Đề án Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh mặt hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường

Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam, nhằm ổn định, nâng cao chất lượng, giá cả, khẳng định vị trí của cà phê Việt Nam. các doanh nghiệp, các ngành có liên quan cũng như nhà nước cần có những biện pháp thích hợp và triển khai một cách đồng bộ.

Trước hết, ngành cà phê cần chú ý thay đổi cơ cấu sản phẩm ngay từ khâu trồng trọt. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng và từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Cả nước hiện có khoảng 375 ngàn ha phân bố trên nhiều địa bàn từ Bắc chí Nam. Khu vực phía Bắc có diện tích nông sản không nhiều, năng suất không cao, điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu không phù hợp với một số nông sản, nhưng cà phê lại phát triển tốt tại đây. Cần đưa giống nông sản năng suất cao và chống sâu bệnh vào khu vực trung du và miền núi phía Bắc, đáp ứng yêu cầu chất lượng của nông sản xuất khẩu.

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh mặt hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp và mới đang trong quá trình chuyển sang nền sản xuất hàng hóa, năng suất lao động thấp do đó kéo dài thời gian sản xuất sản phẩm nên không tạo được sức cạnh tranh trên thị trường. 2. Thực trạng công nghệ chế biến nông sản ở Việt Nam. Hàng nông sản của Việt Nam ở vị trí khá cao so với các quốc gia khác, hàng nông sản của ta có mặt hầu hết trên tất cả các thị trường của thế giới nhưng lượng ngoại tệ thu về từ hàng nông sản vẫn còn rất khiêm tốn do giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, cao su, hạt điều...đều bán thấp hơn giá thế giới từ 20 - 40USD, thậm chí còn thấp hơn. Công nghệ và các cơ sở chế biến nông sản của Việt Nam trong thời gian dài ít được quan tâm đầy đủ, một phần do khó khăn về nguồn vốn đầu tư nên trình độ công nghệ thấp và chậm được đổi mới, tổn thất sau thu hoạch còn rất lớn. Cơ sở chế biến hàng nông sản xuất khẩu còn ít như ngành cà phê mới chỉ có khoảng 20 cơ sở hcế biến công nghiệp hoàn chỉnh, chủ yếu là sơ chế đảm bảo chiếm khoảng 30% sản lượng cà phê/năm. Mặt hàng hạt điều tuy đã phát triển nhanh và chuyển từ xuất khẩu điều thô sang xuất khẩu nhân hạt điều nhưng mức độ cơ giới hóa trong quy hoạch quy trình công nghệ chế biến điều còn thấp, các nhà máy mới chỉ thu đựoc sản phẩm chính để xuất khẩu là nhân điều, chưa áp dụng được quy trình "chế biến không phế liệu" để thu hoạch các sản phẩm chính và các sản phẩm phụ, nên đã đạt hiệu quả kinh tế thấp. Vì vậy các nhà máy chế biến chưa thể nâng cao được giá thu mua các mặt hàng nông sản thô từ nông dân, một yếu tố để kích thích nông dân tích cực gieo trồng hàng nông sản. Đa số công nghệ của ta còn giản đơn, thô sơ, lạc hậu, mang nặng tính kinh nghiệm, thậm chí những điều kiện tối thiểu sân phơi, máy sấy, kho bảo quản cũng không đủ. Do đó vấn đề cần giải quyết là nhà nước cần phải có kế hoạch cân đối lại giữa công suất chế biến và nguồn nguyên liệu, mở rọng hoạt động điều phối giữa các xí nghiệp chế biến hàng nông sản thông qua Hội nông dân Việt Nam. 3. Tình hình tiêu thụ hàng nông sản trong thị trường nội địa. Hàng nông sản là sản phẩm thiết yếu của mọi người dân như gạo, chè, cà phê... tuy vậy do mức sống của nhân dân ta còn thấp nên các sản phẩm nông sản được sản xuất ra chủ yếu là phục vụ cho xuất khẩu mà tiêu thụ cho thị trường trong nước chủ yếu là các sản phẩm thô, thứ cấp với giá rẻ hơn gấp nhiều lần như mặt hàng cà phê tiêu thụ trong nội địa chỉ đạt khoảng 6000 tấn/năm chiếm 1,5 - 2% tổng sản lượng cà phê sản xuất ra. Tuy vậy, với mức sống như hiện nay, hơn 300USD/người/năm thì nhu cầu của người dân đã được cải thiện do đó nhu cầu về tiêu thụ nông sản ở thị trường trong nước cũng sẽ tăng lên nghĩa là mức tiêu thụ nội địa sẽ tăng. 4. Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Có thể nhận xét rằng nhóm mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng bình quân của thế giới và cao hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan (ở mặt hàng gạo và cà phê), Indonexia về cà phê, cao su... kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam so với Thái Lan có xu hướng tăng từ dưới 30% (trước năm 1998) lên mức cao hơn trong năm 2000 nhưng với giá cả hạ hơn, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam so với ấn Độ cũng tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam so với Thái Lan cũng tăng mạnh nhưng tốc độ lại chậm hơn các sản phẩm khác từ 5,87% năm 1992 lên 13,6% năm 2000. Các số liệu đã chứng tỏ rằng mức chênh lệch mặt hàng gạo và cà phê được thích hợp nhiều nhất trong bốn mặt hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Điều đó cũng cho thấy rằng thời gian qua sức cạnh tranh xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam được cải thiện đáng kể, nhưng nếu đi sâu phân tích thì thực sự vẫn còn nhiều băn khoăn về tình hình xuất khẩu mặt hàng nông sản của Việt Nam. Việt Nam chỉ có mặt hàng gạo là trội hơn hẳn còn các mặt hàng khác lại có sự chênh lệch khá lớn về số lượng so với các đối thủ cạnh tranh chính. Bảng 1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 1990 - 2000. TT Năm Sản lượng xuất khẩu (1000 tấn) Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) Gạo Cà phê Cao su Chè Gạo Cà phê Cao su Chè 1 1990 1624 89,6 75,9 10,8 305 76,16 75,3 12,96 2 1991 1033 93,8 62,9 10,5 235 74 50 14 3 1992 1940 116,2 81,9 1,3 418 92 66,9 16 4 1993 1722 122,6 96,7 20,6 362 110,6 74,7 26 5 1994 1983 177 135,5 21,2 424 328,2 135,4 26,5 6 1995 2058 248,1 138,1 18,8 530 595,5 193,5 26,5 7 1996 3047 281,4 194,5 21 868 420 163,3 29 8 1997 3682 391,6 192 32,3 801 497,5 194,6 48 9 1998 3800 382 197 33,2 1100 593,8 127,5 50,5 10 1999 4500 487,5 265 37 1080 592 145 46 11 2000 3500 694 280 44,7 840 842,76 153,2 56 Nguồn: Tạp chí Kinh tế Việt Nam và thế giới 2000 - 2001. Qua những số liệu trong bảng trên cho thấy các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều tăng do đó kéo theo nguồn thu ngoại tệ cũng tăng lên góp phần làm tăng cán cân thương mại và nguồn ngoại tệ của quốc gia, số liệu trên cũng cho thấy mặt hàng gạo và cà phê là có mức chênh lệch nhất trong 4 mặt hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Sau đây ta đi phân tích cụ thể mặt hàng cà phê - là mặt hàng có nguồn thu ngoại tệ lớn nhất so với các mặt hàng nông sản khác: Có thể nói cà phê là thức uống mà được nhiều người ưa thích, là mặt hàng xuất khẩu ở nhiều thị trường và đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Phân chia xuất khẩu theo thị trường. Trước kia thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu là các nước thuộc khu vực I. Liên Xô là thị trường chính, khối lượng xuất của Việt Nam sang thị trường này là 55 - 56%. Từ cuối năm 1985 trở đi Việt Nam bắt đầu xuất sang các nước thuộc khu vực II. Thời kỳ này, Việt Nam chưa gia nhập Hiệp hội cà phê Quốc tế (ICO) nên việc xuất khẩu chỉ là xuất thử hoặc xuất qua trung gian, thường là Singapore với tỷ lệ 30 - 40% tổng sản lượng bằng 60% lượng xuất khẩu sang khu vực II với giá thấp và chất lượng không cao trong khi chất lượng yêu cầu của các nước tiêu thụ trực tiếp lại rất cao. Đến năm 1994 trở đi Việt Nam mới thâm nhập vào thị trường châu Âu, Nhật và Mỹ, giảm lượng xuất qua trung gian Singapore, nâng kim ngạch xuất khẩu lên đáng kể. Sự có mặt của cà phê Việt Nam trên thị trường Mỹ là chứng nhận cho nỗ lực to lớn của những nhà xuất khẩu Việt Nam. Bảng 2. Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam Đơn vị: Tấn Niên vụ Khu vực 1995 - 1996 1996 - 1997 1997 - 1998 1998 - 1999 Châu Mỹ 67.048 84.255 87.384 69.381 Châu á 45.045 32.248 45.943 28.564 Châu Phi 6.767 11.729 4.816 5.340 Châu Âu 94.982 189.048 243.297 278.125 Châu úc 6.913 7.038 8.839 15.483 Tổng cộng 220.755 324.318 390.279 396.893 Nguồn: Tạp chí Kinh tế phát triển số 125 tháng 3/2001. Qua bảng số liệu trên cho thấy nếu như niên vụ 1995 - 1996 thị trường châu á nhập 45.045 tấn cà phê Việt Nam (chiếm 20,4%) tổng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam), thị trường châu Âu nhập 94.982 tấn (tỷ lệ 43,03%) thì trong niên vụ 1998 - 1999 thị trường châu á chỉ còn nhập 28.564 tấn cà phê (chiếm 7,2%), thị trường châu Âu nhập 278.125 tấn (chiếm 70,08%). Điều này chứng tỏ rằng các nhà xuất khẩu cà phê của Việt Nam đang từng bước việc hạn chế việc xuất qua trung gian và cố gắng mở rộng thị trường sang các quốc gia có nhu cầu tiêu thụ cà phê lớn như: Mỹ, Anh, Đức, Pháp. Phân chia xuất khẩu theo số lượng. Lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện qua bảng dưới đây. Bảng 3. Lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam Niên vụ Sản lượng cà phê thu hoạch (tấn) Lượng cà phê xuất khẩu (tấn) Tỷ lệ xuất khẩu (%) 1990 - 1991 82.500 67.774 82,15 1991 - 1992 131.400 79.070 60,18 1992 - 1993 145.200 130.529 89,90 1993 - 1994 179.000 169.190 92,28 1994 - 1995 212.450 192.088 90,42 1995 - 1996 235.000 220.755 93,94 1996 - 1997 362.000 324.318 89,58 1997 - 1998 400.000 390.279 97,56 1998 - 1999 420.000 396.893 94,45 1999 - 2000 600.000 546.000 90,83 2000 - 2001 (ước) 750.000 683.400 91,12 Nguồn: Tạp chí Phát triển kinh tế số 125 thán 3/2001. Qua bảng số liệu trên cho thấy mười năm trở lại đây lượng cà phê xuất khẩu tăng nhiều và có xu hướng tiếp tục tăng từ 67,774 tấn (niên vụ 1990 - 1991) lên 545.000 tấn (niên vụ 1999 - 2000) tăng lên 8 lần. Hàng năm tỷ lệ xuất khẩu so với sản lượng khá ổn định và giữ ở mức cao, đa số từ 90% trở lên. Con số này đã phản ánh chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Theo giá cả. Nhìn chung giá nông sản của Việt Nam thường thấp hơn so với một số nước, bên cạnh đó nước ta thường xuất khẩu theo giá FOB nên giá trị thu về thường không cao. Thêm vào đó diễn biến về giá cả trong những năm qua cũng đã làm cho hàng nông sản Việt Nam đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, giá nông sản liên tục giảm đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và tiêu thụ ở Việt Nam. Sau đây là bảng xuất khẩu hàng nông sản về giá trị và sản lượng trong những năm gần đây. Bảng 4. Xuất khẩu hàng nông sản năm 1999 và năm 2000 Mặt hàng Năm 1999 Năm 2000 Lượng (1000 tấn) Trị giá (Tr.USD) Giá BQ (USD/tấn) Lượng (1000 tấn) Trị giá (Tr.USD) Giá BQ (USD/tấn) Gạo 4.200 989 235,467 4.200 1.050 250 Cà phê 399 555,9 1.392,928 400 560 1.400 Cao su 212 125,4 591,509 230 135 592 Chè 34 43,3 1.420,588 35 52 1.486 Lạc nhân 62 36,23 584,355 120 135 3.857 Hạt điều 17 101,3 5.958,824 30 165 5.500 Nguồn: Tạp chí Thương nghiệp và thị trường Việt Nam số 7/2000. Qua bảng số liệu trên cho thấy qua 2 năm 1999 và 2000 thì giá bình quân của nông sản nhìn chung là tăng, nhưng tình hình thị trường thế giới diễn biến không thuận lợi về giá cả, các doanh nghiệp cũng gặp phải khó khăn nhưng có thể nói rằng kết quả đạt được như trên là sự cố gắng trong công tác chỉ đạo, điều hành sản xuất rất linh hoạt. Tình hình xuất khẩu vừa qua cũng cho thấy kim ngạch xuất khẩu sẽ cao hơn nếu khâu chất lượng xuất khẩu của hàng hóa cao hơn. 5. Thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trong thời gian qua. Về giá cả Tăng trưởng bình quân xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt 21%/năm trong suốt 10 năm qua, gạo, cà phê, cao su, chè là 4 mặt hàng chủ lực, năm 1999 đạt 1,8 tỷ USD chiếm 16,63% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Sự ảnh hưởng của chất lượng giá cả nông sản nên lượng xuất khẩu của Việt Nam thường có giá thấp hơn một số nước trên thế giới, có thể nói đây cũng là một lợi thế của nông sản Việt Nam nhưng cũng là bất lợi cho người sản xuất vì giá thành sản xuất ra một đơn vị nông sản còn rất cao, có khi giá bán lại không bù đắp được chi phí sản xuất nên gây thiệt hại lớn cho người sản xuất. Trong thời gian qua, thực tế thì có một số diện tích trồng cây nông sản đã bị phá bỏ như: cà phê, cao su để trồng loại cây khác có lợi ích kinh tế hơn. Vấn đề hiện nay là cần phải có những biện pháp lâu dài và trước mắt để giảm giá thành sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Về chất lượng. Có thể nói chất lượng nông sản xuất khẩu được cải thiện đáng kể ở hầu hết các mặt hàng. Chẳng hạn tỷ lệ gạo chất lượng cao (5-10% tấn) đã tăng từ 1% năm 1989 lên 85% năm 2000, tỷ lệ gạo chất lượng, thấp chỉ còn 22%. Tuy nhiên, đó chỉ là tiến bộ trong cải thiện độ gãy của gạo. Gạo 5% của Thái Lan hơn hẳn ta về mùi vị, hình dáng, kích thước và tỷ lệ thủy phân. Cùng với gạo, chất lượng các hàng nông sản khác cũng có những tiến bộ đáng kể như mặt hàng cà phê, tỷ trọng cà phê loại 1 tăng từ 2% (vụ 95-96) lên 16% năm (99/2000), loại B giảm từ 80% (vụ 95/96) xuống còn 5% (vụ 99/2000) sang tỷ lệ thủy phân cao quá 13% thậm chí có cả hạt đen, mốc, vỡ, lẫn nhiều tạp chất, quy cách, màu sắc, độ bóng, độ đồng đều chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Tỷ lệ cao su thượng hạng tăng từ 89,3% năm 97-98 lên 94,04% năm 2000, tuy đã tăng được tỷ trọng hàng hóa phẩm cấp cao nhưng mẫu mã đơn điệu nên chưa thâm nhập được vào phần thị trường cao cấp và do đó giá bán luôn thấp hơn giá của các đối thủ cạnh tranh gây thua thiệt cho hoạt động xuất khẩu. Mặc dù nông sản Việt Nam có chất lượng cũng khá tốt nhưng các loại có chất lượng không đồng đều, tỷ lệ phế phẩm còn cao. Hầu hết trong những năm gần đây, một số dây chuyền chế biến nông sản được nhập ngoại có quy trình công nghệ tiên tiến nhưng còn rất ít. Nhìn chung, khoảng 70% sản lượng nông sản hàng năm được sơ chế tại các hộ gia đình, chất lượng không cao. Gần 30% qua chế biến tại các cơ sở công nghiệp có dây chuyền, phần lớn đã lạc hậu, sản phẩm dùng làm nguyên liệu, do đó giá trị kim ngạch xuất khẩu không cao là điều tất yếu. Tóm lại, cần phải nâng cao chất lượng của nông sản Việt Nam nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Về hệ thống thu thập thông tin - dự đoán và nghiên cứu thị trường. Kinh doanh mặt hàng nông sản của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu bằng hình thức mua bán theo hợp đồng kỳ hạn, giá cả được xác định dựa vào giá giao dịch nông sản trong ngày của thị trường khu vực. Yếu tố quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu nông sản là thông tin và các dữ liệu thị trường phải chính xác, kịp thời so với thị trường thế giới để làm cơ sở phân tích dự đoán thị trường và đưa ra các quyết định mua bán. Đây là điều quan trọng nhất mà cũng chính là điều mà các nhà xuất khẩu nông sản của Việt Nam đang thiếu. Có thể thấy rằng bộ phận tham tán thương mại của Việt Nam ở nước ngoài đã không thực hiện tốt việc thu thập và cung cấp thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy, nguồn tin hạn hẹp duy nhất về thị trường thế giới mà các doanh nghiệp Việt Nam có được là nhờ mua của các hãng nước ngoài. Chính từ nguồn tin này và một số nguồn tin hạn chế khác, kết hợp với kinh nghiệm và cảm tình kinh doanh của doanh nghiệp để quyết định như vậy. Việc mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài sẽ gặp rất nhiều khó khăn do chi phí cao. Chính vì vậy công việc thu thập thông tin nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn, dẫn đến khả năng cạnh tranh hàng nông sản của Việt Nam còn thấp. Vấn đề là phải nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh doanh, tìm kiếm thị trường, đối tác, khách hàng mới và khuyếch trương nhãn hiệu riêng cho sản phẩm nông sản Việt Nam. Sự hỗ trợ của Chính phủ: Trong những năm qua, trước tình hình giá cả nông sản có những biến động liên tục, gây bất lợi cho cả người sản xuất và các đơn vị hoạt động xuất khẩu, để tháo gỡ khó khăn cho người sản xuất và nhà xuất khẩu thì Chính phủ cũng đã nhiều lần hỗ trợ vốn và lãi suất để dự trữ nhằm giảm áp lực bán ra để tăng giá bán trên thị trường. Đặc biệt trong tháng 9/2000 Chính phủ đã quyết định hỗ trợ vốn và lãi suất để dự trữ những mặt hàng nông sản bị giảm giá mạnh khi bán ra trên thị trường như: dự trữ 60.000 tấn cà phê. Một điều dễ nhận thấy là trong thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính xuất khẩu tương đối hiệu quả. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu bao gồm giảm thuế xuất khẩu, giảm thuế nhập khẩu các thiết bị máy móc chế biến hàng nông sản nhằm nâng cao chất lượng của mặt hàng này, giảm thuế nhập khẩu các nguyên liệu dùng cho chế biến trong nước, thực hiện các loại tín dụng thương mại ưu đãi, giảm thuế quan bảo hộ và tránh hạn ngạch xuất - nhập khẩu để giảm bớt sức hấp dẫn của thị trường nội địa, tăng tính hấp dẫn của thị trường ngoài nước. Kinh nghiệm về giảm thuế xuất khẩu ở một số nước cho thấy hiệu quả xuất khẩu tăng nhanh, đây là yếu tố tích cực mà Việt Nam cần phát huy. Khả năng tìm đầu ra của nông sản. Tìm đầu ra cho nông sản là vấn đề được nhiều cơ quan chức năng quan tâm, đặc biệt là những người trực tiếp tham gia hoạt động xuất khẩu, nhà nước đã có chiến lược lâu dài được quy hoạch tốt cho việc giải quyết đầu ra cho nông sản là trách nhiệm của mình. Cùng với vấn đề tiêu thụ nông sản thì các cán bộ cấp cao cũng kiến nghị với Chính phủ phải tính toán, cơ cấu lại sản xuất hàng nông sản xuất khẩu, thực tế cho thấy Chính phủ đã làm điều này từ nhiều năm trước, nhưng muốn chuyển đổi được cơ cấu phải có thời gian để nông dân tin và làm theo. Hiện nay Chính phủ cũng đang tất bật tìm đầu ra cho nông sản, nhất là gạo, điều, chè, mía, cà phê phải đảm bảo để năm 2001 này xuất khẩu được hơn 4 triệu tấn gạo. Việc tìm kiếm này đã có những dấu hiệu khả quan khi một số khách hàng đã quay lại nhập hàng nông sản của Việt Nam. Sắp tới đây, doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ nhiều hơn cho việc tìm kiếm thị trường. Nói tóm lại, thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trong thời gian qua là vấn đề rất được quan tâm, thực tế cho thấy rằng trong quá trình hội nhập kinh tế, các mặt hàng nông sản của Việt Nam kể cả tiêu thụ trong nước lẫn xuất khẩu đã và đang vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt. Khi nói đến cạnh tranh là phải nói tới vấn đề chất lượng, mẫu mã, giá cả, vệ sinh,... trong những vấn đề này, điều để được người mua quan tâm trước tiên là giá cả. Trên thị trường, người mua thường so sánh giá cả mặt hàng cùng loại để đi đến quyết định mua hay không mua. Như vậy, giá là nội dung đầu tiên mà các doanh nghiệp và người sản xuất phải quan tâm trong sự cạnh tranh để dành thị phần trên thị trường. 6. Đánh giá về khả năng cạnh tranh. 6.1. Cái đạt được Trước hết về điều kiện tự nhiên của Việt Nam rất thuận lợi cho những cây nông sản phát triển, đặc biệt là cà phê, cao su ở mảnh đất Tây Nguyên màu mỡ. Bên cạnh đó đã hình thành được những vùng chuyên canh, sản xuất hàng nông sản tập chung tạo ra nguồn sản lượng lớn (hiện nay đứng vị trí thứ 3 thế giới) nhờ đó tạo nguồn thuận lợi cho việc cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến với số lượng và chất lượng cao, dự định theo yêu cầu kỹ thuật chế biến. Mặt khác nó còn thuận tiện cho việc bố trí, xây dựng các nhà máy chế biến phù hợp, gần vùng nguyên liệu. Về năng suất, nhìn chung hàng nông sản Việt Nam hiện nay có năng suất cao so với các nước trên thế giới, chất lượng khá tốt, có hương vị riêng là một lợi thế mà các nước khác ít có được. Vì vậy, trong một vài năm qua một số thương hiệu của nông sản Việt Nam đã hình thành và phát triển ở thị trường trong nước cũng như đã thâm nhập được vào một số thị trường khó tính nước ngoài như: Mỹ, Đức, ... Thương hiệu cà phê Trung Nguyên, gạo tám Cần Thơ,... là những minh chứng sống động. Chỉ trong một vài năm, các thương hiệu này đã đứng vững và khẳng định được vị trí ở thị trường trong nước và bắt đầu thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó với sự quan tâm của Nhà nước bằng những chính sách quản lý xuất khẩu cụ thể, giúp đỡ người sản xuất và người chế biến về chính sách vốn đã tạo thuận lợi cho vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường. 6.2. Những vấn đề còn tồn tại. Bên cạnh những cái đạt được trên thì khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam còn nhiều khó khăn và tồn tại sau: a. Những vấn đề còn tồn tại Mặc dù năng suất cao, chất lượng tốt song chất lượng không đồng đều. Tỷ lệ phế phẩm cao, chế biến nông sản theo các phương pháp thủ công, phần lớn thiết bị dây chuyền lạc hậu, không đồng bộ. Do vậy tiêu hao nguyên liệu cao dẫn đến hiệu quả thấp, giá thành chế biến cao, khả năng cạnh tranh kém. Mặc dù có một số công nghệ mới tiên tiến, hiện đại được nhập ngoại nhưng còn rất ít. Hầu hết nông sản xuất khẩu đang ở dạng thô, nông sản qua chế biến rất ít. Một tồn tại không chỉ đối với nông sản Việt Nam mà đối với tất cả các mặt hàng của Việt Nam là năng lực quản lý sản xuất chế biến, xuất khẩu... chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, đặc biệt là khâu marketing. Mối liên kết kinh tế sống còn giữa các khâu chế biến, xuất khẩu và cung ứng dịch vụ đầu vào chưa được thiết lập để bảo đảm sự ổn định về số lượng, chất lượng theo yêu cầu của thị trường. Cũng như các mặt hàng khác của Việt Nam, giá nông sản vẫn còn thất thế so với các nước xuất khẩu nông sản trên thế giới. Có thể nói nông sản Việt Nam phải chịu sự chấp nhận giá. b. Những nguyên nhân của những tồn tại trên. Những tồn tại trên phần lớn do những nguyên nhân chủ quan gây ra, bên cạnh đó cũng có những nguyên nhân khách quan khác. Thứ nhất, do nguồn vốn đầu tư vào công nghệ chế biến nông sản còn hạn chế. Hiện tại hầu hết công nghệ chế biến đã lạc hậu, áp dụng phương pháp chế biến cổ điển. Thứ hai, do kết cấu hạ tầng phục vụ cho bảo quản, dự trữ, vận chuyển, bốc xếp... còn kém. Thứ ba, do Việt Nam hòa nhập vào thị trường nông sản thế giới trong bối cảnh bị mất thị trường truyền thống (Liên Xô và các nước Đông Âu) trong khi đó thị trường nông sản thế giới, được hình thành từ lâu đời đã được phân chia rõ rệt, chủ yếu nông sản Việt Nam bàn cho các nước trung gian, do vậy giá cả luôn thấp hơn mặt bằng giá chung của thế giới và phải chấp nhận giá. Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân từ chính sách khuyến khích người sản xuất của Nhà nước, bộ máy quản lý hành chính cồng kềnh, sách nhiều... làm nản lòng các nhà đầu tư. Đây là một số nguyên nhân chủ yếu làm cho nông sản xuất khẩu Việt Nam kém khả năng cạnh tranh. Chương III Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường trong quá trình hội nhập Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam, nhằm ổn định, nâng cao chất lượng, giá cả, khẳng định vị trí của cà phê Việt Nam. các doanh nghiệp, các ngành có liên quan cũng như nhà nước cần có những biện pháp thích hợp và triển khai một cách đồng bộ. Trước hết, ngành cà phê cần chú ý thay đổi cơ cấu sản phẩm ngay từ khâu trồng trọt. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng và từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Cả nước hiện có khoảng 375 ngàn ha phân bố trên nhiều địa bàn từ Bắc chí Nam. Khu vực phía Bắc có diện tích nông sản không nhiều, năng suất không cao, điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu không phù hợp với một số nông sản, nhưng cà phê lại phát triển tốt tại đây. Cần đưa giống nông sản năng suất cao và chống sâu bệnh vào khu vực trung du và miền núi phía Bắc, đáp ứng yêu cầu chất lượng của nông sản xuất khẩu. Khu vực các tỉnh Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, là vùng trọng điểm của nông sản Việt Nam, chiếm phần lớn diện tích, có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp cho cây nông sản, đặc biệt là cây dài ngày. Cần chú ý đầu tư thâm canh thay đổi giống để tăng năng suất. Hạn chế trồng mới, chỉ tập trung thâm canh cây nông sản dài ngày, mở rộng diện tích ở những vùng thích hợp để trong 10 năm tới cơ cấu nông sản Việt Nam đạt tỷ lệ cao, vì như vậy cà phê sẽ đạt chất lượng cao, tránh tình trạng như hiện nay có tới 95% cà phê với chỉ 5% cà phê chè, chất lượng kém, giá bán thấp. Quy hoạch vùng sản xuất nông sản cần lưu ý là hạn chế và đi đến chấm dứt nạn phá rừng nguyên sinh để lấy đất trồng nông sản. Tạo nguồn vốn cho đầu tư, chế biến, thu mua là một trong những điều kiện không thể thiếu được. Hiện tại nguồn vốn đầu tư từ nhà nước còn hạn chế, việc tận dụng các nguồn vốn khác nhau để phát triển ngành nông sản là điều tối cần thiết. Đối với nhà nước, trước hết cần đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng tại các vùng trồng nông sản trọng điểm. Ngoài ra, các doanh nghiệp nông sản cần tăng cường huy động vốn và vay ngân hàng. Cần nhanh chóng cổ phần hóa các doanh nghiệp nông sản để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Giải pháp này cần ưu tiên bán cổ phiếu cho người lao động trực tiếp tham gia sản xuất, chế biến nông sản ngân hàng cần nghiên cứu cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất hợp lý để các doanh nghiệp ổn định được chân hàng xuất khẩu. Ngoài ra, ngân hàng cần quan tâm giải quyết cho nông dân vay để mở rộng sản xuất. Thành lập hệ thống tín dụng nông thôn để hỗ trợ kịp thời cho nông dân bằng cách thành lập các ngân hàng thương mại cổ phần, xây dựng các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tại các vùng nông sản trọng điểm nhà nước cũng nên giao một phần các nguồn vốn trong đó có vốn xây dựng cơ bản, vốn định canh, định cư và xóa đói giảm nghèo cho các doanh nghiệp kinh doanh nông sản (một lực lượng tích cực tham gia vào các chương trình kinh tế xã hội tại các vùng sản xuất nông sản) và tạo điều kiện cho ngành nông sản được sử dụng một phần nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) để xây dựng cơ sở hạ tầng, bên cạnh đó cần khuyến khích nhiều hơn nữa các doanh nghiệp, kể cả nước ngoài, đầu tư vào ngành chế biến nông sản tạo ra nhiều sản phẩm, giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng dần tỷ trọng các sản phẩm chế biến có hàm lượng công nghệ và chất xám cao. Hoàn thiện hệ thống tổ chức các doanh nghiệp nông sản có tác động quan trọng đến phát triển ngành, các doanh nghiệp sẽ thiết lập hệ thống marketing chuyên nghiên cứu về thị trường sản phẩm, giá cả và có kế hoạch quảng cáo, khuyến mãi cho phù hợp. Còn lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng vai trò như các vệ tinh chuyên tổ chức thu mua, chế biến và cung ứng hàng xuất khẩu. Để đạt được điều này các doanh nghiệp xuất khẩu phải gắn bó với nhau chặt chẽ, có kế hoạch phân chia lợi nhuận cụ thể. Các doanh nghiệp lớn có trách nhiệm đầu tư, hỗ trợ về vốn, cơ sở hạ tầng, những giải pháp cả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33708.doc
Tài liệu liên quan