đến là EU 8,7 tỷ USD; ASEAN 8 tỷ USD; Nhật Bản 5,5 tỷ USD và Trung Quốc 3,2 tỷ USD. Bên cạnh đó, trong năm 2007 một số thị trường có xu hướng giảm như Australia và Iraq.
Giá trị hàng hóa nhập khẩu năm 2007 đạt hơn 60,8 tỷ USD, tăng 35,5% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 39,2 tỷ USD, tăng 38,1% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,6 tỷ USD, tăng 31%. Các mặt hàng có giá trị nhập khẩu cao trong năm 2007 là máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt gần 10,4 tỷ USD, tăng 56,5%; xăng dầu 7,5 tỷ USD, tăng 25,7%; sắt thép gần 4,9 tỷ USD, tăng 66,2%; vải 4 tỷ USD, tăng 33,6%; điện tử, máy tính và linh kiện 2,9 tỷ USD, tăng 43,7%; chất dẻo 2,5 tỷ USD, tăng 34,3%; nguyên phụ liệu dệt, may, da 2,2 tỷ USD, tăng 12,1%; hóa chất 1,4 tỷ USD, tăng 39,1%; ô tô 1,4 tỷ USD, tăng 101%; sản phẩm hóa chất gần 1,3 tỷ USD, tăng 27,1%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu 1,1 tỷ USD, tăng 52,6%, gỗ và nguyên phụ liệu gỗ 1 tỷ USD, tăng 31,9%.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam tính đến cuối năm 2007, tổng doanh thu thị trường bảo hiểm hàng hóa Việt nam đạt trên 688 tỷ đồng tăng trên 30% so với cùng kỳ năm trước. Top 7 về doanh thu bảo hiểm hàng hóa bao gồm các công ty:
Bảng 2:Doanh thu phí nghiệp vụ BHHHXNK của các DNBH năm 2007
Tên doanh nghiệp
Doanh thu (tỷ đồng)
Thị phần
Bảo Việt
190,97
27.75%
Bảo Minh
143,58
20.86%
PJICO
79,12
11.49%
Bảo Long
65,68
9.54%
PVI
54,90
7.98%
UIC
39,36
5.72%
VIA
31,98
4.65%
Các công ty khác
82,71
12.02%
Tổng
688,31
100.00%
(Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt nam)
Mặc dù có mức tăng trưởng cao, tuy nhiên các nhà bảo hiểm Việt Nam mới chỉ bảo hiểm được khoảng 5% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu và 33% kim ngạch hàng nhập khẩu. Đây là con số nhỏ bé không phản ánh đúng tiềm năng XNK của nước ta. Thực trạng này đã tồn tại trong một thời gian dài, chủ yếu là do các thói quen mua FOB bán CIF trong hoạt động ngoại thương và một phần do năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn hạn chế, chưa mang tầm quốc tế. Việc thay đổi tập quán cũ này khó thực hiện trong một sớm một chiều.
Năm 2007 tiếp tục chứng kiến tình hình cạnh tranh gay gắt để giành quyền bảo hiểm từ các khách hàng quen thuộc cũng như những mặt hàng có tỷ lệ tổn thất cao. Cũng giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm hàng hóa phải đối mặt với một thực tế là khách hàng cùng một lúc san sẻ dịch vụ cho nhiều công ty bảo hiểm khác nhau để tranh thủ việc cạnh tranh về phí bảo hiểm. Đặc biệt đối với một số công ty bảo hiểm mới ra đời khi thương hiệu còn chưa được nhiều người biết đến và thiếu đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có kinh nghiệm lại phải “chạy” doanh thu nên cách chào giá cạnh tranh đến mức phi kỹ thuật là gần như bắt buộc.
Thực trạng thiếu khai thác viên có kinh nghiệm ngày càng nghiêm trọng khi số lượng các công ty bảo hiểm ngày càng nhiều và việc di chuyển sang công ty khác để có vị trí cao hơn càng phổ biến. Một vài công ty thiếu cán bộ có kinh nghiệm trong bảo hiểm hàng hóa nên các đơn bảo hiểm cấp ra đôi khi chưa phù hợp, lấy điều khoản của nghiệp vụ khác áp dụng cho loại hình này hay chấp nhận cấp đơn bảo hiểm hàng hóa cho các đối tượng không phải là hàng hóa vận chuyển. Cũng đã có những trường hợp môi giới tham gia “phá” thị trường bằng việc kết hợp cả bảo hiểm thân vỏ container của người chuyên chở với hàng hóa của chủ hàng rồi để các công ty bảo hiểm thiếu kinh nghiệm gặp nhiều khó khăn trong thu xếp tái bảo hiểm…
Tỷ lệ bồi thường bình quân của nghiệp vụ trong năm trên 65%. Các mặt hàng nhạy cảm như bột mì, khô đậu nành, phân bón … vẫn có tỷ lệ bồi thường rất cao do bảo hiểm rủi ro thiếu hụt qua cân. Các doanh nghiệp vẫn chạy đua nhau để có doanh thu mặc dù họ đều biết bảo hiểm cho mặt hàng này gần như chắc chắn là lỗ. Cũng có một số ít doanh nghiệp đã nhìn nhận được vấn đề và chấp nhận “bỏ thị trường”, không tiếp tục khai thác các mặt hàng này nữa.
Ngoài các mặt hàng nhạy cảm đã được các doanh nghiệp nhận biết và thông báo rộng rãi, trong năm 2007 cạnh tranh khai thác hàng sắt thép vẫn tiếp tục gay gắt. Đối với các lô hàng gỗ tròn nhập khẩu, năm 2006 đã có tới 4 vụ tổn thất mỗi vụ trung bình thiệt hại khoảng 400.000 USD, tuy nhiên chưa thấm tháp gì so với năm 2007 cũng với 4 vụ tổn thất nhưng tổng thiệt hại lên đến trên 42 tỷ đồng. Dưới đây là các vụ tổn thất lớn về hàng hóa trong năm:
Bảng 3:Các vụ tổn thất lớn về hàng hóa năm 2007
Cty bảo hiểm
Tên tàu
Loại hàng
Nguyên nhân tổn thất
Tổn thất
BẢO MINH
Hoàng Đạt 36
992 tấn thép tấm
Chìm tàu do đâm va tại Cảng Sài gòn
4,552,612,734.00 đ
BẢO LONG
1,004 tấn thép tấm
283,212.07 USD
BAO VIET
Harvest
Thép đóng tàu
Đâm va và chìm tại biển Trung quốc
3,055,462 USD
BAO MINH
Khanh Hoi 07
Gỗ tròn
Lật tàu tại cảng Đồng nai
2,625,499,771 đ
BAO VIET
PAILIN MARITIME 1
Gỗ tròn
Chìm tàu
574,066 USD
BẢO LONG
Hoàng đạt 126
Soda Ash Light
Chìm tàu do bão
316,996 USD
BIC
BONGGAYA 88/BONGGAY 93
Gỗ tròn
Hàng bị rơi do thời tiết xấu
420.000 USD
BAO MINH
Goodline 2
Gỗ tròn
Mắc cạn do bão
1.500.000 USD
BAO MINH
Captain Uskov
Thép cuộn nóng
Mất tích trên đường từ Vladivostok về Việt nam
602.000 USD
(Nguồn:VINARE)
2.2.3. Những Tồn Tại,Hạn Chế Và Nguyên Nhân
a.Những tồn tại và hạn chế
- Thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta đang bị nước ngoài nắm giữ.
Hoạt động xuất nhập khẩu mang nhiều yếu tố rủi ro vì vậy theo thông lệ quốc tế mọi hàng hóa xuất nhập khẩu đều phải mua bảo hiểm,nếu xảy ra tổn thất thì chủ hàng sẽ được các hãng bồi thường thu hồi vốn.Mặc dù kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta liên tục tăng trong những năm qua nhưng kết quả kinh doanh bảo hiểm hàng hóa của các nhà bảo hiểm trong nước vẫn còn rất thấp.Thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong lĩnh vực này còn khá khiêm tốn.Cho đến nay chỉ có khoảng 5%-7% hàng xuất khẩu và 33% hàng nhập khẩu của Việt Nam tham gia bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm có mặt tại thị trường Việt Nam.Trong khi đó xét về năng lực thị trường,thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có hơn 20 công ty bảo hiểm phi nhân thọ,tổng lượng vốn lên đến cả chục nghìn tỷ đồng cho thấy năng lực của thị trường là rất lớn,đủ khả năng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cho mọi loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Với số lượng 77% kim ngạch hàng nhập xuất khẩu mua bảo hiểm ở nước ngoài dẫn tới những bất lợi cho các tổ chức và cá nhân nhập khẩu Việt Nam như sau :
+ Phải chi một lượng ngoại tệ lớn vì cộng thêm phí bảo hiểm trong khi nhu cầu về ngoại tệ hiện nay của từng doanh nghiệp và quốc gia rất lớn.
+ Đơn bảo hiểm do người xuất khẩu mua chuyển nhượng quyền hưởng lợi cho các tổ chức,cá nhân nhập khẩu Việt Nam.Nếu tổn thất xảy ra người bồi thường lại là doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài.Tổn thất xảy ra và được phát hiện đa số là tại các cửa khẩu Việt Nam.Mặc dù doanh nghiệp bảo hiểm có ủy thác cho các một số công ty bảo hiểm trong nước(Bảo Việt,Bảo Minh…)và một số công ty khác,giám định tổn thất.Song chưa am hiểu nhiều về thủ tục khiếu nại đòi bồi thường nên các tổ chức,cá nhân nhập khẩu Việt Nam ít khi được bồi thường tổn thất trừ những vụ tổn thất nghiêm trọng liên quan đến nhiều bên phải đưa ra cơ quan pháp lý giải quyết tranh chấp.
- Các doanh nghiệp trong nước khó khăn khi tham gia bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.
Hiện nay, năng lực bảo hiểm hàng hoá của các DN trong nước không phải là yếu, nhưng vẫn khó thu hút các đơn vị XNK. Bởi lẽ những đơn vị này vẫn quen với lối làm ăn nhỏ, đối với họ càng tránh được trách nhiệm khi hợp tác kinh doanh càng tốt, trong lúc các đối tác nước ngoài đều tự nguyện nhận trách nhiệm bảo hiểm về mình...
Các DN XNK thừa nhận, họ thiếu sự liên kết chặt chẽ với nhau, cũng như liên kết với các nhà bảo hiểm trong nước, nên thường yếu thế khi đàm phán với nước ngoài về bảo hiểm hàng hoá. Trong lúc thị trường còn chưa phát triển vững mạnh, các đơn vị bảo hiểm trong nước mong muốn có những hỗ trợ hợp lý của Nhà nước, cũng để tăng nguồn thu Quốc gia. Hiện nay, khó tham gia trực tiếp vào thị trường hàng XNK, chính những DNBH trong nước lại đang phải làm đại lý cho một số Công ty BH nước ngoài, để họ thu tiền từ thị trường VN...
- Tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu đang diễn ra khốc liệt.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam đang diễn ra cuộc cạnh tranh khốc liệt, "đua" hạ phí, tăng hoa hồng và mở rộng điều kiện bảo hiểm trái với thông lệ quốc tế. Đi cùng với kiểu cạnh tranh trên là độ rủi ro ngày càng lớn trong hoạt động của nhiều doanh nghiệp.
Trong vòng một năm, mức phí bảo hiểm bình quân đã hạ tới 40%,kể cả những mặt hàng nhạy cảm có tỷ lệ bồi thường cao,đặc biệt có những mặt hàng phí bảo hiểm giảm tới 70-80%.Chẳng hạn như mặt hàng sắt thép phí bảo hiểm đã giảm tới 70%,trước đây phí bảo hiểm mặt hàng này trung bình vào khoảng 0,14% tổng giá trị lô hàng,hiện nay có doanh nghiệp đã đưa ra mức phí hạ xuống còn 0,08% rồi đẩy phí xuống còn 0,06% và gần đây nhất chỉ còn 0,05%.Với mặt hàng phân bón phí bảo hiểm đã giảm từ 0,6% còn 0,3-0,35%.
Trong khi đó, hoa hồng đã tăng từ 3 đến 4 lần mức quy định của Bộ Tài chính. Một số công ty bảo hiểm đã mở rộng điều kiện thái quá, trái với thông lệ bảo hiểm quốc tế như không thu phí tàu già, nhận bảo hiểm cả thiếu hàng trong container nguyên kẹp chì mà những rủi ro này chủ yếu thuộc trách nhiệm của người bán hàng. Bảo hiểm hàng hóa lâu nay vẫn là một loại hình bảo hiểm tự nguyện, không có bất cứ sự bảo hộ nào của Nhà nước. Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cũng đã nhiều lần tổ chức họp các ban không chuyên để thống nhất một số biện pháp như đề ra phí sàn đối với một số mặt hàng chủ lực do tỷ lệ bồi thường các mặt hàng này quá cao (từ 150% đến 200%), nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm mới ra đời hoặc có thị phần thấp vẫn cố tình hạ phí để giành dịch vụ, dẫn đến sự lộn xộn và bất ổn của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Tất nhiên một sản phẩm rẻ hơn thông thường không thể có một chất lượng phục vụ tốt.Vì với mức phí bảo hiểm thấp,sản phẩm bảo hiểm đó không thể tái bảo hiểm được.Khi có tổn thất xảy ra,đặc biệt với lô hàng có giá trị lớn,vượt quá khả năng thanh toán,hơn nữa lại không được tái bảo hiểm,khách hàng sẽ là người chịu nhiều thiệt thòi khi các quyền lợi bảo hiểm không đươc bảo đảm.
b.Nguyên nhân
Những tồn tại và hạn chế trên là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Hoạt động XNK của nước ta chủ yếu áp dụng phương thức xuất khẩu theo điều kiện giao hàng FOB và nhập khẩu theo điều kiện giao hàng CIF.Với các phương thức XNK trên đã hạn chế khả năng ký kết của các công ty bảo hiểm Việt Nam.Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế hoá bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng. Điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển.Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu.Như vậy, đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tùy ý thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các công ty của nước m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22463.doc