Đề án Bảo vệ thương hiệu cho hàng hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 3

PHẦN I: 4

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG HIỆU VÀ BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU 4

1.1. CÁC QUAN NIỆM VỀ THƯƠNG HIỆU 5

1.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH THƯƠNG HIỆU 7

1.2.1. CÁC YẾU TỐ HỮU HÌNH 7

1.2.2. CÁC YẾU TỐ VÔ HÌNH 9

1.3. CÁC LOẠI THƯƠNG HIỆU 10

1.3.1. THƯƠNG HIỆU CÁ BIỆT 10

1.3.2. THƯƠNG HIỆU GIA ĐÌNH 10

1.3.3. THƯƠNG HIỆU TẬP THỂ 11

1.3.4. THƯƠNG HIỆU QUỐC GIA 11

1.4. PHƯƠNG PHÁP BẢO VỆ, BẢO HỘ THƯƠNG HIỆU HÀNG HÓA 12

1.4.1. QUY ĐỊNH VỀ ĐĂNG KÝ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU NHÃN HIỆU HÀNG HÓA 12

1.4.1.1. Cơ sở pháp lý quốc tế 12

1.4.1.2. Cơ sở pháp lý của Việt Nam 15

1.4.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU 17

1.4.2.1. Đăng ký bảo hộ 17

1.4.2.2. Tự bảo vệ 18

1.4.2.3. Lập hệ thống thương hiệu quốc gia để gia tăng sức mạnh bảo vệ thương hiệu cho các doanh nghiệp 20

PHẦN II: 21

THỰC TRẠNG BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU HÀNG HÓA HIỆN NAY Ở VIỆT NAM. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 21

2.1. THỰC TRẠNG BẢO HỘ THƯƠNG HIỆU CỦA HÀNG HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY 22

2.1.1. THỰC TRẠNG VI PHẠM THƯƠNG HIỆU 22

2.1.1.1. Trong nước 22

2.1.1.2. Quốc tế 24

2.1.2. BIỆN PHÁP CÁC DOANH NGHIỆP CHỐNG LẠI SỰ XÂM PHẠM THƯƠNG HIỆU 25

2.1.2.1 Đăng ký bảo hộ thương hiệu 25

2.1.2.2. Mở rộng hệ thống phân phối, rà soát hàng nhái, xử lý trực tiếp các vụ vi phạm 25

2.1.2.3. Khiếu kiện cơ quan chức năng 26

2.1.2.4. Mua hay chuộc lại thương hiệu 26

2.1.2.5. Chấp nhận bị chiếm dụng thương hiệu 26

2.1.3. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC 26

2.1.3.1. Sự ra đời của chương trình “Vietnam value inside” 26

2.1.3.2. Điều kiện của hàng hóa được gắn biểu tượng thương hiệu quốc gia 27

2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU CHO HÀNG HÓA VIỆT NAM 28

2.2.1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU TỪ PHÍA CÁC DOANH NGHIỆP 28

2.2.1.1. Duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng hàng hóa 28

2.2.1.2. Củng cố, phát triển và mở rộng hệ thống phân phối 28

2.2.1.3. Thực hiện đăng ký bảo hộ thương hiệu đầy đủ 29

2.2.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC 29

2.2.2.1. Hoàn thiện qui định pháp lý về đăng ký nhãn hiệu và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 29

2.2.2.2. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến thương mại 30

2.2.2.3. Hình thành mô hình trung tâm tư vấn về bảo vệ thương hiệu cho hàng hóa Việt Nam trong nước và quốc tế 30

2.2.2.4. Gia tăng tác dụng của chương trình thương hiệu quốc gia 30

2.2.2.5. Tổ chức các chương trình đào tạo bộ phận nhân sự chuyên về bảo vệ thương hiệu cho hàng hóa 31

KẾT LUẬN 32

TÀI LIỆU THAM KHẢO 33

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2314 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bảo vệ thương hiệu cho hàng hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành. Hệ thống đăng ký CTM là độc lập và không có ảnh hưởng đối với hệ thống đăng ký quốc gia của mỗi nước thành viên cộng đồng, nghĩa là nhãn hiệu CTM và nhãn hiệu đăng ký quốc gia có thể tồn tại song song. Đơn đăng ký CTM được nộp cho cơ quan đăng ký có tên là “The Office for Harmonization in the Internal Market” viết tắt là OHIM có trụ sở đóng tại Tây ban nha. Văn phòng OHIM chính thức hoạt động từ 1/4/1996. Quy định về chủ thể nộp đơn CTM: + Cá nhân, pháp nhân thuộc các nước thành viên Cộng Đồng Châu Âu + Cá nhân, pháp nhân thuộc các nước thành viên Công ước Paris, hay Hiệp định TRIPs; + Cá nhân, pháp nhân có nơi cư trú hoặc trụ sở kinh doanh đóng tại một trong các nước là thành viên của Cộng đồng Châu Âu, Công ước Paris, hoặc Hiệp định TRIPs. Việt Nam là thành viên của Công ước Paris. Vì vậy các cá nhân, pháp nhân Việt Nam nếu có nhu cầu đều có thể nộp đơn đăng ký CTM tại OHIM. Loại nhãn hiệu được đăng ký là: nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận Tài liệu và thông tin cần cung cấp trong thủ tục nộp đơn gồm có: + Tên đầy đủ, địa chỉ, số điện thoại, số fax (nếu có), và quốc tịch của Người nộp đơn; + Giấy uỷ quyền của Người nộp đơn (mẫu sẽ được gửi cho khách hàng trên cơ sở yêu cầu); + 5 mẫu nhãn hiệu cần đăng ký; + Danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu; + Phân loại quốc tế hàng hoá, dịch vụ (nếu biết) Thời hạn bảo hộ và gia hạn hiệu lực: Nhãn hiệu CTM sau khi được đăng ký sẽ có hiệu lực 10 năm kể từ ngày nộp đơn, và có thể được gia hạn nhiều lần liên tục, mỗi lần 10 năm, và chủ sở hữu phải nộp lệ phí gia hạn. Khi gia hạn, chủ sở hữu không phải nộp bằng chứng sử dụng nhãn hiệu. c) Đăng ký nhãn hiệu tại Hoa Kỳ: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (“Mỹ”) là thành viên của nhiều hiệp ước quốc tế liên quan đến bảo hộ sở hữu trí tuệ trong đó có Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp, và Thoả ước NICE về Phân loại Quốc tế Hàng hoá và Dịch vụ. Những người nào là chủ sở hữu nhãn hiệu và thực sự muốn sử dụng nhãn hiệu đó trong thương mại tại Mỹ đều có quyền đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ. Người nộp đơn có thể dựa vào một trong các căn cứ sau để tiến hành nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Mỹ: + nhãn hiệu đã được sử dụng trong thương mại tại Mỹ; + Có ý định sử dụng nhãn hiệu trong thương mại tại Mỹ; + nhãn hiệu đã được nộp đơn đăng ký tại một nước là thành viên của Công ước Paris  trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày nộp đơn đó, hoặc nước là thành viên của một Thoả ước quốc tế về nhãn hiệu mà Mỹ công nhận; hoặc + nhãn hiệu đã được đăng ký tại nước xuất xứ của người nộp đơn Các doanh nghiệp có thể nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở Mỹ bằng cách hoặc nộp đơn trực tuyến qua mạng Internet bằng cách truy cập vào trang web của Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá Mỹ, địa chỉ www.uspto.gov, và thực hiện theo đúng các chỉ dẫn trên đó; hoặc nộp đơn thông qua Pham & Associates. Một đơn xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá chỉ được nộp cho một nhãn hiệu cho một hoặc nhiều nhóm sản phẩm hoặc/và dịch vụ. Điều này có nghĩa là nếu sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu thuộc nhiều nhóm phân loại quốc tế hàng hoá, dịch vụ thì người nộp đơn cũng chỉ cần nộp một đơn. Loại nhãn hiệu được đăng ký tại Mỹ: Nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể, và nhãn hiệu chứng nhận. Tài liệu và thông tin chung cần có trong thủ tục nộp đơn: + 01 mẫu nhãn hiệu xin đăng ký; + Danh mục cụ thể hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu (kèm theo phân loại quốc tế hàng hoá, dịch vụ, nếu biết); + Tên đầy đủ, địa chỉ, số điện thoại, số fax (nếu có), và quốc tịch của người nộp đơn; Thời hạn bảo hộ: Sau khi đăng ký, nhãn hiệu được bảo hộ 10 năm kể từ ngày nộp đơn. Thời hạn hiệu lực của nhãn hiệu được gia hạn nhiều lần liên tục, mỗi lần 10 năm. Đơn xin gia hạn hiệu lực bảo hộ nhãn hiệu có thể được nộp trong vòng 1 năm trước ngày hết hạn hiệu lực hoặc trong vòng 6 tháng kể từ ngày hết hạn hiệu lực. Nếu đơn xin gia hạn không được nộp trong thời hạn nêu trên, thì nhãn hiệu đăng ký sẽ bị hết hiệu lực. Tài liệu và thông tin cần thiết cho việc gia hạn hiệu lực nhãn hiệu: + Tên đầy đủ, địa chỉ, số điện thoại, số fax (nếu có), và quốc tịch của chủ sở hữu nhãn hiệu. + Mẫu nhãn hiệu đã được đăng ký; Số đăng ký, ngày đăng ký; + Liệt kê đầy đủ và cụ thể hàng hoá, dịch vụ trong đăng ký có sử dụng nhãn hiệu trong thương mại; + Liệt kê đầy đủ hàng hoá, dịch vụ trong đăng ký mà chủ sở hữu không sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký cho các hàng hoá, dịch vụ đó trong thương mại (nếu có); Lý do không sử dụng và nêu rõ không có ý định từ bỏ nhãn hiệu; + Mẫu bao bì, nhãn sản phẩm, ảnh chụp hàng hoá hay quảng cáo dịch vụ chứng minh nhãn hiệu đang được sử dụng. + Lệ phí gia hạn hiệu lực. Điều kiện để tiếp tục sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký: Để duy trì hiệu lực của nhãn hiệu đã đăng ký, chủ sở hữu nhãn hiệu phải nộp Bản Tuyên thệ hoặc bản tuyên bố sử dụng nhãn hiệu trong thương mại, kèm theo bằng chứng sử dụng nhãn hiệu trong thực tế, hoặc trình bày lý do không sử dụng nhãn hiệu. Nếu không, nhãn hiệu sẽ bị huỷ bỏ. Chủ sở hữu nhãn hiệu phải nộp tài liệu nêu trên trong vòng năm thứ 6 kể từ ngày đăng ký nhãn hiệu. Có thể nộp muộn hơn thời hạn này nhưng không quá 6 tháng kể từ ngày kết thúc năm thứ 6 và chủ sở hữu phải nộp thêm lệ phí nộp muộn. 1.4.1.2. Cơ sở pháp lý của Việt Nam: Tại Việt Nam, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng được quy định cụ thể trong Bộ Luật Dân sự (1995). Ngoài ra còn có Nghị định 63/NĐ-CP của chính phủ (ngày 24/10/1996) là văn bản pháp lý trực tiếp điều chỉnh hoạt động bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hóa; Nghị định 06/2001/NĐ-CP (1/2/2001) bổ xung Nghị định 63; Nghị định 12/1999/NĐ-CP (6/3/1999) về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp; Nghị định 54/2000/NĐ-CP (3/10/2000) về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Nhìn chung, các quy định của Việt Nam về cơ bản đều giống những quy định của hiệp định TRIPs hoặc tương tự những quy định của một số quốc gia khác. Điều đó đã tạo nên sự tiệm cận giữa văn bản pháp luật của Việt Nam với các quy định quốc tế, góp phần thuận lợi hóa quá trình đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam cũng như tại nước ngoài thông qua cơ quan quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam Hiện Việt Nam đã là thành viên của các Điều ước quốc tế sau đây về sở hữu công nghiệp: Công ước Paris (1883 – 1979) về bảo hộ sở hữu công nghiệp; thỏa ước Madrid (1891 – 1979) về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa; hiệp ước hợp tác bằng sáng chế - PCT (1970). Theo quy định trong Nghị định 63/NĐ-CP thì mọi tổ chức và cá nhân kinh doanh đều có quyền nộp đơn để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa (các tổ chức không kinh doanh sẽ không có quyền nộp đơn). Đơn yêu cầu được nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ (thuộc Bộ Khoa học & Công Nghệ). Thời gian tối thiểu để được cấp văn bằng bảo hộ (tính từ lúc nộp đơn) không ít hơn 13 tháng. Để tiến hành đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại cục Sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu phải nộp bộ hồ sơ gồm: + Tờ khai yêu cầu cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa (03 bản). + Mẫu nhãn hiệu (15 bản). + Tài liệu xác lập quyền kinh doanh hợp pháp (01 bản sao). + Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể (đăng ký nhãn hiệu tập thể) (01 bản). + Giấy ủy quyền nộp đơn (nếu có) (01 bản). + Tài liệu xác nhận về xuất xứ, giải thưởng, huy chương, nếu nhãn hiệu chứa các thông tin đó (01 bản). + Giấy phép sử dụng tên riêng, biểu tượng, hình ảnh của quốc gia, địa phương, danh nhân, tổ chức do cơ quan, cá nhân có thẩm quyền cấp. + Chứng từ nộp lệ phí nộp đơn (01 bản). Văn bằng bảo hộ có hiệu lực 10 năm và có thể được gia hạn nhiều lần, mỗi lần 10 năm. Văn bằng bảo hộ có thể bị đình chỉ hiệu lực nếu trong thời hạn 5 năm mà chủ sở hữu không sử dụng nhãn hiệu và không có lý do chính đáng. Trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ, chủ sở hữu nhãn hiệu có toàn quyền khai thác nhãn hiệu nhằm mục đích thương mại trong phạm vi các sản phẩm dịch vụ tương ứng với các sản phẩm dịch vụ ghi trong văn bằng bảo hộ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần chú ý khi tiến hành nộp đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu là cần kiểm tra xem nhãn hiệu có bị trùng hoặc tương tự hoặc đã bị đăng ký hay chưa.. Nhãn hiệu sẽ bị từ chối nếu không có khả năng thực hiện chức năng phân biệt của chúng, đã thuộc quyền sở hữu của người khác hoặc không phù hợp với trật tự đạo đức xã hội. Một nhãn hiệu có thể được sử dụng cho nhiều loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Để tra cứu về sự trùng lặp của nhãn hiệu, có thể ủy quyền cho bên thứ ba (thường là các văn phòng luật sư) hoặc doanh nghiệp tự tra cứu qua các nguồn như công báo, đăng bạ quốc gia và quốc tế. Ngoài ra, có thể tra cứu tại cho các nhãn hiệu đã đăng ký trực tiếp tại Việt Nam hoặc cho các nhãn hiệu đã đăng ký vào Việt Nam theo thỏa ước Madrid do tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới công bố. Sau khi tiến hành nộp hồ sơ đăng ký nhãn hiệu,doanh nghiệp cần theo dõi quá trình xét đơn để có những bổ xung cần thiết nếu trước đó thực hiện chưa đầy đủ hoặc do cơ quan xét duyệt đơn yêu cầu và cần chuẩn bị những lý do chính đáng cho việc nộp đơn, phòng trường hợp có người phản đối việc đăng ký nhãn hiệu, sửa đổi đơn hoặc khiếu nại nếu có lý do chính đáng. Tuy nhiên, doanh nghiệp không được phép sửa đổi mẫu nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ vào danh mục đã khai trong đơn. Nếu việc chấp thuận đơn hợp lệ về thủ tục sau 3 tháng, doanh nghiệp tiếp tục chờ 9 tháng để nhận kết quả xem xét nội dung đơn. Quá trình này quá dài nên cần có sự quan tâm thường xuyên đến tiến độ thực hiện đăng ký đơn. 1.4.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU: Có rất nhiều cách để bảo vệ thương hiệu nếu hiểu thương hiệu thật đúng và đủ. Tuy nhiên, xét tổng thể thì các phương pháp bảo vệ gồm có: đăng ký bảo hộ; tự bảo vệ và tận dụng sức mạnh tập thể của thương hiệu quốc gia. Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nhầm lẫn giữa việc bảo vệ thương hiệu chỉ là đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Nếu hiểu theo nghĩa đó, doanh nghiệp sẽ khó giữ được thế chủ động đối với chính thương hiệu. Tất nhiên, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa và các sáng chế công nghiệp khác là cần thiết nhưng các doanh nghiệp cũng nên chủ động tự bảo vệ thương hiệu. Sau đây là một số phương pháp bảo vệ thương hiệu mà các doanh nghiệp có thể sử dụng: 1.4.2.1. Đăng ký bảo hộ: Thương hiệu bao gồm rất nhiều yếu tố cấu thành. Chính vì vậy, nói đến đăng ký bảo hộ thương hiệu cũng đồng nghĩa với việc đăng ký bảo hộ các yếu tố cấu thành đó. Và quan trọng nhất trong số đó là đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Xây dựng và bảo vệ thương hiệu trên cơ sở bảo vệ của pháp luật là cách tốt nhất để các doanh nghiệp tránh được những cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa và các yếu tố liên quan như kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý…sẽ không hoàn toàn giống nhau ở những quốc gia khác nhau.. Các doanh nghiệp phải chú ý tìm hiểu kỹ càng trước khi đăng ký bảo hộ tại bất cứ quốc gia nào. Ở Việt Nam, việc đăng ký bảo hộ thương hiệu chủ yếu vẫn là đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo Bộ luật dân sự (1995) và Nghị định 63/NĐ-CP. Ngoài ra còn có Nghị định 12/1999/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Nghị định 54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Ở châu Âu và ở Mỹ cũng đều có những quy định riêng về đăng ký bảo hộ thương hiệu mà đề án này đã nhắc đến ở phần 1.4.1.1. Nói chung, quy định của mỗi nước về đăng ký bảo hộ thương hiệu đều tuân theo công ước Paris, thỏa ước Madrid, hiệp định TRIPs nhưng mỗi nước vẫn có những quy định riêng của mình. Vì vậy, các doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ trước khi tiến hành thủ tục đăng ký hoặc thuê luật sư hiểu rõ các luật này. Thực hiện đăng ký bảo hộ thương hiệu có thể đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau: + Thứ nhất, đăng ký bảo hộ thương hiệu sẽ bảo đảm cho các doanh nghiệp được phát triển bình đẳng, hạn chế bớt sự cạnh tranh của các đối thủ không lành mạnh trên thị trường. + Thứ hai, bảo hộ thương hiệu sẽ khuyến khích hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam hay vào các doanh nghiệp Việt Nam. Họ sẽ cảm thấy yên tâm hơn khi đầu tư cho doanh nghiệp, sản phẩm có cơ sở pháp lý vững chắc. + Thứ ba, bảo hộ thương hiệu cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam vươn ra chiếm lĩnh các thị trường nước ngoài, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nuớc. Bảo hộ thương hiệu sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất hiện với tư cách là những người tham gia bình đẳng trong hệ thống thương mại toàn cầu. + Thứ tư, bảo hộ thương hiệu còn có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng tránh bị nhầm lẫn, bị lừa dối trong quá trình lựa chọn hàng hóa, dịch vụ. Bảo vệ tối đa quyền lợi người tiêu dùng là một trong những mục đích hướng tới văn minh thương mại của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay vì tiêu chí để kinh doanh thành công là “khách hàng luôn là thượng đế” 1.4.2.2. Tự bảo vệ: Việc đăng ký bảo hộ thương hiệu của các doanh nghiệp chỉ là điều kiện cần để các doanh nghiệp bảo vệ thương hiệu của mình. Điều kiện đủ của việc bảo vệ thương hiệu chính là các doanh nghiệp tự bảo vệ thương hiệu cho mình bởi thực tế cho thấy khong phải khi nào và ở đâu hệ thống luật pháp thực thi về quyền sở hữu trí tuệ cũng được thực hiện một cách nghiêm túc. Có chủ động tự bảo vệ thương hiệu các doanh nghiệp mới có thể duy trì và phát triển thương hiệu một cách tốt nhất. Có rất nhiều cách để tự bảo vệ thương hiệu cho doanh nghiệp như: mở rộng hệ thống phân phối; nâng cao chất lượng hàng hóa; kiểm soát chặt chẽ khối lượng hàng hóa; đảm bảo những dấu hiệu riêng biệt trên bao bì, nhãn mác; rà soát hệ thống phân phối và cảnh báo xâm phạm, tăng cường thông tin đến khách hàng. Các doanh nghiệp cần biết phối hợp một cách hợp lý các phương pháp này sao cho phù hợp nhất với tiềm lực tài chính và chuyên môn của doanh nghiệp mình. Việc mở rộng hệ thống phân phối tại các thị trường mục tiêu là điều kiện cần thiết để bảo vệ và đồng thời phát triển một thương hiệu. Khi hệ thống phân phối được mở rộng một cách hợp lý, khách hàng sẽ có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn và trực tiếp với doanh nghiệp. Vì thế, hạn chế được phần nào sự xâm nhập của hàng giả và doanh nghiệp còn lắng nghe được những phản hồi từ phía người tiêu dùng. Hệ thống phân phối được mở rộng sẽ tạo điều kiện gia tăng doanh số bán hàng, củng cố vị thế của thương hiệu trên thị trường cũng như gia tăng năng lực níu giữ tập khách hàng trung thành. Hàng giả, hàng nhái có thể bắt chước về kiểu dáng, về bao bì nhưng không thể bắt chước được chất lượng của doanh nghiệp nếu hàng hóa của doanh nghiệp luôn coi chất lượng là hàng đầu. Với hàng hóa có chất lượng tốt tự nó sẽ có tác dụng “hữu xạ tự nhiên hương” và khách hàng sẽ cảm nhận được. Khi họ đã tin vào chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp thì tự họ sẽ có cảm nhận được sự khác biệt giữa hàng thật và hàng giả, hàng nhái. Kiểm soát chặt chẽ khối lượng hàng hóa giúp doanh nghiệp dễ dàng kiểm soát thị trường tiêu thụ của mình hơn. Nhờ vậy, doanh nghiệp sẽ dễ dàng nhận ra dấu hiệu của việc cạnh tranh không lành mạnh và kịp thời có biện pháp xử lý. Hơn nữa, việc xử lý các hành vi vi phạm quyền sở hữu thương hiệu hầu như chỉ được vận hành khi có khiếu kiện của người bị hại. Chính điều này đặt ra cho các doanh nghiệp phải phát hiện sớm nhất và cảnh báo được những vi phạm về thương hiệu một cách vô tình hay cố ý. Đảm bảo những dấu hiệu riêng biệt trên bao bì, nhãn mác hay còn gọi là đánh dấu bao bì là biện pháp hữu hiệu để hạn chế hàng giả. Để đánh dấu bao bì, có thể sử dụng phương pháp vật lý như dán tem, tạo các khóa bảo vệ trên nắp bao bì, in dấu trên bao bì; hoặc sử dụng phương pháp hóa học như đánh dấu bằng các chất chỉ thị màu. Việc đánh dấu bao bì còn tạo cho người tiêu dùng cảm giác được chăm sóc và an toàn hơn khi chấp nhận thương hiệu. Về nguyên tắc thì các biện pháp đánh dấu bao bì cũng cần thường xuyên thay đổi để hàng giả khó theo kịp nhưng việc thay đổi này cần thông tin kịp thời và đầy đủ tới khách hàng. Rà soát hệ thống phân phối và cảnh báo xâm phạm, tăng cường thông tin đến khách hàng một mặt sẽ tăng cường khả năng nhận biết và phát hiện kịp thời sự xuất hiện của hàng giả, hàng nhái trên thị trường, mặt khác gia tăng mối liên lạc và cung cấp thông tin giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng, giúp khách hàng có thêm kiến thức để lựa chọn hàng hóa. Việc áp dụng các phương pháp tự bảo vệ giúp doanh nghiệp tự chủ hơn với thương hiệu của mình đồng thời cũng góp phần tăng thêm nội lực cho chính doanh nghiệp. Chính vì vậy, đây là điều cần thiết khi các doanh nghiệp thực sự muốn bảo vệ thương hiệu cho doanh nghiệp. 1.4.2.3. Lập hệ thống thương hiệu quốc gia để gia tăng sức mạnh bảo vệ thương hiệu cho các doanh nghiệp: Việc lập hệ thống thương hiệu quốc gia để gia tăng sức mạnh bảo vệ thương hiệu cho các doanh nghiệp chính là phát huy vai trò của hiệp hội trong phát triển thương hiệu, bảo vệ thương hiệu. Hệ thống thương hiệu quốc gia có tác dụng như một chỉ dẫn địa lý với các mặt hàng xuất khẩu. Nó có tác dụng như bộ mặt cho hàng hóa của mỗi quốc gia, trong đó, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và hệ thống thương hiệu quốc gia là mối quan hệ hai chiều tác động lẫn nhau. Trên thế giới, đã có những nước xây dựng thành công thương hiệu quốc gia của mình. Thành công nhất phải kể đến đất nước Ấn Độ với chương trình “Incredible India” (Ấn Độ tuyệt vời) và Trung Quốc với chương trình “Secondary City in China” (thành phố thứ hai của Trung Quốc). Bên cạnh đó cũng có một số nước áp dụng thành công mô hình này như New Zealand với chương trình “Fern Brand”, Australia với Made in Australia, Ecuador có “Ecuador Brand” và Thái Lan với “Thailand’s Brand”. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, để thành công trong việc xây dựng mô hình này, các nước đã phải khéo léo trong các kỹ thuật maketting, chủ động định vị hình ảnh hàng hoá của họ trong tâm trí nhà nhập khẩu và người tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu. Thương hiệu quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hút đầu tư, thu hút nhân tài, giúp doanh nghiệp “ngẩng cao đầu“ trong các cuộc đàm phán với đối tác nước ngoài. Uy tín của một đất nước sẽ làm tăng sức mạnh của một thương hiệu, một doanh nghiệp. Và ngược lại, uy tín, hình ảnh của từng thương hiệu, doanh nghiệp riêng lẻ sẽ góp phần tạo nên một thương hiệu quốc gia. PHẦN II: THỰC TRẠNG BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU HÀNG HÓA HIỆN NAY Ở VIỆT NAM. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 2.1. THỰC TRẠNG BẢO HỘ THƯƠNG HIỆU CỦA HÀNG HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY: 2.1.1. THỰC TRẠNG VI PHẠM THƯƠNG HIỆU: 2.1.1.1. Trong nước: Có thể nói rằng, tại Việt Nam, những vi phạm về sở hữu trí tuệ nói chung và thương hiệu nói riêng diễn ra hết sức phổ biến và đang thách thức các cơ quan quản lý Nhà nước. Có đến 95% số người dùng phần mềm Windows của Microsoft không có bản quyền. Ngoài ra, sự vi phạm bản quyền tác giả cũng phổ biến ở các nhóm sản phẩm như các chương trình ca nhạc, sách. Rất nhiều hàng hóa tiêu dùng đang bị xâm phạm thương hiệu như xe máy, hàng thực phẩm, giày dép, quần áo… Dường như việc một nhà sản xuất nào đó của Việt Nam (thường là các cơ sở nhỏ) sử dụng các thương hiệu nổi tiếng trong và ngoài nước để gán lên hàng hóa của mình là chuyện bình thường, thậm chí nhiều cơ sở không biết đó là một sự vi phạm. Rõ ràng, điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc thực thi các quy định về sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ thương hiệu nói riêng tại Việt Nam, nhất là khi chúng ta đang đi đến những vòng đàm phán cuối cùng để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Bảng sau cho thấy tình hình sản xuất,kinh doanh hàng giả và xâm phạm thương hiệu tại một số địa phương: TT Địa phương Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1 Hà Nội 90 271 233 245 2 Tp. Hồ Chí Minh 249 239 212 265 3 Hải Phòng 24 64 81 67 4 Đà Nẵng 93 143 730 198 5 Quảng Ninh 70 8 383 97 6 Lạng Sơn 276 0 36 87 7 Đồng Nai 30 79 65 45 8 Cần Thơ 9 7 12 36 Nguồn: Nguyễn Văn Trọng. Luận văn thạc sỹ kinh tế. Trường Đại học Thương Mại. 2004 Số liệu bảng trên chỉ là những con số tương đối vì thực tế các vụ vi phạm hàng giả bị phát hiện chỉ là phần nổi của tảng băng chìm và phụ thuộc rất nhiều vào sự tăng cường kiểm tra của lực lượng chức năng. Theo nhiều chuyên gia về chống hàng giả và bảo hộ thương hiệu thì tình hình vi phạm thương hiệu tại Việt Nam sẽ còn gấp rất nhiều lần những con số trên. Hàng ngày chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp hàng giả, hàng nhái thương hiệu trên hầu hết các sạp hàng của các cửa hàng bán lẻ từ sản phẩm thông thường đến hàng điện tử cao cấp Thực tế, đại đa số các vụ hàng giả tạiViệt Nam là sự vi phạm thương hiệu ở những hình thức khác nhau, chẳng hạn, nhái thương hiệu nổi tiếng, tạo tên thương hiệu gây sự nhầm lẫn như trường hợp bột giặt TOMOT, Aquasic, Lavige, Lavila (tạo sự nhần lẫn với OMO, Aquafina, Lavie), sử dụng tên hiệu khác nhưng logo và bao bì gần giống thương hiệu nổi tiếng để đánh lừa người tiêu dùng… Tuy nhiên, việc xử lý các vụ vi phạm thương hiệu tại Việt Nam còn rất ít, không hiệu quả và chưa có tác dụng răn đe. Theo một tài liệu của Chi cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh thì cho đến đầu năm 2004, số vụ vi phạm thương hiệu và hàng giả bị xử lý dứt điểm mới chỉ có chiếm chưa đến 50% trong tổng số vụ vi phạm và các vụ xử lý mới chỉ dừng lại ở mức tịch thu hàng vi phạm và xử lý hành chính với mức phạt đến 25 triệu đồng, một mức phạt mà bất kỳ người làm hàng giả nào cũng có thể chấp nhận được và rồi họ lại tiếp tục vi phạm. Thương hiệu của hàng hóa Việt Nam đang rất cần được ổn định và không bị xâm phạm ngay tại “sân nhà”, có như vậy doạnh nghiệp mới có thể toàn tâm, toàn ý thâm nhập và phát triển tại thị trường nước ngoài. Ngoài hiện tượng hàng giả hàng nhái như trên, còn một số hiện tượng tranh chấp thương hiệu mà nguyên nhân không chỉ ở các chủ thể kinh doanh mà còn do các cơ quan chức năng: + Vụ trạnh chấp nhãn hiệu Việt Thy: Đây là vụ tranh chấp nhãn hiệu ở Tp. Hồ Chí Minh giữa ông Vũ và bà Đoan với cùng nhãn hiệu Việt Thy. Điều đáng nói ở đây là vụ tranh chấp này ngoài lý do cạnh tranh không lành mạnh, lợi dụng uy tín của nhãn hiệu Việt Thy đã của ông Vũ đã có từ trước của bà Đoan còn có nguyên nhân của cơ quan chức năng không thực hiện đúng vai trò quản lý Nhà nước trong việc tổ chức đăng ký nhãn hiệu hàng hóa (cả bà Đoan và ông Vũ đều được cấp giấy phép thành lập công ty TNHH Việt Thy trong khi cả hai công ty đều kinh doanh hàng quần áo thời trang). + Vụ tranh chấp thương hiệu Trường Sinh: ngày 15/6/1998, công ty VN FORE MOST được Cục sở hữu công nghiệp cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa bảo hộ nhãn hiệu Trường Sinh cho các sản phẩm sữa đặc có đường, sữa bột, thuộc nhóm hàng 29. Ngày 4/11/1998, xưởng Trung Thực (sau đổi tên thành công ty TNHH Công Nghiệp Trường Sinh) nộp đơn tới cục sở hữu công nghiệp yêu cầu cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa với nhóm sản phẩm xin được bảo hộ là nhóm 32: sữa đậu nành. Kết quả là vụ án tranh chấp thương hiệu được khởi kiện ra tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Điều đáng nói là với vụ tranh chấp này, ý kiến của các cơ quan chức năng cũng không thống nhất: Cục sở hữu trí tuệ cho rằng nhãn hiệu Trường Sinh của xưởng Trung Thực là tương tự với công ty VN FORE MOST nên cần chấm dứt việc sử dụng nhãn hiệu; trong khi đó ý kiến của Cục phó cục Quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và ý kiến của cục quản lý chất lượng, của chủ tịch hội sở hữu công nghiệp lại cho rằng nhãn hiệu sữa đậu nành là không trùng hay gây nhầm lẫn tương tự vì 2 sản phẩm thuộc hai nhóm khác nhau và logo cũng không hoàn toàn giống nhau. Chính vì việc không thống nhất ngay từ ý kiến từ phía các cơ quan chức năng mà vụ kiện phải rất lâu sau mới có thể kết thúc. 2.1.1.2. Quốc tế: Hiện nay, chưa có bất kỳ một tổ chức hoặc cá nhân nào đứng ra thống kê số các thương hiệu của Việt Nam đã và đang hoặc có nguy cơ bị xâm phạm tại nước ngoài, nhưng thông qua một số vụ điển hình có thể nhận thấy rằng, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không đầu tư và quyết tâm trong việc bảo vệ thương hiệu của mình thì ngày càng có nhiều thương hiệu bị xâm phạm, nhất là khi sự thâm nhập của hàng Việt Nam ngày càng nhiều tại thị trường các nước. Có thể kể ra một số vụ xâm phạm và chiếm dụng điển hình như: Trung Nguyên, PetroVietNam bị chiếm dụng tại Hoa Kỳ; kẹo dừa Bến Tre tại Trung Quốc; Võng xếp Duy Lợi tại Nhật Bản… Qua các vụ chiếm dụng thương hiệu của Việt Nam tại nước ngoài, có thể thấy ngay rằng phần lớn là do các doanh nghiệp Việt Nam chưa tiến hành đăng ký bảo hộ các yếu tố thương hiệu tại nước ngoài, vì thế lợi dụng tình huống này, các thương nhân nước ngoài đã nhanh chân tiến hành đăng ký trước. Vụ PetroVietNam do một thương nhân Mỹ gốc Việt đệ đơn xin đăng ký và doanh nghiệp Việt Nam đã kịp thời can thiệp để giành lại. Vụ này ưu thế thuộc về Việt Nam khi mà PetroVietNam đã được biết đến rộng rãi ở Mỹ và thương hiệu này xuất hiện tại Mỹ từ lâu. Với vụ Trung Nguyên thì phức tạp hơn nhiều, thương hiệu này đã bị chính nhà đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35781.doc
Tài liệu liên quan