Đề án Các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ trên thị trường mở của Ngân hàng Trung ương

Thị trường mở là công cụ kiểm soát tiền tệ chủ yếu ở các nước công nghiệp và ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển và với nền kinh tế chuyển đổi. Nó cho phép Ngân hàng Trung ương có khả năng linh hoạt hơn trong việc xác định thời điểm và khối lượng giao dịch tiền tệ theo ý muốn, thúc đẩy nhiều mối quan hệ mang tính chất kinh doanh và khắc phục được những hạn chế của các công cụ trực tiếp. Thay vì việc sử dụng những công cụ trực tiếp kém hiệu quả, khi nghiệp vụ thị trường mở đã phát huy đầy đủ tác dụng của nó trong những điều kiện thích hợp, công cụ này được sử dụng thường xuyên hơn bởi những ưu điểm hơn hẳn của mình so với các công cụ khác như thị trường mở có khả năng kiểm soát hoàn toàn về mặt khối lượng. Sự kiểm soát này mang tính chất chủ động và linh hoạt về thời gian và mức độ tác động. Hơn nữa ở bất kỳ mức độ nào, mục đích nào khi sử dụng nghiệp vụ này Ngân hàng Trung ương luôn tạo được tính khách quan trong tác động như một thương nhân tham gia và thị trường.

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4317 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ trên thị trường mở của Ngân hàng Trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó giá mới bắt đầu tập dượt trên thị trường sơ cấp đối với tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng nhà nước và tín phiếu các ngân hàng thương mại. Trên thị trường thứ cấp nghiệp vụ này còn nằm trên bản thảo, nên chưa có kinh nghiệm. Quá trình dự thảo các văn bản pháp qui liên quan đến các công cụ của chính sách tiền tệ còn nhiều vấn đề cần trao đổi rộng rãi. Về cho vay tái cấp vốn, nên cho vay trả lãi trước ( cho vay chiết khấu ) hay cho vay trả lãi sau hàng tháng như lâu nay. Cho vay trả lãi trước có một ưu điểm là giảm được sự lạm dụng vay để mua chứng khoản trả lãi trước. Nhu cầu vốn tạm thời để điều chỉnh cân đối hàng ngày của các ngân hàng xử lý bằng loại cho vay nào, có tiếp tục cho vay thanh toán bù trừ không. Về chiết khấu giấy tờ có giá, có nên chiết khấu như một công cụ riêng biệt hay được bao gồm trong chính sách tái cấp vốn hoặc giai đoạn đầu của nghiệp vụ thị trường mở? Về nghiệp vụ thị trường mở, hoạt động trên thị trường tài chính nói chung hay chỉ trên thị trường tiền tệ, công cụ để giao dịch trên nghiệp vụ này là giấy tờ có giá ( GTCG) nói chung hay chỉ GTCG ngắn hạn. Nói một cách khác chính sách tiền tệ chú ý đến khả năng thanh khoản hay tính thời hạn của công cụ tài chính. Nếu mối quan tâm nhằm vào tính thời hạn ( ngắn hạn ) thì trên thực tế nhiều công cụ tài chính dài hạn ở nhiều trường hợp có khả năng chuyển đổi nhanh hơn các công cụ ngắn hạn, sẽ bị loại bỏ khỏi nghiệp vụ thị trường mở (chứng khoán chính phủ chẳng hạn ). Trong khi đó nhiều GTCG ngắn hạn rất khó chuyển đổi không phù hợp với chính sách tiền tệ nhạy bén buộc phải mua, bán trên thị trường mở. ở các nước Ngân hàng Trung ương quan tâm vào khả năng thanh khoản của các công cụ tài chính hơn là thời hạn. Một chứng khoán thanh khoán cao có thể chuyển đổi được ngay nhờ kỹ thuật hợp đồng mua bán lại trong khi đó một chứng khoán ngắn hạn bị ế thì không có kỹ thuật nào để xử lý. ở Việt Nam trong khi các công cụ tài chính còn hiếm hoi Luật Ngân hàng nhà nước giới hạn phạm vi giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở trên thị trường tiền tệ thì trước hết nghiệp vụ này bước đầu gặp khó khăn do thiếu các công cụ tài chính (vì trái phiếu kho bạc nhà nước chủ yếu có thời hạn dài trên một năm) sau tiếp có thể giảm hiệu quả của nó. Thành viên tham gia thị trường mở bao gồm tất cả hệ thống tài chính, phi tài chính và tư nhân hay chỉ có duy nhất hệ thống tài chính ( điều này rất quan trọng vì nghiệp vụ thị trường mở có hiệu quả hay không phụ thuộc vào hai yếu tố một là thành viên tham gia, hai là công cụ tài chính ). Phương thức mua, bán là gì ( mua, bán hẳn, hợp đồng mua, bán lại ...) thanh toán mua, bán bằng hình thức nào ( bằng chuyển khoản, bằng séc, bằng điện tử... ) Vì vậy em xin sơ lược đề xuất các giai đoạn tổ chức, vận hành nghiệp vụ thị trường mở như sau: Các bước hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở Phân tổ Giai đoạn đầu (có thể áp dung) Giai đoạn hoàn thiện 1. Thành viên tham gia - Chỉ bao gồm các định chế tài chính - Hệ thống tài chính - Phi tài chính (các công ty) - Tư nhân 2. Các công cụ tài chính áp dụng - Chứng khoán chính phủ ngắn hạn - Tín phiếu NHNN ngắn hạn - Chứng khoán chính phủ ngắn hạn - Chứng khoán chính phủ dài hạn (bao gồm các cơ quan thuộc chính phủ) 3. Lãi chiết khấu áp dụng - Lãi suất cố định - Lãi suất đấu thầu 4- Kỹ thuật thị trường mở - Mua, bán hẳn - Mua, bán hẳn - Mua bán theo hợp đồng mua lại 5- Thời gian hoạt động - 1 tuần, tháng... - Hàng ngày, khi cần thiết Ta cần lưu ý: 1- Mua hoặc bán chứng khoán tận tay tư nhân là cách can thiệp vào lượng tiền cung ứng trực tiếp và nhanh nhất. 2- Khả năng thanh khoản của chứng khoán quyết định tính linh hoạt của thị trường mở chứ không phải thời hạn của chứng khoán, do đó nghiệp vụ thị trường mở hoạt động trên thị trường chứng khoán nói chung chứ không chỉ thu hẹp trên thị trường tiền tệ. Sau đây em xin nêu một vài suy nghĩ và kiến nghị sau đây: 1- Để phù hợp với thông lệ quốc té đồng thời là điều kiệnh thực tế của Việt Nam hiện nay đề nghị sửa lại Điều 9 và Điều 21 Luật NHNN. Có như vậy mới tạo được tiền đề cho nghiệp vụ TTM hoạt động có hiệu quả. Cụ thể là cộng cụ mua, bán trên nghiệp vụ này bao gồm GTCG nói chung chứ không chỉ GTCG ngắn hạn, hay nói cách khác nghiệp vụ TTM hoạt động trên phạm vi cả thị trường vốn và thị trường tiền tệ, nhất là hiện nay trong điều kiện nền kinh tế mới chuyển đổi chúng ta còn thiếu nhiều công cụ tài chính để giao dịch mua bán. Thực tế cho thấy do yêu cầu chi tiêu dài hạn của Ngân sách Nhà nước nên các trái phiếu kho bạc phát hành có thời hạn thanh toán trên một năm được bộ Tài chính ưa chuộng hơn. Nếu bó hẹp theo thời hạn có nghĩa là chúng ta tự loại các trái phiếu này – (loại GTCG có uy tín khả năng thanh khoản cao) ra khỏi nghiệp vụ TTM. Điều mà CSTT đang cần. Trong khi chờ sửa luật đề nghị Bộ Tài chính tiếp tục phát hành tín phiếu kho bạc thời hạn dưới một năm lâu nay đang thực hiện đấu thầu qua NHNN hoặc có thể vận dụng thời hạn còn lại của GTCG để làm cơ sở pháp lý trong giao dịch, mua bán trên nghiệp vụ TTM. 2- Không tách chiết khấu GTCG thành một khái niệm riêng “Cửa chiết khấu đặc biệt”. Thực ra chiết khấu GTCG không có điều kiện nào dặc biệt. Nên coi đây là kỹ thuật tài chính trong nghiệp cụ thị trường mở giai đoạn đầu ( mua GTCG theo phương pháp chiết khấu với lãi suất theo chỉ đạo). 3- Bỏ cho vay thanh toán bù trừ (điều này phù hợp với dự án hệ thống thanh toán mới đã ký hợp đồng triển khai với công ty Hundai), thiết kế loại cho vay điều chỉnh cân đối vốn tạm thời hàng ngày có bảo đảm trong loại cho vay tái cấp vốn có bảo đảm (điểm 3 điều 17 luật NHNN) thay vì chiết khấu GTCG (điểm 2 điều 17). 4- Về xu hướng các NHTM thích sử dụng công cụ nào lãi suất hạ để vay hoặc để bán. Nếu lãi suất vay hạ thì thông thường NHTM chưa bán GTCG. Do vậy để NHTM sử dụng hết GTCG mới vay thì NHTW phải nâng cao lãi suất cho vay cao hơn lãi chiết khấu GTCG, khi nào GTCG đã chiết khấu hết là lúc NHTW hạ lãi suất cho vay ngang bằng hoặc thấp hơn lãi chiết khấu GTCG. Để chống tình trạng vay lãi suất thấp đầu cơ để mua chứng khoán có lãi suất cao, ở đây kiểm soát lãi suất, khối lượng cho vay trong sự phối hợp hài hoà giữa các công cụ của CSTT là rất quan trọng. Điều này càng có ý nghĩa khi lãi suất được coi như một trong những đòn bẩy kích cầu nền kinh tế (1). Phần II: Nghiệp vụ thị trường mở1 Thị trường tài chính tiền tệ 12/1999. I. Nghiệp vụ thị trường mở. Chính sách tiền tệ ngân hàng Trung ương là tổng hoà các giải pháp bảo đảm ổn định đồng tiền và thị trường tiền tệ góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế, ổn định lãi suất, ổn định hệ thống tài chính, thị trường ngoại hối ... Đã có nhiều giải pháp được sáng tạo, hoàn thiện dần trong quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng và được thừa nhận là những công cụ điều hành sắc bén hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp tác động lên khối lượng tiền tệ, phạm vi tín dụng và mặt bằng lãi suất. Điểm xuất phát để tiếp cận khi áp dụng các giải pháp này là làm thế nào để đạt được một khối lượng tiền nhất định tương ứng với một mức lãi suất. Để đạt được những điều này, các nhà hoạch định chính sách cân nhắc các giải pháp thích hợp khi áp dụng hàng loạt các biện pháp được thử nghiệm rồi tựu chung lại thành một số giải pháp chủ yếu được sử dụng cho đến ngày nay. Nó đã đang và sẽ được các ngân hàng Trung ương áp dụng làm công cụ của chính sách tiền tệ như: tái cấp vốn, lãi suất trần, tỷ giá, dự trù bắt buộc, tái chiết khấu và đặc biệt nghiệp vụ thị trường mở. Ra đời vào những năm 20 của thế kỷ này, nghiệp vụ thị trường mở tỏ ra là một trong những công cụ hỗ trợ đắc lực nhất trong điều hành chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ này là nơi diễn ra việc mua bán các chứng khoán ngắn hạn giữa một bên là ngân hàng Trung ương, một bên là khách hàng bao gồm các ngân hàng, các tổ chức phi ngân hàng và tư nhân (1). Các giao dịch mua bán này giúp ngân hàng Trung ương có thể thay đ1 Tạp chí Ngân hàng – số 3 + 4 – tháng 2/1999 ổi khối lượng tiền dự trữ theo mong muốn tăng dự trữ thực hiện nghiệp vụ mua bán, giảm dự trữ, thực hiện nghiệp vụ bán. Do các thao tác của chính sách tiền tệ trong việ kiểm soát lượng tiền dự trữ mà nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện một cách chủ động hay thụ động. Khi chủ động, ngân hàng Trung ương nhằm vào mục tiêu là khối lượng tiền dự trù xác định và cho phép lãi suất có thể dao động dự do. Ngược lại, mức lãi suất được cố định và khối lượng tiền dự trữ được phép thay đổi. Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của xã hội mà quốc gia này hay quốc gia khác có thể chủ động hoặc thụ động trong việc sử dụng công cụ này. Dù mục tiêu của chính sách tiền tệ là lượng tiền dự trữ hay lãi suất, ngân hàng Trung ương vẫn phải dựa vào những số liệu ước tính về những nhân tố khác tác động dến cung ứng tiền . Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện điều chỉnh sớm chính sách tiền tệ. Công cụ tài chính được sử dụng trong nghiệp vụ này đó là những chứng khoán của kho bạc và của ngân hàng Trung ương như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Bên cạnh đó còn có một số công cụ nợ ngắn hạn khác như: thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn, hợp đồng mua lại... do các định chế tài chính và cả công ty phát hành. Mỗi loại công cụ này lại được lựa chọn sao cho phù hợp nhất với các điều kiện của thị trường. Ba khu vực để hoạt động thị trường mở có hiệu quả là thị trường chứng khoán chính phủ và ngân hàng Trung ương, thị trường liên ngân hàng và thị trường các công cụ nợ ngắn hạn (22 Báo thị trường tài chính – tiền tệ số 13 – tháng 7/2000. ). Các công cụ được sử dụng phải là các công cụ có tính linh hoạt, được sử dụng rộng rãi, khả năng thanh toán cao, thích hợp với các hình thức giao dịch khác nhau. Ví dụ như dưới hình thức đấu thầu các loại chứng khoán trên thị trường sơ cấp của kho bạc hay ngân hàng Trung ương, nếu các khoản tiền thu được không dành riêng cho chỉ tiêu chính phủ thì nó sẽ được coi là một nghiệp vụ tiền tệ. ở một số nước có thị trường tài chính phát triển, thị trường đối với chứng khoán. Chính phủ thoả mãn các điều kiện đòi hỏi của nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Trung ương các nước này thực hiện phần lớn các nghiệp vụ thị trường mở thông qua thị trường này. Tuy nhiên để duy trì một thị trường lành mạnh cần phải có những điều kiện chính trị xã hội ổn định, khi đó các loại chứng khoán của chính phủ được bảo đảm như vậy rủi ro tín dụng với loại công cụ này coi như không có và nó trở thành phương tiện tốt nhất cho hoạt động thị trường mở. Nếu hoạt động mua bán các công cụ nợ phát triển mạnh trên thị trường sơ cấp thì đó cũng là yếu tố khuyến khích thị trường thứ cấp hoạt động mạnh mẽ. Vì vậy ngân hàng Trung ương luôn luôn nắm vững các thông tin và biến động thị trường sao cho thị trường sơ cấp hoạt động đạt hiệu quả. Nếu như nói thị trường sơ cấp là điều kiện cần thị trường thứ cấp sẽ là điều kiện đủ để hoàn thiện toàn bộ hệ thống thị trường của các công cụ nợ. Trên thị trường thứ cấp, nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành linh hoạt với các loại chứng khoán1. Tạp chí Ngân hàng số 8/2000 1. Tạp chí Ngân hàng số 3+4 tháng 2 năm 1999 được xếp loại tín nhiệm cao, chủ yếu dưới dạng hợp đồng mua lại và hợp đồng mua lại đảo chiều (1). Ngược lại với các nghiệp vụ, mua bán đứt- hình thức mua bán thông qua đấu thầug rọng rãi – hợp đồng mua lại hay hợp đồng hay hợp đồng mua lại đảo chiều được sử dụng khi cần bổ sung tăng hoặc giảm dự trữ tạm thời Ngân hàng Trung ương tham gia trực tiếp kí hợp đồng với các nhà môi giới, nó có thể được thực hiện qua đêm hoặc trên cơ sở gọi là thời hạn xác định thường là 7 ngày(2). Các khoản nợ ngắn hạn của tư nhân, kể cả các công cụ nợ trên thị trường liên ngân hàng kém phù hợp cho các giao dịch trên thị trường mở. Trước hết là do nó chứa đựng nhiều rủi ro tính dụng thêm vào đó nó còn có thể đẩy các ngân hàng trung ương vào tình thế khó khăn khi phải lựa chọn. Vì vậy nó ít được sử dụng vào nghiệp vụ này. Trên thế giới, hiện nay có rất ít nước có được thị trường lý tưởng- là điều kiện cho hoạt động thị trường mở. Vì vậy, các công cụ cần được kết hợp với nhau phụ thuộc vào chiến lược cụ thể áp dụng cho từng thời kỳ và cho từng quốc gia. Vậy nghiệp vụ thị trường mở có mối quan hệ như thế nào với các công cụ khác! Với công cụ dự trữ bắt buộc, ngân hàng Trung ương kết hợp với nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm tăng cường tính hiệu quả của chính sách tiền tệ và giúp cho Ngân hàng Trung ương đo được tác động với lãi suất và cung ứng tiền. Tuy nhiên dự trữ bắt buộc là phương pháp truyền thống của các Ngân hàng Trung ương. Tuy rằng việc thay đổi tỷ lệ tài sản được yêu cầu ở dạng dự trữ rõ ràng là phương tiện để kiểm soát tiền tệ nhưng vì hiện nay việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở đã trở nên rộng rãi hơn nên thực tế các Ngân hàng Trung ương ít phải thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc – 1 công cụ tương đối thô sơ. Ngày nay vai trò của công cụ này đã bị hạ thấp vì các ngân hàng cho rằng họ bị bất công hơn so với các định chế tài chính khác cũng hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng mà lại không phải để lại một khoản dự trữ bắt buộc được qui định từ phía Ngân hàng Trung ương. Do vậy một số nước như Anh không áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc chỉ duy trì nó ở một mức cần thiết với một mức dự trữ tối thiểu, hoạt động thị trường mở sẽ tự phát huy hiệu quả và ảnh hưởng của nó đến lãi suất và mức cung tiền. Tuy vậy song song với nghiệp vụ này dự trữ bắt buộc vẫn và công cụ quan trọng của Ngân hàng Trung ương. Song hành với nghiệp vụ thị trường mở, chiết khấu tái chiết khấu cũng được coi là các công cụ chủ đạo Ngân hàng Trung ương nghiên cứu xác lập một cách phù hợp mối quan hệ và trật tự vận hành giữa hai công cụ này khác với chiết khấu và tái chiết khấu, các ngân hàng tham gia nghiệp vụ này không chỉ nhằm mục tiêu quản lý khả năng thanh khoản của mình mà đây còn là cơ hội kinh doanh với những mục tiêu lợi nhuận rõ ràng. Để hạn chế các ngân hàng tiếp cận được với Ngân hàng Trung ương thông qua “ cửa sổ chiết khấu “ vì nếu không thì nghiệp vụ thị trường mở không thể sử dụng như một công cụ cơ bản được, cần có những chính sách về lãi suất chiết khấu và điều kiện chiết khấu chặt chẽ. Như vậy “ cửa số chiết khấu “ sẽ trở nên kém hấp hẫn với các ngân hàng khi họ có ý định tham gia vào nghiệp vụ này đồng thời đây cũng là biện pháp nhằm hạn chế việc lạm dụng cửa sổ chiết khấu ở Ngân hàng Trung ương. Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở và “ cửa sổ chiết khấu” có thể được triển khai song hành trong điều hành tiền tệ nhưng Ngân hàng Trung ương còn bảo đảm rằng có sự tách bạch rõ ràng phạm vi tác động của chúng để có thể điều hành và phối hợp hai công cụ này phát huy tác dụng tốt nhất theo mục tiêu cuả chính sách tiền tệ. Thị trường mở là công cụ kiểm soát tiền tệ chủ yếu ở các nước công nghiệp và ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển và với nền kinh tế chuyển đổi. Nó cho phép Ngân hàng Trung ương có khả năng linh hoạt hơn trong việc xác định thời điểm và khối lượng giao dịch tiền tệ theo ý muốn, thúc đẩy nhiều mối quan hệ mang tính chất kinh doanh và khắc phục được những hạn chế của các công cụ trực tiếp. Thay vì việc sử dụng những công cụ trực tiếp kém hiệu quả, khi nghiệp vụ thị trường mở đã phát huy đầy đủ tác dụng của nó trong những điều kiện thích hợp, công cụ này được sử dụng thường xuyên hơn bởi những ưu điểm hơn hẳn của mình so với các công cụ khác như thị trường mở có khả năng kiểm soát hoàn toàn về mặt khối lượng. Sự kiểm soát này mang tính chất chủ động và linh hoạt về thời gian và mức độ tác động. Hơn nữa ở bất kỳ mức độ nào, mục đích nào khi sử dụng nghiệp vụ này Ngân hàng Trung ương luôn tạo được tính khách quan trong tác động như một thương nhân tham gia và thị trường. Thị trường mở còn có tác động hai chiều. Điều này đã khắc phục được hạn chế trong việc tác động một chiều của Ngân hàng Trung ương khi tiến hành chính sách tái chiết khấu. Khi tiến hành hoạt động trên thị trường mở, Ngân hàng Trung ương có thể sửa chữa sai lầm của mình bằng nghiệp vụ ngược lại – mua hoặc bán trong khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc muốn thay đổi thì phải kéo theo hàng loạt chi phí và thủ tục hành chính phức tạp thì với thị trường mở có thể thực hiện một cách nhanh chóng mà không gặp phải vấn đề trở ngại trong thủ tục hành chính. Với một loạt ưu điểm kể trên chúng ta thấy rõ được nguyên nhân vì sao ngày nay nghiệp vụ thị trường mở lại được coi là công cụ hữu hiệu nhất trong điều hành chính sách tiền tệ được sử dụng ngày càng rộng rãi. Tuy nhiên nó không thể là hoặc chưa thể là công cụ thay thế hoàn hảo nhất cho các công cụ khác của chính sách tiền tệ vì vậy việc điều tiết và phối hợp các công cụ này vẫn là một vấn đề quan trọng và không ai khác đó chính là Ngân hàng Trung ương đóng vai trò quyết định trong vấn đề này. Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ bắt buộc phải diễn ra trên thị trường Ngân hàng Trung ương muốn kiếm soát tốt nghiệp vụ này của mình thì cần phải thể hiện rõ vai trò của nó trong việc hình thành nên những thị trường lý tưởng. Đó là những thị trường có tính minh bạch để có thể khuyến khích sự tham gia rộng rãi. Chúng ta có thể phân tạm thời hai thị trường chính mà Ngân hàng Trung ương đóng vai trò chủ đạo: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Đối với thị trường sơ cấp – là nơi đấu thầu các loại chứng khoán mới của kho bạc phát hành mà Ngân hàng Trung ương là người đứng ra bảo lãnh và làm đại lý đấu thầu. Để đảm bảo chắc chắn rằng thị trường sơ cấp cung cấp những chứng khoán nợ có đều nhằm khuyến cáo các tổ chức và cá nhân tham gia đấu thầu Ngân hàng Trung ương cần thể hiện rõ vai trò chủ đạo ngay từ giai đoạn đầu. Một sự bảo đảm rằng các chứng khoán sẽ được chuyển giao đúng hạn và thanh toán như đã thoả thuận sẽ làm cho nó được ưa chuộng trong lưu thông. Ngân hàng Trung ương có thể tạo cho chứng khoán kho bạc những điều kiện bảo đảm nhất bằng cách phối hợp áp dụngc ác công nghệ tiên tiến trên thị trường chứng khoán của Chính phủ chẳng hạn như hệ thống kế toán hay qui trình thanh toán với công nghệ hiện đại. Việc đặt ra một số qui định với các bên tham gia giao dịch với Ngân hàng Trung ương cũng đưa ra một biện pháp hữu hiệu cũng như việc niêm yết rõ ràng giá mua và giá bán trên thị trường. Chính vì sự phát triển và hoàn thiện không ngừng của thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp lúc đó cũng sẽ hội đủ những tiêu chuẩn cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của mình. Thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ là một ví dụ. Sự đa dạng của thị trường sơ cấp cũng là sự đa dạng trong thị trường thứ cấp. Vì vậy bên cạnh việc hoàn thiện vai trò chủ đạo của mình ở thị trường sơ cấp, Ngân hàng Trung ương cần phát huy khuyến khích cho các thị trường thứ cấp phát triển. Vì rằng hoạt động thị trường mở sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều trên thị trường thứ cấp. Như vậy vai trò của Ngân hàng Trung ương là vô cùng quan trọng, chính sách tiền tệ là các Ngân hàng Trung ương đưa ra vì vậy nó sẽ có toàn quyền quyết định là sẽ hành động như thế nào để đạt mục tiêu đã đặt ra. Và việc sử dụng loại công cụ có hiệu quả nhất – nghiệp vụ thị trường mở – phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động cảu Ngân hàng Trung ương – Ngân hàng có một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống ngân hàng của tất cả các quốc gia trên thế giới, kể từ khi nó ra đời . - Nghiệp vụ thị trường mở – Công cụ quan trọng của Ngân hàng Trung ương. Đối với bất kỳ một Ngân hàng Trung ương nào thì việc ổn định giá trị của đồng tiền là nhiệm vụ quan trọng nhất. Muốn hoàn thành được trọng trách này ngoài các chính sách vĩ môt thì Ngân hàng Trung ương còn sử dụng ba công cụ quan trọng đó là: Tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở và dự trữ bắt buộc trong đó quan trọng nhất là nghiệp vụ thị trường mở. Sở dĩ được coi là quan trọng bởi vì nó là nhân tố đầu tiên có thể làm thay đổi lãi suất hoặc cơ sở của lãi suất tiền tệ. Thông thường Ngân hàng Trung ương các nước sử dụng nhiều loại giấy tờ có giá khác nhau để giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở. Đó là trái phiếu, tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Trung ương, chứng chỉ tiền gửi ( CD ), thương phiếu ( thời hạn ngắn ), chấp nhận ( hối phiếu ) của các ngân hàng ... Tuy nhiên hầu hết các Ngân hàng Trung ương thường thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở bằng chứng khoán kho bạc, bởi vì chứng khoán kho bạc có tính thanh khoản cao, dễ chuyển đổi trên thị trường và do đó dễ được các bên giao dịch chấp nhận trong giao dịch. Ngoài ra thị trường mở còn có 5 ưu điểm nổi bật dưới đây: - Nghiệp vụ thị trường mở phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của Ngân hàng Trung ương, trong đó Ngân hàng Trung ương hoàn toàn kiểm soát được khối lượng giao dịch, tuy nhiên việc kiểm soát này là gián tiếp. - Nghiệp vụ thị trường mở vừa chính xác vừa linh hoạt, có thể sử dụng ở bất kỳ qui mô nào, khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ, dù ở mức nhỏ nào đi nữa, nghiệp vụ thị trường mở cũng có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán chứng khoán. - Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng đảo chiều. Nếu Ngân hàng Trung ương có mắc sai sót nào đó trong quá trình thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thì có thể ngay tức khắc sửa chữa sai sót đó. - Nghiệp vụ thị trường mở có tính an toàn cao, giao dịch trên thị trường mở hầu như không gặp rủi ro, xét trên góc độ của cả Ngân hàng Trung ương lẫn các ngân hàng thương mại, bởi vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên thị trường mở đều là những giấy tờ có giá, có tính thanh khoản cao, không có rủi ro tài chính (1 Tạp chí Ngân hàng số 9 – năm 2000 ). II. Nghiệp vụ thị trường mở ở một số nước trên thế giới Sau cuộc suy thoái kinh tế năm 1920 – 1921 Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) thiếu vốn nghiêm trọng nguồn thu nhập trước đó của Fed chủ yêú thu từ nghiệp vụ chiết khấu nhưng nay do cuộc khủng hoảng kinh tế đã để lại hậu quả là khối lượng vay chiết khấu giảm sút dẫn đến giảm nguồn thu. Fed “ bí tiền” đành nghĩ cách buôn bán chứng khoán kiếm lãi để tiếp tục hoạt động của mình. trong khi thực hiện mua chứng khoán bỗng nhiên các nhà điều hành thị trường tiền tệ phát hiện thấy dự trữ trong toàn hệ thống ngân hàng tăng lên còn các khoản cho vay và tiền gửi tăng lên gấp bội. Kết quả này được Fed rút ra từ thực tế vô tình là việc mua bán chứng khoán sinh lãi có thể làm thay đổi cơ số tiền nhạy bén nhất từ đó vào cuối năm 1920 nghiệp vụ thị trường mở bắt đầu đi vào cuộc sống (11 .2 Tạp chí Ngân hàng số 3 + 4 tháng 2/1999 ) Từ đó Fed sử dụng nghiệp vụ này trong việc điều hành chính sách tiền tệ trải qua nhiều thời kỳ biến động về kinh tế với nhiều hình thức giao dịch khác nhau và qui mô hoạt động ngày càng được mở rộng chứng tỏ Fed đã sử dụng công cụ này hiệu quả đến mức nào. Hình thức giao dịch 1990 1991 1992 1993 Mua hẳn 25,2 31,4 34,1 36,9 Bán hẳn 7,6 1 1,6 0 Hợp đồng mua lại 189,9 508,7 533,3 627,6 Bán mua đảo ngược 48,3 75,3 28,6 10,9 (2) Giá trị giao dịch trên thị trường mở – Cục dự trữ liên bang (đơn vị: Tỷ USD) Bảng số liệu trên cho ta thấy nghiệp vụ thị trường mở đã được Fed phát huy tối đa hiệu quả của nó. Điều này có thể lý giải được rằng mọi nước công nghiệp phát triển như Mỹ với một trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại bậc nhất trên thế giới, hệ thống tài chính tiền tệ vô cùng phát triển và tính linh hoạt của công cụ thị trường mở đã được thực hiện chủ yếu trên thị trường thứ cấp vì giá trị giao dịch của nó. ở các nước phát triển trên thế giới, các Ngân hàng Trung ương luôn sử dụng kết hợp nhiều công cụ chủ đạo ví dụ như Ngân hàng liên bang Đức thực hiện nghiệp vụ này từ những năm 1970 cho đến nay dựa trên cơ sở khối lượng tiền cung ứng hàng năm từ đó quyết định đưa ra hoặc rút tiền về Ngân hàng Trung ương thông qua thị trường này. Hiện nay Ngân hàng Trung ương Đức thông qua thị trường mở chiến khoảng 70% khối lượng tiền cung ứng hàng năm còn các hình thức khác chiếm khoảng 30%. Việc cung ứng tiền chủ yếu thực hiện trên các chứng khoán do Ngân hàng Trung ương Đức quy định như hối phiếu, tín phiếu Ngân hàng Trung ương, một số trái phiếu của ngân hàng thương mại ... Vào thời kỳ đầu đấu thầu theo phương pháp khối lượng và từ những năm 1980 cho đến nay đấu thầu bằng phương pháp lãi suất là chủ yếu (1 Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 3 tháng 5 + 6/2000 1). Việc qui định các công cụ tài chính của Ngân hàng Trung ương Đức là theo khoản 21 của luật tổ chức Deutsche Bundesbank. Những điều khoản bổ sung vào ngày 31/03/1971 cho phép Ngân hàng Trung ương Đức quyền can thiệp vào thị trường mở đến từng ngày. Khác với Fed, Fed thực hiện thị trường mở với hai mục tiêu đó là tiền mặt ngoài lưu thông và dự trữ bắt buộc nhằm tác động đến lãi suất, Ngân hàng Trung ương Đức ngoài hai mục tiêu trên nó còn có tác động đến lượng chứng khoán mà các nhà đầu tư vào cuối mỗi kỳ. Chứng khoán là một loại vốn của các ngân hàng trung gian ở Đức. Do vậy khi Ngân hàng Trung ương Đức điều tiết bằng nghiệp vụ thị trường mở nó sẽ gây ảnh hưởng rộng rãi đến điều kiện tín dụng trong toàn nền kinh tế. Năm Loại chứng khoán 1980 1985 1990 1995 Trái phiếu kho bạc ngắn hạn 00 - 0,7 00 - Trái phiếu kho bạc dài hạn + 1,3 - 0,3 + 0,1 - 1,9 Chứng thư nợ + 3,1 + 0,4 - 0,5 + 11,5 Trái phiếu tiết kiệm - 0,1 + 1,2 + 0,8 00 (1) Nghiệp vụ thị trường mở đối với loại phiế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25.doc