Đề án Các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương trong quản lý vĩ mô của Nhà nước

MỤC LỤC

 

Trang

Lời nói đầu 3

Nội dung

CHƯƠNG I- NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 4

I- Ngân hàng Trung ương với vai trò điều hành chính sách tiền tệ 4

II- Các công cụ của chính sách tiền tệ 5

1. Công cụ trực tiếp 6

2. Các công cụ gián tiến 7

III- Sự cần tihết phải chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp 11

IV- Kinh nghiệm của một số nước trong quá trình chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang gián tiếp 12

 

CHƯƠNG II- THỰC TRẠNG VỀ CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 14

I- Bối cảnh chung 14

II- Công cụ chính sách tiền tệ của Việt Nam qua các giai đoạn 14

1. Giai đoạn 1986 - 1988 14

2. Giai đoạn 1989 - 1991 15

3. Giai đoạn 1992 - 1995 15

4. Giai đoạn từ 1996 đến nay 17

III- NHỮNG HẠN CHẾ TRONG ĐIỀU HÀNH CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 19

1. Nhận xét chung 19

2. Hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam 20

 

CHƯƠNG III- NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM CHUYỂN ĐỔI CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TỪ TRỰC TIẾP SANG GIÁN TIẾP 25

1. Phát triển thị trường tài chính 25

2. Cải cách hệ thống ngân hàng 26

3. Các điều kiện khác 29

 

Phần kết luận 30

Tài liệu tham khảo 31

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương trong quản lý vĩ mô của Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này phát huy hiệu quả thì quốc gia đó phải có thị trường tài chính phát triển, hàng hoá của thị trường là các giấy tờ có giá ngắn hạn phải phong phú, đa dạng. Ngân hàng Trung ương phải có khả năng dự báo được vốn khả dụng của toàn hệ thống để can thiệp mua bán, có như vậy việc can thiệp mới có ý nghĩa lớn trong việc tác động vào lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng Trung ương mua, bán làm tác động đến lượng tiền Trung ương từ đó ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng, vì vậy để tránh ảnh hưởng này thì Ngân hàng Trung ương phải có các giải pháp xử lý thích hợp. III. sự cần thiết phải chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp. ở những nước có nền tài chính sơ khai, không có tính canh tranh, các công cụ trực tiếp được lựa chọn tạm thời khi khung thể chế cho các công cụ gián tiếp chưa phát triển. Các công cu trực tiếp được thừa nhận là đáng tin cậy trong việc kiểm soát tổng khối lượng tín dụng, chúng tương đối dễ áp dụng và lý giải đồng thời chi phí thực hiện tương đối thấp. Song bên cạnh đó các công cụ này lại có nhiều nhược điểm nên không cho phép Ngân hàng Trung ương điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng, từ đó có thể dẫn đến những thiệt hại do phân bổ lãng phí các nguồn lực, ngoài ra các công cu trực tiếp này càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng và do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ. Việc sử dụng các công cụ trực tiếp chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các mục vĩ mô thông qua các kênh truyền dẫn trực tiếp, không thực hiện được các kênh dẫn truyền đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và thị trường tài chính với những ảnh hưởng thông qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá ngoại tệ. Với các công cụ gián tiếp, đặc biết là nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng trung ương có thể đa phương tác động để đạt được các mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ qua các kênh truyền trực tiếp và cả gián tiếp. Việc phân tích những hạn chế của công cụ trực tiếp, cũng như những lợi thế của công cụ gián tiếp, đặc biệt là công cụ thị trường mở ở những phần trên đã cho thấy lợi ích của việc chuyển sang sử dụng công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt và hiệu quả hơn. Đặc biệt là trước xu thế hội nhập kinh tế toàn diện trên thế giới thì một chính sách tiền tệ cứng nhắc kém linh hoạt sé không đảm bảo cho nền kinh tế thích ứng được với những thay đổi mạnh mẽ từ bên ngoài do đó đòi hỏi chuyển các công cụ trực tiếp sang gián tiếp trở nên cần thiết hơn. IV. kinh nghiệm của một số nước trong quá trình chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang gián tiếp. Chúng ta sẽ xem xét những nước đại diện rộng rãi cho kinh nghiệmchuyển đổi này là các nước công nghiệp phát triển và 19 nước không thuộc nhóm công nghiệp phát triển là ACHENTINA, DRUDI, ASRAEL, JAMAICA, KENGA, MALAISIA, MEHICO, PHILLIPINES, BALAN, SRILANCA, THAILAND, JUNISIA, VENEZUELA. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cho thấy quá trình chuyển đổi (diễn ra trong nhứng năm 70, 80 ở những nước này) là một bộ phận của quá trình tự do hoá tài chính rộng rãi. Phần lớn quá trình chuyển đổi được tiến hành từng bước và không gặp phải những khó khăn hay đảo lộn lớn, chủ yếu là nhờ vào những điều kiện thuận lợi quan trọng ban đầu đặc biệt là không có những mất cân đối vĩ mô trầm trọng. Tuy vậy hai nước Anh và Pháp đã vấp phải trong những lỗ lực đầu tiên nhằm hoàn toàn dựa vào công cụ gián tiếp. Với các nước không thuộc khối công nghiệp phát triển thì thời gian cần thiết để hoàn thành quá trình chuyển đổi thường khá dài và thường gặp phải những khó khăn và đảo lộn tạm thời, ở những nước này việc đưa và sử dụng những công cụ gián tiếp là một bộ phận của quá trình cải cách sâu rộng bao gồm không chỉ tự do hoá khu vực tài chính mà còn ổn định vĩ mô và tự do hoá nền kinh tế nói chung. Kinh nghiệm chung của các quốc gia cho thấy cần phải mở rộng hơn nữa khu vực tài chính cho những “ứng cử viên” mới và nâng cao quyền tự chủ trong kinh doanh của các Ngân hàng. Ngoài ra thị trường liên Ngân hàng, thị trường tiền tệ yếu kém và bị phân đoạn, tính độc lập thấp và sự kém hiệu quả trong quản lý của Ngân hàng Trung ương là yếu tố gây cản trở cho quá trình chuyển đổi. Các nước có khả năng thực hiện kiểm soát trực tiếp có hiệu quả và đạt được những mục tiêu tiêng tệ của mình chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 2/3. Hầu hết các hệ thồng Ngân hàng có dự trữ vượt quá, hậu quả của bành trướng dự trữ vượt quá này được chế ngự bằng các biện pháp kiểm soát trực tiếp. Trong số những nước bị khủng hoảng tài chính có nước buộc phải đưa vào sử sụng loại công cụ kiểm soát lãi suất để giảm gánh nặng lãi suất thực cao cho người vay và Ngân hàng, còn có những nước chỉ coi việc sử dụng trở lại các công cụ trực tiếp chỉ là phương pháp đối phó tức thời với những mất cân đối quá ư trầm trọng. Kinh nghiệm sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ rất khác nhau ở mỗi nước. Sự khác biệt này đặc trưng cho nhịp độ phát triển của quá trình chuyển đổi. Song chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm chung sau: - Để ngăn chặn những đảo lộn trong quá trình chuyển đổi, các nước đã thực hiện một số biện pháp hữu hiệu: hoàn thiện cơ chế giám sát Ngân hàng, chỉnh sửa khung pháp lý và cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng. Các nỗ lực nhằm kiềm chế những mất cân đối tài chính nghiêm trọng đã được thực hiện mà nét tiêu biểu là các khoản tài trợ của Ngân hàng Trung ương đã bị cát gảm. - Thường có một giai đoạn trong đó Ngân hàng Trung ương đồng thời sử dụng cả hai chuyển đổi trực tiếp và gián tiếp. Chẳng hạn chỉ có 25% trong số các nước đã phân tích, đã huỷ bỏ công cụ hạn mức tín dụng tại thời điểm khởi đầu quá trình tự do hoá. - Chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay được sử dụng như một tiêu thức đánh giá hiêụ quả các hoạt động tín dụng của các tổ chức trung gian tài chính. Khi hiệu quả và cạnh tranh trong hệ thống tài chính tăng lên thì chênh lệch lãi suất đã được thu hẹp. Trong hầu hết các nước trên, chênh lễch lãi suất đã thu hẹp đáng kể mặc dù ở một số nước chúng tạm thời mở rộng trong quá trình chuyển đổi. Trong toàn bộ các nước đã phân tích, sự biến động của hệ số nhân tiền đã gia tăng nghiêm trọng trong các thời kỳ trước và trong chuyển đổi làm suy yếu khả năng kiểm soát tiền tệ của Ngân Hàng Trung ương. Nhưng trong giai đoạn sau chuyển đổi, ở hầu hết các nước sự biến động của hệ số nhân tiền đã giảm đáng kể và khả năng kiểm soát tiền tệ đã được củng cố. Chương II. Thực trạng về công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam. I. Bối cảnh chung. Đảng Cộng Sản Việt nam lần thứ 6 đã đánh dấu sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Bước ngoặt này là tiền đề khách quan, là điều kiện mới cho cải cách tổ chức hoạt động hệ thống Ngân hàng và định hướng chính sách tiền tệ ở Việt nam. Từ năm 1990, sau khi 2 pháp lệnh Ngân hàng được ban hành (pháp lệch về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệch Ngân hàng - Hợp tác xã tín dụng - Công ty tài chính), hệ thống Ngân hàng Việt nam chuyển đổi từ một cấp sang 2 cấp, phân định ró chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống Ngân hàng của nền kinh tế tiền tệ. Công cụ chính sách tiền tệ được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ thể: chính sách tín dụng tạo ra nhiều công cụ huy động vốn và đồng thời mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất (xoá bỏ bao cấp qua lãi suất cho vay, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay phù hợp với sự biến động của chỉ số lạm phát...); chính sách quản lý ngoại hối và một số các công cụ hỡ trợ khác. Đến tháng 10 năm 1998, luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng bắt đầu được thực thi, thay thế hai pháp lệnh năm 1990 nhằm giúp hoạt động của hệ thống Ngân hàng tự do hơn, thông thoáng hơn phù hợp với thay đổi lớn lao trong hệ thống Ngân hàng. II. công cụ chính sách tiền tệ của Việt nam qua các giai đoạn. Công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là tổng hoà các giải pháp đảm bảo ổn định đồng tiền và thị trường tiền tệ , góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Đứng trên phương diện này, thời kỳ 1986 đến nay có thể chia làm 4 giai đoạn. 1. Giai đợan 1986 - 1988. Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu luôn vượt tổng cung. Nền kinh tế đang ở giai đoạn khủng hoảng do thiếu hụt ngân sách. Như vậy Nhà nước đã bành trướng tăng tiền làm cho lạm phát đạt kỷ lục 3 con số. Nhiệm vụ trung tâm lúc này là chống lạm phát. Do vậy đã có 2 thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ: Đưa tỷ giá hối đoái nên ngang mức giá thị trường và thi hành lãi suất thực dương nhằm tạo nên xung lực mạnh mẽ làm đảo lộn tình hình trên thực tế, hai biện pháp này đã đẩy lùi được lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân vào đồng tiền tạo động lực để thực hiện đổi mới. 2. Giai đoạn 1989 -1991. Đây là giai đoạn nền kinh tế đong trong quá trình chuyển đổi, tuy các chính sách kinh tế mới đã cắt được lạm phát cao nhưng lạm phát năm 1990 - 1991 vẫn lên tới 60%. Nhà nước đã thực hiện những biện pháp thắt chặt chi tiêu tài chính, tiết kiệm chi, giảm bội chi, tăng cường hoạt động của các Ngân hàng nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng. Đặc biệt việc cải cách hệ thống thuế đã tăng cường các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. 3. Giai doạn 1992 - 1995. Công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam được coi là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ do Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm soạn thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị đồng tiền, ổn định tăng trưởng kinh tế. Thời kỳ này mục tiêu của công cụ chính sách tiền tệ đặt ra là: ổn định tiền tệ bao gồm ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đông tiền, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm cao. Nhận thức nội dung chủ yếu của thời kỳ này thông qua các chính sách: Chính sách cung ứng và điều tiết khối lượng tiền, chính sách ngoại hối, chính sách tạm ứng cho ngân sách, chính sách cung ứng và điều tiết tiền lúc này đã nhận thức được khối tiền tệ: M1: Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thông Ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại Ngân Hàng. M2: Gồn M1 và tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn. M3: Gồn M2 và các loại tiền gửi các định chế tổ chức khác. L: Gồm M3 và các giấy tờ có giá Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do đó trong quá trình xác định chi tiêu này Ngân hàng Nhà nước quán triệt các nguyên tắc: - Căn cứ vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khối lượng tiền tệ tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. - Khối lượng tiền cung ứng có tính đến phạm vi tỷ lệ lạm phát. - Khối lượng tiền cung ứng dựa vào ngoại hối trong tay người cư trú. - Tiền cung ứng chịu ảnh hưởng bởi tốc đọ lưu thông tiền tệ theo công thức: GNP V= M P x Q V= M Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm bao gồm tiền mặt, các loại tiền gửi ở Ngân hàng nhằm dành cho nhu cầu đầu tư tín dụng cho nền kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối và tạm ứng cho ngân sách. Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm chỉ là một chỉ tiêu định hướng, điều quan trọng là Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, giá cả và tỷ giá hối đoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho sao cho khối lượng tiền tăng hay giảm không làm ảnh hưởng đến giá cả hoặc thiếu phương tiện lưu thông gây cản trở cho lưu thông hàng hoá. Việc điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng theo tín hiệu cuả thị trường, thông qua nhu cầu đối ứng xuất phát từ các kênh tạo tiền (Tín dụng, Ngân hàng, thị trường ngoại hối, thị trường mở). Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: Kiểm soát lượng tiền cung ứng thông qua chỉ tiêu hạn mức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng cho các Ngân hàng thương mại thông qua hoạt động tài cấp vốn. Chính sách ngoại hối: Ngân hàng Nhà nước thực hiện biện pháp quản lý ngoại hối bao gồm việc sử dụng tỷ giá nhằm điều tiết thị trường ngoại hôí, quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Ngân hàng Nhà nước sử dụng chính sách tỷ giá linh hoạt, có sự quản lý, phản ánh sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả. Các công cụ của chính sách thời kỳ này bao gồm: + Lãi suất: Lãi suất tài cấp vốn cho các Ngân hàng thương mại vay khi họ có nhu cầu tiền Trung ương để thanh toán cho khách hàng rút tiền mặt, thanh toán cho Ngân hàng khác, mua ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương hoặc của thị trường. Khung lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định để chỉ đạo điều tiết lãi suất, huy động tiền gửi và lãi suất cho vay của các Ngân hàng kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu, lãi suất cho vay tối đa hoặc chỉ khống chế trần lãi suất cho vay. Tất cả các loại lãi suất trên đều có ảnh hưởng đến lãi suất thị trường. + Dự trữ bắt buộc: để kiểm soát việc tạo tiền của các Ngân hàng thương mại và điều tiết khối lượng tind dụng cho nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt nam áp dụng công cụ dự trữ bắt buộc. Tiền DTBB = Tỷ lệ DTBB x Số dư tiền gửi huy động Theo pháp lệnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10 - 30% nhưng Ngân hàng Nhà nước thường xuyên áp dụng ở mức 10% cho tất cả tiền gửi huy động. Sau đó có thể quy định riêng cho tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Thời kỳ này còn áp dụng cơ cấu dự trữ bắt buộc bao gồm: Tiền gửi trên tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và tiền mặt ngân phiếu tại quỹ của Ngân hàng thương mại, cũng có khi cho phép cả khoản mua tín phiếu kho bạc cũng được coi là dự trữ bắt buộc và để giảm bớt gánh nặng dự trữ bắt buộc cho các Ngân hàng. + Hạn mức tín dụng: Là công cụ để Ngân hàng Nhà nước khống chế mức tăng lượng tiền cung ứng. Trong thời kỳ này công cu hạn mức tín dụng được hiểu là mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước sử dụng để cấp cho nền kinh tế thông qua hệ thông hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng kết hợp với sử dụng nghiệp vụ tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu để khống chế mức tăng khối lượng tiền cung ứng phù hợp với yêu cầu của kiểm soát lạm phát. Tóm lại, trong giai đoạn này, nền kinh tế đã đi dần vào trạng thái ổn định và tăng trưởng cao: tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1994 đạt 8,8%, năm 1995 đạt 9,5%. Nhân tố quyết định trạng thái ổn định này là do Nhà nước qua kinh nghiệm điều hành đã nhận thức được rõ tác dụng của cung ứng tiền tệ lên lạm phát nên đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ hoạt động ngân hàng và thực hiện thành công chính sách tiền tệ. Giai đoạn này đã tạo ra nhiều yếu tố quyết định cho chiều hướng thuận lợi cho chính sách tiền tệ.và sự phát triển trong tiền tệ ở giai đoạn sau. 4. Giai đoạn từ 1996 đến nay. Tháng 12/1997 bộ luật Ngân hàng boa gồm luật Ngân hàng Nhà nước và luật tổ chức tín dụng thì hệ thống Ngân hàng được tiếp tục đổi mới và bước voà thời kỳ đổi mới căn bản và toàn diện trên tất cả các mặt. Theo đó công cụ chính sách tiền tệ mới bắt đầu xây dựng và từng bước được đi vào thực hiện, di dân từ thấp đến cao phú hợp với tình hình thực tế. Theo luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam thì các công cụ chính sách tiền tệ bao gồm: - Dự trữ bắt buộc. - Lãi suất. - Tài cấp vốn. - Thị trường mở - Tỷ giá Hiện nay thực tế vận hành chính sách tiền tệ Quốc gia Ngân hàng Nhà nước Việt nam sử dụng các công cụ: + Công cụ hạn mức tín dụng: Công cụ này được Ngân hàng Nhà nước áp dụng trong điều hành chính sách tiền tệ từ năm 1994 đã có tác dụng hiệu quả đến tốc độ tăng lượng tiền cung ứng và qua đó kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên trong những năm gần đây việc áp dụng công cụ này đã mất dần vai trò của nó. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo thêm những khó khăn cho các Ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng do vậy từ quý II năm 1998 Ngân hàng Nhà nước đã không sử dụng công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ. + áp dụng quy chế dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác có huy động tiền gửi để điều tiết khối lượng tiền cung ứng theo năm kế hoạch. + Công cụ tài cấp vốn: Ngân hàng Nhà nước thực hiện tài cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các Ngân hàng thương mại theo các hình thức: \ Cho vay theo hồ sơ tín dụng. \ Chiết khấu, tài chiết khấuthương phiếu và các chứng từ có giá ngằn hạnkhác. \ Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các chứng từ có giá ngắn hạn khác. + Công cụ lãi suất: Chính sách lãi suất được Ngân hàng Nhà nước sử dụng trong mối quan hệ điều hoà với tỷ giá. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện việc kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng chính sách quy định trần lãi suất cho vay đối với VNĐ và ngoại tệ, trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất huy động phù hợp với cung - cầu tín dụng. Hiện nay đang tiến hành tới quy định lãi suất cơ bản. + Công cụ tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa 2 đồng tiền hay giá cả một đơn vị tiền nước này bằng bao nhiêu đơn vị tiền nước khác. Ngân hàng Nhà nước thực hiện biện pháp điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến trên thị trường ngoại hối trong khu vực. + Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Hiện nay Việt nam đang chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đưa công cụ nào về vận hành. Vừa qua mới ban hành quy chế và đang thí điểm, thể hiện Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua bán tín phiếu ngăng hạn, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để tác động vào lượng tiền cung ứng, việc thực hiện ban đầy gặp lhó khăn, song do hàng hoá ở thị trường chưa có nhiều, vì vậy công cụ này chưa phát huy được hiệu quả. Từ năm 1996, hàng năm Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu cuảu chính sách tiền tệ phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ, diễn biến tiền tệ của năm trước như: Tốc độ tăng trưởng phương tiện thanh toán, tốc độ tăng tín dụng, tốc độ tăng huy động tiền gửi, tốc độ tăng dự trữ ngoại tệ. Hướng điều hành chính sách tiền tệ: Ngân hàng Nhà nước phải xác định được khối lượng tiền tăng thêm hàng năm, xác định công cụ chính sách tiền tệ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tài cấp vốn, tỷ giá, quản lý ngoại hối. III. những hạn chế trong điều hành công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam. 1.Nhận xét chung: Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc điều hành công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam cũng đang được bộc lộ những hạn chế thiếu sót nhất định. Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính tiền tệ nói chung và sự thiếu nhất quán về một số mặt trong chính sách vĩ mô, trong đó có chính sách tiền tệ cũng bộc lộ khá sớm, đe doạ sự ổn định của nền kinh tế về trung và dài hạn. Bên cạnh đó vòng xoái tụt dốc “đô mi nô” về tăng trưởng kinh tế cũng ảnh hưởng đến Việt nam ít nhất là trong vòng 2 đến 3 năm kể từ năm 1997. Tình hình xấu đi càng bộc lộ rõ những khó khăn và tồn tại trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ trong vòng 5 năm trở lại đây. Có thể nêu một số điều chủ yếu sau: - Các công cụ điều hành công cụ chính sách tiền tệ chưa được hoàn chỉnh theo cơ chế thị trường và còn ở rạng sơ khai. Yêu cầu kiện toàn chính sách lãi suất trong mối tương quan chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp hơn vẫn chưa được xử lý tốt. - Kinh doanh của hầu hết các Ngân hàng thương mại bị gò bó , thiếu chủ động tự chủ. Hơn nữa phần lớn các Ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay đều trong tình trạng thua lỗ, cho vay không hiệu quả, tỷ lệ nợ khó đòi, nợ quá hạn, nợ không sinh lời khá cao. Nhìn chung rủi ro tín dụng Ngân hàng là đáng lo ngại, bên cạnh đó là các loại rủi ro khác về tỷ giá, về thanh toán đối ngoại... -Thị trường liên Ngân hàng nội ngoại tệ được thành lập và đi vào hoạt động từ những năm 1993 - 1994 nhưng chưa phát triển sôi động, chưa trở thành giao điểm hội tụ và định hướng chuyển dịch các dòng vốn nhàn rỗi giữa các Ngân hàng thương mại. Các giao dịch ngoại tệ chính thức bị gò bó, chi phối chưa mạnh và kịp thời với biến đọng tỷ giá hối đoái thị trường. Thị trường vốn mới ở dạng “manh nha” nên khả năng cung ứng vốn đầu tư trung, dài hạn cho nền kinh tế còn rất yếu. Việc tạo lập các công cụ và thể chế phát triển thị trường tiền tệ ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn nói chung mới bắt đầu và còn gặp không ít khó khăn: Đó là những trở ngại lớn cho Ngân hàng Nhà nước trong việc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở để kiểm soát, điều chỉnh kịp thời tổng lượng tiền trong lưu thông. Sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánh nặng của bội chi ngân sách tạo nên những áp lực từ nhiều phía đe doạ tính ổn định, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ mà bước đầu đã tạo dựng được ở giai đoạn chống lạm phát trước đây, thâm hụt cán cân vãng lai chủ yếu phải bù đắp bằng nhập khẩu vốn là nguyên nhân chính gây ra nạn “dollar hoá” khiến VNĐ bị đánh giá quá cao kích thích tâm lý tích luỹ giá trị dưới dạng ngoại tệ, không gian tiền tệ bị méo mó. Trong khi đó sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ tín dụng và Ngân hàng sau một vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua lãi suất ưu đãi, qua áp lực chỉ định cho vay của các cấp chính quyền... Đó là những trở ngại không dễ dỡ bỏ trong quá trình hoàn thiện công cụ chính sách tiền tệ hiện nay. Ví dụ đôi nét về thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây. 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tăng trưởng kinh tế 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 8,2 5,8 4,8 6,7 Thu ngân sách 13,1 19,0 23,5 23,2 23,3 23,1 26.1 20,5 18,3 18,0 Chi ngân sách 15.5 21,4 28,8 27,9 27,5 26,2 26,8 23,6 23,2 22,9 Bội chi ngân sách 2,4 2,4 5,2 4,7 4,2 3,1 4,2 3,1 4,9 4,9 2. Hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam. Hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt nam đang sử dụng một hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp bao gồm: Hạn mức tín dụng, lãi suất (thông qua hệ thống trần lãi suất cho vay), tỉ giá. Bên cạnh đó các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc và chính sách tài cấp vốn (bao gồm hạn mức tài cấp vốn và lãi suất tài cấp vốn) cũng được sử dụng nhưng hiệu quả tác động còn hạn chế. Để bổ trợ cho các công cụ trên, Ngân hàng Nhà nước Việt nam còn sử dụng một loạt các chính sách điều chỉnh trực tiếp như chính sách tín dụng, chính sách quản lý ngoại hối. Việc sử dụng hệ thống công cụ điều tiết trực tiếp trong thời 10 năm qua mặc dù những hạn chế của nó được biết trước là hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt nam khi những điều kiện sử dụng công cụ gián tiếp chưa được hình thành. Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước Việt nam không có khả nảng kiểm soát chính xác sự biến động số dư dự trữ của hệ thông Ngân hàng, một trong những căn cứ quan trọng để có thể sử dụng cơ chế điều chỉnh gián tiếp. Khả năng cập nhật thông tin và những phương tiện kỹ thuật phụ trợ hiện tại làm hạn chế khả năng của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát và dự boá chính xác sự biến độngmức dự trữ của hệ thống Ngân hàng. Thứ hai: Mối quan hệ giữa lượng tiền cung ứng là rất khó dự đoán do sự biến động bất thường của cả cơ sở tiền tệ và các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số tạo tiền. Thứ ba: Hệ thống thị trường tài chính và khả năng chứng khoán hoá các nhu cầu vốn chưa phát triển và chưa trở thành thói quen của cộng đồng. đương nhiên khi các điều kiện của cơ chế gián tiếp chưa hình thành thì việc sử dụng cơ chế trực tiếp là tất yếu. Trong thực tế, cơ chế điều chỉnh trực tiếp đã đem lại sự thành công đáng kể cho chính sách tiền tệ trong thập kỷ 90 khi nhìn vào sự biến động của các mục tiêu vĩ mô, lạm phát, sản lượng và công ăn việc làm. chính sách tiền tệ đã đạt được hiệu quả tối đa của nó. Nếu quan niệm rằng mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị tiền tệ với ý nghĩa là ổn định tỷ lệ lamj phát ở mức thấp thì trong thời gian vưa qua mục tiêu này chưa được thực hiện một cách hoàn hảo tỷ lệ lạm phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán từ năm này qua năm khác. Những biến động về hiệu quả và phân phối lại các lạm phát do ảnh hưởng đến giá trị thực của các chỉ tiêu giá trị không chỉ nảy sinh từ mức lạm phát cao mà chủ yếu từ sự bất ổn định của tỷ lệ lạm phát. Vì điều quan trọng bắt đầu từ năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục nhưng giấ cả có xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 1998 và sự giảm giá này diễn ra ở hầu hết các tháng trong năm 1999. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm mạnh từ năm 1998. Điều này chứng tỏ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước tỏ ra lúng túng và thiếu chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng để đảm bảo cho phù hợp vỡi nhu cầu về tiền tệ của nền kinh tế. Lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng trên có lẽ xuất phát từ hạn chế vốn có của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ mà ngày càng bộc lộ rõ nét: Một là: Các công cu trực tiếp không cho phép Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện ứ thừa. Tình trạng dự trữ không mong muốn ở các Ngân hàng thương mại bắt đầu từ năm 1994 và kéo dài đến nau. Lý do ban đầu có lẽ bởi việc duy trì lãi suất tiền gửi cao cùng với việc khống chế trần tín dụng trong những năm 1994 - 1996, bởi dự trữ ngoại tệ tăng lên rất mạnh trong thời gian này và tỷ lệ tiền gửi có xu hướng giảm xuống. Tuy nhiên lý do chủ yếu của tình trạng này từ năm 19

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35282.doc
Tài liệu liên quan