MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I- LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH 3
I.Bản chất và vai trò của cạnh tranh 3
1. Khái niệm cạnh tranh: 3
2. Vai trò của cạnh tranh 4
3. Bản chất của cạnh tranh 6
4. Ý nghĩa của cạnh tranh 6
II. Những nội dung, công cụ của cạnh tranh và các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh 7
III. Những nhân tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của các ngành 11
1- Những nhân tố sản xuất 11
2. Điều kiện của cầu 13
3. Các ngành liên quan và hỗ trợ 15
4.Cấu trúc thị trường, mức độ cạnh tranh, chiến lược của hãng và của đối thủ cạnh tranh 16
CHƯƠNG II- ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP DỆT MAY NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 19
I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 19
1. Các nhân tố sản xuất và các ngành hỗ trợ liên quan 19
2. Điều kiện về cầu và các đối thủ cạnh tranh. 20
3. Những tác động của nhà nước 21
II.Thực trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may nhà nước. 23
1.Những thành tựu và những thuận lợi về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước Việt Nam 23
2. Khó khăn và những hạn chế cần khắc phục 26
3. Nguyên nhân của các khó khăn, hạn chế 30
III. Những kết luận rút ra qua việc nghiên cứu khả năng cạnh tranh của hàng dệt may. 34
CHƯƠNG III- PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY Ở DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC. 36
I. Mục tiêu và phương hướng phát triển của ngành dệt may trong thời gian tới. 36
II. Những biện pháp chủ yếu cho việc nâng cao tính cạnh tranh của hàng dệt may ở các doanh nghiệp nhà nước. 39
1. Cơ cấu lại doanh nghiệp 39
2. Nghiên cứu thị trường 40
3. Tăng cường sự hợp tác 40
4. Xây dựng các chính sách chiến lược 41
5. Tối ưu hoá các yếu tố đầu vào 46
III. Những điều kiện tiền đề để thực thi các biện pháp đề ra. 46
KẾT LUẬN 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO 52
54 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à năng lực quản lý đối với doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng, mà thực tế hiện nay chưa có trường nào có chuyên ngành đào tạo công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý cho ngành dệt may, chủ yếu trưởng thành trong quá trình làm việc.
Ngành dệt may sử dụng nhiều máy móc, song ngành công nghiệp sản xuất máy móc phục vụ cho nó lại chưa phát triển. Thiết bị máy móc còn lạc hậu so với thế giới, máy móc của ta lạc hậu so với các nước ASEAN từ 10 đến 20 năm phát triển. Các doanh nghiệp phải nhập máy móc từ nước ngoài. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
2. Điều kiện về cầu và các đối thủ cạnh tranh.
Với dân số trên 6 tỷ người, thế giới là một thị trường tiêu thụ rất nhiều
sản phẩm dệt may. Cùng với thu nhập của thế giới tăng lên, nhu cầu ăn mặc, mua sắm cũng tăng lên. Ngoài ra, hoạt động thời trang diễn ra mang tính chất xuyên quốc gia, sẽ là cơ hội lớn cho ngành dệt may phát triển rất mạnh trong thời gian tới. Điều kiện thời tiết, khí hậu mỗi nước một khác nhau, các doanh nghiệp dệt may có thể phát triển loại sản phẩm phù hợp khả năng của mình hoặc cung cấp những sản phẩm khác nhau thích ứng với tính mùa vụ trong năm. Đời sống khá lên, con người lại có xu hướng quay về với thiên nhiên. Do vậy, những sản phẩm dệt may có xuất xứ từ thiên nhiên như tơ tằm, lanh, thổ cẩm...sẽ là những sản phẩm được người tiêu dùng thế giới rất ưa chuộng mà Việt Nam ta lại có lợi thế về những mặt này.
Không nói đâu xa, Việt Nam có dân số gần 80 triệu người cũng đã là một thị trường tiềm năng cho tiêu thụ các loại hàng hoá nói chung và hàng hoá dệt may nói riêng. Trong tương lai, đời sống của tầng lớp dân cư ngày càng được cải thiện thì nhu cầu sử dụng hàng hoá dệt may ngày càng tăng thúc đẩy ngành dệt may ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất.
Không những nhu cầu ăn mặc mua sắm tăng lên mà những đòi hỏi chất lượng, mẫu mã của sản phẩm đối với hàng dệt may ngày càng tăng. Người ta ưa sản phẩm của hãng nào chất lượng tốt, mẫu mã phong phú mà giá lại rẻ.
Như vậy, thị trường tiêu thụ của ngành dệt may rộng lớn, đâu đâu cũng có nhu cầu. Song với sự phát triển ngày càng lên cao của nhận thức con người, người ta hướng tới sản phẩm chất lượng, mẫu mã ngày một cao và phong phú hơn. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp dệt may ngày một nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Doanh nghiệp Việt Nam của ta ngoài việc cạnh tranh với nhau trên thị trường thì còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp dệt may nước ngoài. Họ có ưu thế là giá thành không cao lắm đặc biệt sau năm 1997 (khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực do sự mất giá của đồng tiền bản địa ) mà sản phẩm dệt may Việt Nam trở nên đắt hơn, họ tự túc nguyên liệu và phụ kiện chất lượng cao nên càng giảm giá thành sản phẩm , hơn nữa nhãn hiệu của họ quen thuộc với người tiêu dùng và có uy tín.
3. Những tác động của nhà nước
Ngày 14/11/1999, Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) được thành lập nhằm bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp dệt may, tránh tình trạng dẫm chân lên nhau, chèn ép nhau, tự mình làm hại mình như trước đây. Ngoài ra VITAS còn hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin, đầu tư, chuyển giao công nghệ, về thị trường và đào tạo nguồn nhân lực...
Ngành dệt may Việt Nam phát triển trên diện rộng và thuộc nhiều thành phần kinh tế. Song chưa có sự cân xứng giữa dệt và may:
Trong ngành dệt vai trò chủ đạo thuộc về xí nghiệp quốc doanh. Cụ thể:
Doanh nghiệp quốc doanh chiếm 60% tổng sản lượng toàn ngành
Doanh nghiệp tư nhân chiếm 25% tổng sản lượng toàn ngành
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15% tổng sản lượng toàn ngành
Trong ngành dệt may doanh nghiệp tư nhân lại có vị trí quan trọng chiếm 48% tổng sản lượng toàn ngành, tiếp theo là doanh nghiệp nhà nước chiếm 36%, cuối cùng là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài là 15%.
Nhìn chung, ở ngành dệt may đã có những chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng hoá các thành phần kinh tế, vai trò của các loại xí nghiệp quốc doanh ngày một tăng và quan trọng hơn, đặc biệt là loại hình công ty TNHH và vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời với điều đó là sự động viên và tạo điều kiện để có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong ngành dệt may Việt Nam , nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực cho ngành quan trọng này.
Trong thời kỳ đổi mới vừa qua nhà nước ta đã có nhiều chính sách kinh tế tài chính có tác động tích cực đến ngành dệt may như chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; cho phép các doanh nghiệp được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp; luật đầu tư nước ngoài (ra đời tháng 12/1987) tạo điều kiện cho nganh thu hút số vốn đầu tư lớn...
Sự ra đời của tổng công ty dệt may Việt Nam mở rộng kịp thời thị trường dệt may sang Nhật Bản; Quyết định số 55/2001 /QĐ Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển và một số cơ chế chính sách hỗ trợ cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010. Theo đó, ngành dệt may sẽ được tạo điều kiện phát triển trở thành ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất nhập khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước.
So với nhiều ngành khác, vốn đầu tư để đổi mới thiết bị trong ngành dệt may nói chung tăng khá nhanh. Hiện nay vốn đầu tư của Tổng công ty dệt Việt Nam (VINATEX) 4.000 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên so với yêu cầu thì còn rất thấp. Theo tính toán của các nhà kinh tế thì đầu tư cho ngành dệt may Việt Nam phải ở mức từ 2 đến 4 tỷ USD mới đạt mục tiêu mà chính phủ đề ra.
Nhờ có vốn các doanh nghiệp có thể trang bị thêm cơ sở vật chất, đầu tư theo chiều sâu, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm . Tuy nhiên các doanh nghiệp nhà nước địa phương lại bị giảm sút về vốn đầu tư, còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số vốn nhỏ.
II.Thực trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may nhà nước.
Như đã biết, ngành dệt may của Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời, xét toàn ngành nói chung, ngành dệt may đã đạt được những thành tựu đáng kể nhờ có những thuận lợi từ phía tự nhiên cũng như sự lỗ lực cố gắng của các doanh nghiệp, cộng với những điều kiện thuận lợi mà nhà nước tạo ra. Song bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế cùng những khó khăn cần được giải quyết.
1.Những thành tựu và những thuận lợi về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước Việt Nam
Chế độ bao cấp được xoá bỏ nhưng chính phủ vẫn thi hành chính sách cấp vốn và hỗ trợ đầu tư từ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung vào những dự án công trình đem lại hiệu quả đối với nền kinh tế. Doanh nghiệp dệt may của nhà nước nằm trong danh mục được ưu tiên hỗ trợ đầu tư của nhà nước.
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp
dệt may còn được ưu tiên trong việc vay vốn tín dụng đầu tư của nhà nước, kể cả nguồn vốn ODA. Nhờ có vốn lớn, các doanh nghiệp có thể trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư theo chiều sâu.
Ngành dệt may thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, vươn tới xuất khẩu. Trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược này nhà nước thi hành chính sách bảo hộ thông qua các biện pháp như thuế...với mục tiêu này thuế nhập khẩu đối với ngành dệt may rất khác nhau nhằm khuyến khích sản xuất trong nước.
Hàng dệt may của Việt Nam khá tốt và rẻ hơn so với hàng nước ngoài. Ưu điểm này nằm trong bản chất ngành và thế so sánh giữa tiền lương nhân công Việt Nam với tiền lương nhân công nước ngoài. Ngành dệt may cần rất nhiều nhân công, mỗi nhân công dệt chỉ coi được một số máy dệt hạn chế, các nhân công may mặc cũng chỉ may được một số rất ít sản phẩm mỗi ngày. Giá nhân công rẻ là khâu quyết định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt may:
Tại các nước công nghiệp phát triển giá nhân công 10 USD/giờ
Tại các nước công nghiệp mới giá nhân công 3 –5 USD/giờ
Tại Việt Nam giá nhân công là 0,14-0,42 USD/giờ
Do số cầu hàng may mặc có tính co giãn, số cầu không bao giờ tiến đến mức bão hoà.Vì mức sống càng được cải thiện thì con người càng có nhu cầu ăn mặc đẹp và đúng thời trang hơn.
Việt Nam có khí hậu phù hợp với việc trồng bông và có diện tích trồng bông, dâu lớn, hơn nữa lao động thuộc ngành nông nghiệp của ta lại rất lớn. Điều này thể hiện rằng chúng ta có khả năng đáp ứng nguyên liệu cho dệt may trong nước.
Chính nhờ những thuận lợi trên mà ngành dệt may đã thu được thành tựu đáng mừng. Thể hiện:
Ngành dệt may Việt Nam với lợi thế nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, có thị trường tiêu thụ và được chính phủ quan tâm, đã phát triển khá nhanh và đã tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường nội địa. Ngành dệt may đang giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước, chiếm 24% lao động trong khu vực công nghiệp (khoảng 1,6 triệu lao động); Góp 14,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; Góp 31% GDP của công nghiệp chế biến.
Trong 5 năm vừa qua mức độ tăng trưởng chung của hàng dệt may tăng bình quân hàng năm khoảng 11%.
Ngành dệt may không chỉ thực hiện mục tiêu đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn khai thác cả thị trường nước ngoài. Trong danh mục hàng xuất khẩu những năm gần đây hàng dệt may luôn chiếm ưu thế, kim ngạch hàng xuất khẩu hàng dệt may tăng lên nhanh chóng , tăng từ 1150 triệu USD (năm 1996) lên 1747 triệu USD (năm 1999) và tăng lên 2150 triệu USD (năm 2001), riêng 7 tháng đầu năm 2002 đã đạt 1249 triệu USD.
Một điểm nổi bật nhất của hàng dệt may Việt Nam là có đến 70% sản phẩm được xuất khẩu theo phương thức gia công.Việc xuất khẩu theo hình thức gia công tuy có kém lợi thế hơn so với xuất khẩu trực tiếp song ưu điểm của nó sử dụng nhiều lao động và đầu tư vốn không lớn.
Trong khoảng chục năm trở lại đây, gia công hàng may mặc xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may đạt được bước tiến đáng kể. Nhờ phát triển mạnh phương thức gia công hàng dệt may xuất khẩu mà vốn đầu tư cả trong và ngoài nước vào lĩnh vực đã và đang tăng mạnh. Tổng công ty dệt may trong giai đoạn 1996-1999 đầu tư khoảng 3.500 tỷ đồng, ngoài ra các đơn vị trong tổng công ty dệt may còn phối hợp với nhiều địa phương đầu tư hàng trăm tỷ đồng để xây dựng dây chuyền sản xuất.
Theo thông tin mới nhất tháng 10 năm 2002 nhiều công ty nhà nước cùng một số công ty khác đã kết hợp tổ chức luyện thi thợ giỏi, thao diễn kỹ thuật với chế độ nâng bậc hàng năm, nhờ đó mà tạo được năng suất lao động mới, chất lượng sản phẩm tăng, đồng thời tạo động lực khuyến khích đông đảo công nhân hăng hái tham gia. Đồng thời phong trào thi đua công nhân viên chức lao động đã phát huy 163 sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất với giá trị làm lợi là 1,68 tỷ đồng. Trong cuộc thi này các công tuy dệt may nhà nước như công ty dệt kim Hà Nội đã xây dựng và áp dụng thành công cùng một lúc hai hệ thống quản lý chất lượng là ISO 9000 và TQM, hay như nhà máy dệt 19-5 đã xây dựng và áp dụng các hệ thống ISO 9000, TQM và ISO-1400 cùng việc đăng ký đến năm 2003 tiến hành xây dựng hệ thống quản lý chất lượng SA 8000.
Các doanh nghiệp dệt may nhà nước đang ngày càng cố gắng góp phần vào công cuộc phát triển dệt may của toàn nền kinh tế, ngày một nâng cao khả năng cạnh tranh, không chỉ với các doanh nghiệp sản xuất hàng nội địa mà còn với cả các doanh nghiệp bán hàng nhập khẩu.
Xét trên toàn thể ngành dệt may nói chung, trong đó các doanh nghiệp dệt may nhà nước giữ vai trò then chốt, đã thu được những thành tựu đáng mừng. Xét trên toàn thể ngành dệt may nói chung, trong đó các doanh nghiệp dệt may nhà nước giữ vai trò then chốt, đã thu được những thành tựu đáng mừng.
Doanh nghiệp dệt may nhà nước, những năm vừa qua, trên cơ sở tận dụng các lợi thế sẵn có của mình, đang tham gia ngày càng sâu hơn vào lĩnh vực cạnh tranh. Tuy nhiên, không phải mọi việc đều suôn sẻ.
2. Khó khăn và những hạn chế cần khắc phục
Trong chất lượng phát triển các ngành thì ngành dệt may thuộc nhóm ngành có tính cạnh tranh cao và được ưu tiên hỗ trợ phát triển từ phía nhà nước. Và thực tế nhà nước đã thi hành một số chính sách hỗ trợ nhưng từ thực tế ngành đang gặp rất nhiều khó khăn.
Trước kia Việt Nam vốn là nước thuộc địa của Pháp, chỉ sản xuất các nông sản để bán cho Pháp và Pháp bán hàng công nghiệp của Pháp cho Việt Nam. Khi đó sản xuất công nghiệp Việt Nam rất kém phát triển thậm chí nói là ngừng phát triển, lương thực, thực phẩm không đủ ăn. Tiếp theo là 30 năm kháng chiến Việt Nam cũng không làm được gì nhiều vì phải dồn nỗ lực cho kháng chiến. Năm 1975 giành được độc lập, thống nhất đất nước thì nước ta lạc hậu hàng thế kỷ so với các nước phát triển và nhiều chục năm so với các nước láng giềng. Thêm vào đó là tình trạng cấm vận từ Mỹ. Trong thời gian từ 1975-1990 ta chỉ giao thương với các nước XHCN và sống với nền kinh tế bao cấp. Tình trạng thiếu hàng tiêu dùng rất gay gắt và các doanh nghiệp làm ra bao nhiêu hàng đều bán hết ngay lúc bấy giờ, chính vì vậy không cần đặt vấn đề chất lượng, giá thành vì hàng không có đủ bán và nếu bán thì bán theo giá quy định của nhà nước chứ không cần dựa trên giá thành của doanh nghiệp. Vả chăng đối với doanh nghiệp lời thì đóng cho nhà nước, lỗ thì nhà nước bao nên không cần chú ý tới việc hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm .
Vào cuối thập niên 90, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự hoạt động của các thành phần kinh tế trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế đó.
Các doanh nghiệp không còn được bù lỗ và phải đứng trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, với 2 vấn đề nổi bật: một là, kỹ thuật sản xuất lạc hậu đưa đến giá thành cao trong khi hàng làm ra xấu; hai là, hàng bán không chạy và nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ. Hiện nay các nhà máy tiếp tục lạc hậu hơn so với nước ngoài, vì các doanh nghiệp không có đủ chi phí cho việc mở rộng sản xuất hay ít ra đầu tư để đổi mới.
Nguồn nguyên liệu phục vụ cho dệt may phần lớn là bông sợi. Song năng suất trồng bông Việt Nam còn thấp, nông dân chuyển diện tích trồng bông sang trồng các loại cây khác mang lại lợi ích kinh tế cao hơn. Chính vì vậy, nguồn nguyên liệu trong nước không đáp ứng cho sản xuất trong nước.
Không những vậy, giá bông trong nước cao hơn giá bông nhập khẩu, chất lượng lại xấu, không đủ tiêu chuẩn sản xuất hàng hoá chất lượng cao, tỷ lệ tỷ tiêu hao nguyên liệu bông nhiều. Và như vậy dệt may phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Vấn đề khó khăn là giá bông sợi không ổn định. Thể hiện : Chỉ trong 6 tháng năm 1995 tăng từ 1,7 USD/kg lên 2,6 USD/kg, sau rồi lại giảm còn 2,06 USD/kg. Điều này ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh về chi phí sản xuất.
Phải chịu sức ép nặng nề của việc tăng giá nguyên liệu trên thị trường trên thế giới. Mặt khác, nguồn nguyên liệu phụ thuộc nhập khẩu mà không thống nhất ở một vài đơn vị có chức năng nhập và do có nhiều đầu mối thậm chí không phải ngành dệt vẫn đứng ra nhập và phân phối bông sợi theo nhiều loại giá khác nhau, đầu cơ làm biến động giá đầu vào làm giá đầu ra không ổn định.
Trong đầu tư của nhà cho ngành dệt may hiện nay có một điều đáng lưu ý là có tình trạng đầu tư không lý, thiếu đồng bộ, nơi nhiều, nơi ít, những quy định về thời gian thu hồi vốn vay đầu tư phát triển cho ngành dệt từ7-10 năm, cho ngành may là 12-15 năm. Thực tế ở Việt Nam đầu tư vào dệt phải mất 12-15 năm, may là 10-12 năm mới thu hồi được vốn. Chưa có cơ chế chính sách cụ thể thích hợp để thu hồi vốn đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước vào ngành dệt may.
Điều này dẫn đến các doanh nghiệp nhà nước địa phương do không đủ vốn nên sử dụng hết công suất, có nơi lại thiếu vốn đầu tư mà không được đầu tư. Bên cạnh đó xu hướng chung là các doanh nghiệp nhà nước đầu tư về máy móc để sản xuất những mặt hàng quen thuộc, tiêu thu nhanh như áo sơ mi, jacket, quần áo ngủ ...mà không đầu tư vào những mặt hàng cao cấp như veston...Chính vì vậy dẫn đến dệt may không sử dụng hết bộ hàng mẫu mà bạn hàng giao cho, còn sản phẩm lại đơn điệu, tính cạnh tranh của sản phẩm rất thấp.
Vậy mà các doanh nghiệp dệt may nhà nước sản xuất chỉ một số ít kiểu hàng trong khi Các doanh nghiệp dệt may muốn cạnh tranh tốt thì mẫu mã phải phong phú, phải có hàng hoá thích hợp cho mọi lứa tuổi, khổ người từ đàn ông, đàn bà, trẻ em đến người lớn, từ công nhân áo xanh đến thuỷ thủ, sinh viên nữ sinh hoặc các em nhỏ...
Dù rằng tổ chức thiết kế mẫu mốt của các doanh nghiệp dệt may nói chung có một đội ngũ các nhà thiết kế mẫu trẻ, giầu năng lực, nhưng mẫu mã thiết kế chưa thực sự đi vào cuộc sốn, chủ yếu là trình diễn còn thời trang hàng ngày được sưu tầm từ các catalogue của nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, mẫu mã còn nghèo nàn.
Khả năng tiếp cận thị trường còn bị hạn chế, còn bị động về thị trường trong nước, những thông tin còn nắm bắt chậm. Hầu như chưa nắm bắt nhu cầu thị trường về sản phẩm
Đối với ngành may ít phải đầu tư đổi mới công nghệ mà chỉ là trang thiết bị nên ngành đòi hỏi vốn ít hơn so với ngành dệt. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay thì đầu tư ở các doanh nghiệp may nhà nước vẫn còn thấp, phần lớn có số vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng. Hơn nữa tỷ lệ chiếm dụng vốn vẫn còn cao , đây là biểu hiện thiếu lành mạnh về tài chính, nó có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản. Mặc dù doanh nghiệp dệt may nhà nước có thuận lợi hơn trong việc vay vốn từ khu vực tài chính chính thức xong trên thực tế không hoàn toàn như vậy. Theo kết quả điều tra các doanh nghiệp dệt may của Viện kinh tế học thì mức lãi suất trung bình cho vốn vay lưu động mà các doanh nghiệp dệt may nhà nước phải trả cao hơn mức lãi suất trần mà Ngân hàng nhà nước quy định, các doanh nghiệp dệt may nhà nước đôi khi cũng phải đi vay từ các nguồn tài chính không chính thức. Chính vì vậy mà số vốn bình quân một doanh nghiệp là rất nhỏ. Số vốn của doanh nghiệp nhà nước lại càng trở nên nhỏ bé và mỏng manh hơn khi đối chiếu giữa vốn chủ sở hữu và tình hình công nợ của doanh nghiệp. Vốn đã ít, công nợ lại nhiều, số nợ phải trả của doanh nghiệp dệt may nhà nước thường cao hơn số vốn của doanh nghiệp. Liệu có bình thường không khi số vốn thực có không bù đắp nổi số vốn âm rất khổng lồ này.(Hiện tại Tổng công ty dệt may có số nợ lớn hơn số vốn nhà nước là 2,5 lần, nợ khó đòi chiếm 30% số nợ phải thu).
Thực trạng về công nghệ, trang thiết bị của ngành dệt may mặc dù ngành đã có nỗ lực đầu tư đổi mới, song nhìn chung công nghệ trang thiết bị vẫn còn trong tình trạng lạc hậu so với các nước trong khu vực, Hầu hết công nghệ trang thiết bị sản xuất từ năm 1950, 1960, trên 70% đã hết khấu hao, thậm chí 37%trong số này ở dạng thanh lý. Điều này làm cho giá thành sản phẩm cao hơn giá nước ngoài. Chính vì vậy, trên thị trường trong nước, doanh nghiệp dệt may nhà nước ngoài việc phải cạnh tranh với các doanh nghiệp dệt may sản xuất trong nước thì phải cạnh tranh với hang hoá của các đối thủ nước ngoài tràn vào Việt Nam. Đặc biệt từ năm 2003 Việt Nam ta bỏ hạn ngạch định lượng nhập khẩu và từ ngày 1/6/2006 bỏ toàn bộ các biện pháp bảo hộ bằng phi thuế quan. Theo thống kê của VINATEX, những năm vừa qua tỷ trọng tiêu thụ nội địa trong tổng số hàng dệt may sản xuất trong nước chỉ chiếm khoảng 55-60%.Việt Nam thực thi chính sách bảo hộ đối với dệt may sản xuất trong nước song sự cạnh tranh với hàng ngoại còn rất mạnh, nhất là hàng của Trung Quốc, ngành dệt may nhập khẩu chiếm khoảng 9-10% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước.
Điều này chứng tỏ rằng hàng dệt may Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước cả về số lượng và chất lượng. Do lạc hậu về công nghệ trang thiết bị nên chi phí về nguyên phụ liệu cao, chi phí trung gian lớn.
Đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước không chỉ là các doanh nghiệp sản xuất trong nước mà còn cả với hàng nhập khẩu. Họ cũng có nhiều thuận lợi, như Trung Quốc vốn đã sản xuất và xuất khẩu tơ lụa từ hàng nghìn năm nay, hiện là nhà cung cấp lớn nhất về vải lụa tơ tằm trên thế giới. Trung Quốc có lợi thế giá nhân công, lại tự túc được nguyên liệu do diện tích trồng bông lớn. So với Việt Nam, giá cả lao động trong ngành dệt may thấp, hơn nữa mẫu mã sản phẩm đẹp được cải tiến liên tục nên hàng lậu Trung Quốc tràn ngập vào Việt Nam rất nhiều, làm cho hàng hoá dệt may Việt Nam nói chung và doanh nghiệp dệt may nhà nước nói riêng khó có thể cạnh tranh ngay trên sân nhà.
Việc đầu tư để tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và năng lực quản lý cao đối với ngành dệt may là đặc biệt quan trọn. Mà trên thực tế hiện nay chưa có trường nào có chuyên môn đào tạo công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý cho ngành dệt may mà chủ yếu trưởng thành trong quá trình làm việc tức đào tạo tại chỗ. Hoạt động kỹ năng của người lao động không đồng đều nên dẫn đến năng suất lao động thấp.
Do nhận gia công cho nước ngoài với giá thấp nên quan hệ tiền lương với nhân công chưa được giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau và chấp nhận mức giá thấp, việc này đưa đến việc ép công nhân làm việc nhiều giờ với mức lương thấp.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước chưa cao còn thể hiện ở chỗ ngành mới được cung cấp bình quân tiêu dùng mỗi người chỉ được chưa đầy 5m2/người/năm. Mà thực ra, mức sử dụng hang dệt may theo bình quân đầu người (cho cả các nhu cầu sinh hoạt và sản xuất công nghiệp) của nước ta lớn hơn thế nhiều. Song một điều dễ giải thích là, bù lại sự thiếu hụt của sản xuất trong nước, một số lượng lớn vải được nhập khẩu bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó có nhiều loại trong nước chưa sản xuất được.
Một thực tế khá phũ phàng là, mặc dù sản lượng vải do ta sản xuất còn ít, mới đạt 50% công suất thiết kế, song vải của ta bán vẫn chậm. Một số doanh nghiệp dệt may nhà nước hàng tồn kho còn nhiều, kinh doanh thua lỗ. Năm 1990, trong số 6 doanh nghiệp lỗ của Tổng công ty dệt may Việt Nam có 4 doanh nghiệp dệt, chiếm 20% trong tổng số các doanh nghiệp dệt của Tổng công ty, có tổng số lỗ là 10 tỷ đồng.
Quan điểm mới, so với một số ngành như gạo, cà phê...việc phát triển ngành dệt may có một số ưu điệm, song chỉ nên tập trung có giới hạn vốn vào ngành này và dành vốn ưu tiên cho các dự án bỏ các giai đoạn trung gian, tiến thẳng vào cốt lõi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là các dự án làm các hàng tiêu dùng cao cấp, đặc biệt công nghiệp điện tử (làm các máy vi tính). Lý do là nếu như Việt Nam có thu nhập 5.000 USD/đầu người/ năm thì -ngành làm hàng may mặc- sống nhờ đồng lương thấp của công nhân-không còn có ưu thế. Nếu như chúng ta có một chương trình phát triển hợp lý thì mục tiêu đạt 5.000 USD/ đầu người/ năm trong vòng 10 năm tới có thể thực hiện được. Từ đó công nghiệp dệt may chỉ có tính phát triển thời gian và nên dành ưu tiên vốn cho các chương trình tập trung vào việc công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
3. Nguyên nhân của các khó khăn, hạn chế
Một trong những nguyên nhân làm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước là giá đầu vào cao và không ổn định. Hầu hết nguyên liệu phục vụ cho sản xuất dệt may đều phải nhập khẩu. Trong 10 qua thị trường thế giới có nhiều biến động về giá nguyên liệu cho ngành dệt như việc giảm giá bông xơ năm 1995 đã tác động xấu gây nhiều bất lợi cho dệt may Việt Nam.
Chi phí trung gian cho ngành dệt may ngày càng cao. So với thời điểm năm 1996 đến nay thì:
Cước phí vận chuyển của ngành dệt may tăng 130%
Tiền công tăng 75%
Thuế sử dụng đất tăng 90,9%
Điện sử dụng tăng 37,5%
Ngoài ra, còn thêm nhiều loại tiêu phí khác cũng góp phần không nhỏ vào việc làm tăng chi phí của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu làm năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm thấp dẫn đến giá thành sản phẩm cao.
Nhìn một cách khái quát, tài sản cố định của doanh nghiệp dệt may nhà nước hiện nay quá lạc hậu về kỹ thuật, manh mún và không đồng bộ. Theo báo cáo của bộ khoa học công nghệ và môi trường thì công nghệ của ta lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm. Mức hao mòn hữu hình từ 30-50%, hiệu suất sử dụng thấp chỉ là 25-30%.Đa số máy nhập khẩu thuộc loại phế bỏ ở nước ngoài và được tân trang lại nên đưa đến kết quả là sản phẩm làm ra lạc hậu, giá thành cao.Kết quả tất yếu kéo theo là mức tiêu hao nguyên nhiên liệu cho một đơn vị sản phẩm rất cao, ngược lại chất lượng sản phẩm thấp, năng suất lao động không ổn định, mẫu mã đơn điệu, điều này dẫn đến doanh nghiệp dệt may nhà nước mất khả năng cạnh tranh về máy móc thiết bị, công nghệ.
Ai cũng thừa nhận năng lực đội ngũ cán bộ là nhân tố có tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng song vẫn ở dạng tiềm năng. Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh còn cồng kềnh, vận hành nặng nề, chi phí cao mà hiệu quả thấp. Không những vậy đội ngũ giám đốc-có vai trò dẫn dắt hoạt động của doanh nghiệp- lại tuyển chọn không dựa trên cơ sở năng lực thực sự, mà trong doanh nghiệp nhà nước phần lớn là do bổ nhiệm nên mang tính chủ quan. Doanh nghiệp dệt may nhà nước chưa thực sự chủ động vươn lên, vẫn còn mang tâm lý trông chờ vào sự bảo hộ và trợ giúp tài chính của nhà nước.
Chất lượng nguồn nhân lực của dệt may còn nhiều bất cập. Hiện nay có 67% giám đốc không đọc được báo cáo tài chính,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28144.doc