MỤC LỤC
------
Lời mở đầu 1
Chương I: sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường 4
I. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa
4
II. Những điều kiện hình thành kinh tế thị trường 4
III. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướn xã hội chủ nghĩa
6
IV. Thị trường và cơ chế thị trường 8
Chương II: thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướn XHCN 12
I. Những kết quả khả quan đạt được trong quá trình phát triển nền kinh tế ở Việt Nam 12
II Một số hạn chế yếu kém 15
III Những vấn đề đặt ra hiện nay mà Việt Nam cần giải quyết 18
Chương III: Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 22
I. Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần 22
II. Tiếp tục tạo đồng lập đồng bộ các yếu tố thị trường 26
III. Giải quyết tốt vấn đề xẫ hội 27
IV. Đổi mới và kiểm soát ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng 28
V. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản 29
Kết luận .31
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1846 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân cực về của cải, tác động xấu đến đạo đức tình người.
-Một nền kinh têù tự do cơ chế thị trường thuần túy điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp.
Tóm lại: Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó nên trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần túy mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường , khi đó nền kinh tế như người ta gọi là nền kinh tế hỗn hợp
CHƯƠNG II: Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
I. Những kết quả khả quan đạt đựơc trong quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam.
Từ năm1986, nhất là vào những năm 1990 đến nay, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các thành phần kinh tế ở Việt Nam phát triển ngày càng mạnh mẽ. Đặc biệt, nhờ có luật doanh nghiệp nhà nước, luật hợp tác xã, luật doanh nghiệp và các văn bản quy định của chính phủ… Tạo khuôn khổ pháp lý, môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế được thiết lập và từng bước được hoàn thiện. Các thành phần kinh tế đạt được những thành tựu quan trọng và kkhẳng định vai trò của mình trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Có thể khái quát như sau:
-Thứ nhất: về quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế .
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là giải pháp chính giải phóng lực lượng sản xuất trên toàn xã hội, thu hút được các nguồn lực trong dân cư vào sản xuất kinh doanh. Điều này thể hiện ở quy mô vốn đầu tư của các thành phần kinh tế đều tăng trong những năm qua.
Qua bảng số liệu sau nay, có thể thấy quy mô vốn đầu tư thực hiện của các thành phần kinh tế tăng khá, năm sau cao hơn năm trước; riêng thành phần kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Đặc biệt, sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực và sau các nghị quyết TW3 khóa IX ngày 18/3/2002, về phát triển kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân thì kinh tế hợp tác xã đã lấy lại đà phát triển của mình sau một thời gian dài suy giảm( quy mô vốn đầu tư tăng khoảng 12%năm); kinh tế tư nhân phát triển mạnh chưa từng có ( quy mô vốn đầu tư tăng khoảng 23% năm 2001, tăng 28% năm2002và tăng 24% trong chín tháng đầu năm 2003). Tỷ trọng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang ngày càng lớn và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế . Năm2003, trong tổng số vốn đâu tư phát triển vốn trong nước chiếm 83,2% ( vốn nhà nước chiếm 56,5% và vốn nước ngoài quốc doanh
chiếm 26.7%), vốn đầu tư trực tiếp của nước ngòai chỉ chiếm16,8% ( năm 2002 chiếm 48.5%). Điều đó chứng tỏa rằng, đường lốichủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và các biện pháp thực hiện của nhà nước là đúng đắn. Cụ thể là đã giải phóng lực lượng sản xuất, thu hút được nhiều nguồn lực trong dân cư để phát triển đất nước.
Bảng: quy mô, cơ cấu vốn đầu tư phát triển
Chỉ tiêu
Quy mô vốn đầu tư thực hiện (nghìn tỉ) đồng)
Tỷ trọng(%)
1999
2000
2001
2002
2003
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng số
131.2
145.3
163.5
183.8
217.6
100
100
100
100
100
Vốn nhà nước
77
83.6
95
103.3
123
58.7
57.5
58.1
56.2
56.5
Vốn ngoài quôc doanh
31.5
34.6
38.5
46.5
58.1
24
23.8
23.5
25.3
26.7
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
22.7
27.1
30
34
36.5
17.3
18.7
18.4
18.5
16.8
(nguồn niên giám thống kê năm 2002, tổng cục thống kê năm 2003)
Thứ hai: sự tăng trưởng của các thành phần kinh tế .
Trong những năm qua , tỷ lệ tăng trưởng của các thành phần kinh tế đạt tốc độkhá cao
Bảng chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong nước theo các thànhphần kinh tế.
Đơn vị:%
Thành phần kinh tế
1995
1999
2000
2001
2002
Kinh tế nhà nước
109.4
102.6
107.7
107.4
106.9
Kinh tế tập thể
104.5
106.0
105.5
103.2
104.9
Kinh tế tư nhân
109.3
103.2
108.1
113.2
113.9
Kinh tế cá thể
109.8
103.6
103.9
105.5
105.7
Kinh tế hỗn hợp
112.7
106.2
110.9
113.6
114.4
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngòai
114.9
117.6
111.4
107.2
107.9
Chung
109.5
108.4
106.8
106.9
107.04
Nguồn niên giám thống kê năm2000
Thực tiễn cho thấy, các thành phân kinh tế ở Việt Nam có mức tăng trưởng khá. Trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp tăng mạnh: năm 1995 tăng 114.2%; năm 2001 tăng 116.6%; năm2002 tăng 111.6%; năm 2003 tăng 116.6% ( khu vực doanh nghiệp nhà nước 112.4%; khu vực ngoài quốc doanh 118.7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngòai 118.3%). Đây là tín hiệu tốt lành trong thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam .
Nổi bật là sự tăng trưởng mạnh của kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Tổng sản phẩm của kinh tế tư nhân tăng 113.2% năm 2001 và tăng 113.9% năm 2002. tổng sản phẩm của nền kinh tế tư bản nhà nước tăng tương ứng là 113.6% và 114.5%. Đây là một kết quả hợp lý trong phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam . Thành phần kinh tế tư nhân phát triển mạnh, chứng tỏa chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước đã phát huy được sức mạnh tổng hợp trong nhân dân. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước phát triển mạnh cho thấy nó tương xứng với vai trò là “cầu nối” lên CNXH trong thời kỳ quá độ.
Thứ ba về đóng góp của các thành phần kinh tế.
Bảng: cơ cấu tổng hợp sản phẩm trong nước theo giá trị thực tế.
Đơn vị %.
Thành phần kinh tế
1995
2000
2001
2002
Tổng số
100
100
100
100
Kinh tế nhà nước
40.18
38.53
38.40
38.31
Kinh tế tập thể
10.06
8.58
8.06
7.98
Kinh tế tư nhân
3.12
3.38
3.73
3.93
Kinh tế cá thể
36.02
32.31
31.84
31.42
Kinh tế hỗn hợp
4.32
3.92
4.22
4.42
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
6.30
13.28
13.75
13.91
(Nguồn niên giám thống kê năm 2002)
Các thành phần kinh tế đã góp phần tích cực vào việc giải quyết việc làm trong xã hội trong những năm vừa qua. Đáng chú ý là trong ba năm 2001, 2002,2003, lực lượng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước và tập thể không tăng trong khi ở các thành phần kinh tế khác tăng khá. Chẳng hạn như các doanh nghiệp dân doanh đã tạo thêm trên
1.5 triệu chỗ làm mới kể từ khi luật doanh nghiệp được ban hành và có hiệu lực đến nay. Quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tăng lên đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu năm 2001 đạt 15.03 tỷ USD ;năm 2002:16.06 tỷ USD; năm 2003: 19.9 tỷ USD ( trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu tăng 27.2% , khu vực xuất khẩu trong nước tăng 11.7%). Đặc biệt, khu vực kinh tế dân doanh( kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư nhân) đóng góp tích cực trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam , nhất là các mặt hàng thủ công nghiệp, chế biến nông sản , thủy sản.
Các thành phần kinh tế phát triển đã góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước . Chẳng hạn, trong tổng thu ngân sách nhà nứơc năm 2000, 2002 thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 5.22% và 5.49% thu từ doanh nghiệp nhà nứơc là 21.7% và 22.28% thu từ khu công thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh là 39% và 6.47%. Đóng góp của các thành phần kinh tế tăng lên trong những năm gần nay đã chứng tỏa sức sản xuất của các doanh nghiệp được giải phóng , hiệu quả quản lý, điều hành của chính phủ, các ngành, các cấp đối với các thành phần kinh tế được nâng cao.
II. Một số hạn chế, yếu kém trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Nhìn chung, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ở Việt Nam có quy mô còn khá khiêm tốn, cơ sở vật chất hạn chế, công nghệ lạc hậu, thô sơ , sản xuất thủ công là phổ biến; hạn chế trong tiếp cận nguồn vốn để sản xuất kinh doanh; thị trường và thông tin về thị trường còn yếu; lao động phần lớn chưa qua đào tạo; trình độ quản lý doanh nghiệp kém… cụ thể là:
-Tốc độ và chất lượng tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng. Các thành phần kinh tế ngòai quốc doanh có mức tăng trưởng cao và hoạt động có hiệu quả nhất; nhưng vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Chẳng hạn, vẫn chưa huy động một cách triệt để, có hiệu quả nguồn vốn trong dân, phần lớn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế này còn nhỏ lẻ kém bền vững. Doanh nghiệp nhà nước có nguồn vốn lớn, đội
ngũ cán bộ lao độngcó trình độ tay nghề cao( trình độ đại học trở lên chiếm gần 80% số lao động có tay nghề của cả nước) nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, tốc độ tăng trưởng chưa cao, chưa tương xứng với nguồn vốn và lao động mà nhà nước đầu tư. Kinh tế tập thể mặc dù đã được cải tổ và có nhiều khởi sắc sau nghị quyết TW3 khóa IX, nhưng lực lượng còn yếu, số hợp tác xã làm ăn còn khá còn ít, số lao động trung bình và yếu lại chiếm tỷ trọng lớn hơn.
-Số lượng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chưa nhiều và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Cả nước chỉ có trên 5000 doanh nghiệp nhà nước, khoảng 14207 hợp tác xã, 120000 doanh nghiệp tư nhân, hơn 3000 dự án đầu tư nước ngòai. Sự phân bổ doanh nghiệp theo vùng lãnh thổ vẫn chưa có nhiều thay đổi. Các doanh nghiệp vẫn chủ yếu tập trung ở Tp . Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số ít địa phương khác có mức độ đô thị hóa cao. Tại từng địa phương, đại da số doanh nghiệp thường tập trung ở thị xã hay ở thành phố, số doanh nghiệp ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa chưa nhiều.
- Quy mô vốn của các thành phần kinh tế còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của cơ chế đổi mới kinh tế của nhà nước. Theo kết quả điều tra của tổng cục thống kê tính đến ngày 1/7/2002, tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp có khoảng 1066.7 nghìn tỷ đồng; trong đó doanh nghiệp nhà nước có khoảng 625.1 nghìn tỷ đồng , doanh nghiệp có vốn đầu tư nứơc ngoài là 274.5, doanh nghiệp tư nhân có khoảng 168.1 nghìn tỷ đồng. Với quy mô lớn như vậy, các doanh nghiệp có thể đủ sức mạnh cần thiết để nay mạnh phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu quả.
-Cơ cấu ngành nghề kinh doanh của các thành phần kinh tế còn nhiều bất hợp lý. Các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả kinh tế cao như kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ thường tập trung ở các ngành thương mại, dịch vụ, ít quan tâm đến các ngành nghề sản xuất vật chất. Điều đó chứng tỏ rằng nền kinh tế nước ta còn nhiều biểu hiện của lối làm ăn nhỏ bé thời vụ, chưa thu hút được hết các nguồn lực để làm ăn lớn, lâu dài và ổn định.
- Khả năng tiếp cận nguồn vốn của các thành phần kinh tế còn chưa bình đẳng. Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước bảo trợ, cấp vốn đầu tư và đựơc ưu ái trong vay vốn tín dụng ở ngân hàng, trong khi các thành phần kinh tế khác, nhất là kinh tế dân doanh rất khó có thể tiếp cận vốn vay từ các nguồn phi chính thức.
- Hầu hết các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều đang phải đối mặt với sự yếu kém, cũ kỹ, lạc hậu của thiết bị và công nghệ. Phần lớn công nghệ mà các doanh nghiệp đang sử dụng có nguồn gốc từ những năm 60-70 của thế kỷ XX vẫn còn đang được sử dụng.
-Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh còn nhiều hạn chế. Phần lớn giám đốc, cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước được trưởng thành từ cán bộ kỹ thuật. Giám đốc doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau phần lớn là những người có khả năng kinh doanh nhưng chưa được đào tạo cơ bản.
- Khả năng liên doanh liên kết của các thành phần kinh tế còn thấp. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động độc lập, ít có sự liên doanh liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp cùng hiệp hội. Việc liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau rất hạn chế, thậm chí chưa có. Điều đó phần nào làm giảm bớt sức mạnh của cả cộng đồng doanh nghiệp , cũng như vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam .
Tóm lại, sau hơn 17 năm đổi mới, kiên trì thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các thành phần kinh tế đã hình thành và phát triển khá mạnh, nhưng vẫn mang dấu ấn tự phát. Thành phần kinh tế nhà nước được giao nhiệm vụ giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và được ưu đãi lớn. Nhưng chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước chưa đạt hiệu quả cao. Một số doanh nghiệp nhà nước đã lợi dụng sự ưu đãi của nhà nước để độc quyền hoặc độc quyền nhóm. Thành phần kinh tế tập thể, sau một thời gian dài chuyển đổi đang phát triển trở lại nhưng chưa thể hiện một cách vững chắc vai trò nền
tảng của mình. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển theo kiểu tự phát, chủ yếu phát triển dựa theo tín hiệu “ bong bóng” của thị trường chứ không dựa vào chiến lược định hướng phát triển cụ thể.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do nhận thức về các thành phần kinh tế chưa được quán triệt sâu sắc và thống nhất vẫn còn tâm lý cũng như hành động phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, quản lý nhà nước về kinh tế đối với các thành phần kinh tế còn nhiều lúng túng, bất cập và năng lực của bản thân các doanh nghiệp còn hạn chế về nhiều mặt.
III. Những vấn đề đặt ra mà Việt Nam cần giải quyết .
Để đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN góp phần to lớn vào việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nứơc ta, chúng ta cần giải quyết một số vấn đề cấp bách sau:
- Một là: nắm vững xu hướng vận động của các thành phần kinh tế . Xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ tất yếu phải thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Bởi vậy, chúng ta cần phải hoán triệt sâu sắc và kiên trì quan điểm của đại hội IX, nghị quyết TW9, khóa 9. Các thành phần kinh tế là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế thống nhất, được phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh với nhau. Trong xu hướng vận động chung, thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển; thành phần kinh tế tập thể cần được phát triển mạnh và cùng với các thành phần kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc doanh; các thành phần kinh tế ngòai quốc doanh được khuyến khích phát triển đẩy mạnh sản xuất kinh doanh về mục đích kinh tế vi mô, hoạt động theopháp luật và theo điịnh hướn của nhà nước, Vì vậy, cần phải tiếp tục tháo rỡ những khó khăn, cản trở hiện nay, xóa bỏ sự phân biệt đối xử, tạo điều kiện và môi trường kinh doanh lành mạnh cho các thành phần kinh tế .
-Hai là: nâng cao vai trò chủ đạo của các thành phần kinh tế nhà nước. Chúng ta cần phải thực hiện nghiêm túc các nghị quyết TW3. khóa IX về đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Cụ thể, tập trung giải quyết một số việc sau đây :
+Đẩy nhanh tiến bộ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nứơc và mở rộng việc mua bán cổ phiếu công khai trên thị trường.
+Tổng kết việc chuyển các tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con; hình thành mô hình côngty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
+Đổi mới việc quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước, xóa bỏ bao cấp và những hỗ trợ bất hợp lý; thực hiện đầu tư vốn thông qua công ty tài chính, đưa các doanh nghiệp nhà nước thật sự đối mặt với các yêu cầu của thị trường và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường.
+Tăng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước; nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty mạnh, hình thành các tập đoàn kinh tế lớn.
+ Kiểm sóat chặt chẽ các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực độc quyền; điều tiết lợi nhuận độc quyền do nhà nước mang lại.
-Ba là: tiếp tục hoàn thiện thể hiện chính sách của nhà nước. Đẩy mạnh phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chúng ta tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế quốc tế hiện nay. Cụ thể, cần tập trung nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề sau:
+Tiếp tục tạo hành lang pháp lý, điều kiện môi trường thuận lợi, bình đẳng các thành phần kinh tế, phát huy hết tiềm năng. Cần tiếp tục rà soát phát hiện sự chồng chéo, sự bất hợp lý các văn bản đã ban hành để bổ xung chỉnh sửa; đồng thời tiếp tục ban hành một số đạo luật mới để tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Trước mắt, chúng ta cần thực hiện một số công việc sau:
Hướng tới thống nhất việc ban hành các đạo luật theo hành vi cần điều chỉnh chứ không phải chủ thể cần điều chỉnh nào. Sớm tạo lập một hệ thống pháp luật theo hướng chỉ có một luật áp dụng chúng, bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, hoặc giữa các luật cần phải có sự thống nhất chung. Nghĩa là, chúng ta phải đặt các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động trong cùng một luật chơi . Thật sự công bằng. Có như vậy mới tạo ra cạnh thực sựlành mạnh giữa các loại hình doanh nghiệp.
Sớm ban hành luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền luật chống phá giá… nhằm hình thành khung cho việc bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và kiểm sóat lành mạnh, hạn chế tiêu cực trong kinh doanh.
Chú trọng công tác xúc tiến thương mại và đầu tư, đẩy nhanh tiến độ tiếp cận với thế giới trong quá trình hội nhập.
+ Đẩy mạnh tiến độ cải cách hành chính nhà nước . Hiện nay, thái độ tâm lý làm việc và phương thức, công cụ quản lý của hầu hết các cơ quan nhà nước có liên quan chưa có sự thay đổi rỏ nét và do đó, chưa thực sự phù hợp với cơ chế chính sách mới về phát triển kinh tế ,tình khoa học chuyên môn, chuyên nghiệp theo cơ chế thị trường trong các công việc của các cơ quan nhà nước còn thấp. Trước mắt, cần hoàn thiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm, của các tổ chức, đơn vị quản lý của nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác, khắc phục và tiến tới xóa bỏ tình trạng trùng hợp trong quản lý điều hành ; làm rõ trách nhiệm và có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh đối người đứng đầu tổ chức đơn vị. Đẩy mạnh tiến độ xóa bỏ chế độ chủ quản các doanh nghiệp tự chủ hơn trong việc sản xuất kinh doanh.
+Hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế . Trước hết cần hoàn thiện một số chính sách sau:
Có chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dân doanh tiếp tục với nguồn vốn tín dụng ngân hàng bằng cách đơn giản hóa thủ tục vay vốn, đa dạng hóa các hình thức cho vay vốn như bão lãnh tín dụng, thuê mua tài chính.
Hoàn thiện chính sách thuế, khắc phục tình trạng vừa bất hợp lý, vừa sơ hở, lại vừa bất bình đẳng hiện nay… Để khắc phục tình trạng trốn lậu thuế, khai khống hóa đơn liên tục xảy ra. Trong thời gian qua, cần thực hiện nguyên tắc bình đẳng về thuế giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ; xác định mức thuế hợp lý để vừa đảm bảo thu đủ cho ngân sách nhà nước, vừa đảm bảo cho các doanh nghiệp tích lũy vốn đầu tư phát triển, vừa hạn chế tình trạng trốn thuế ; nhanh chóng khắc phục những sơ hở trong hệ thống thuế, tiênd tới hoàn thiện hệ thống thuế một cách hợp lý.
- Bốn là: Nâng cao vai trò quản lý kinh tế của chính quyền các cấp. Mặc dù có nhiều chuyển biến, nhưng vai trò quản lý các thành phần kinh tế cuả các bộ, kinh tế chính quyền các cấp còn bất cập vừa lấn sâu nhau vừa có nhiều sơ hở, thời gian tới cần hoàn thiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao vai trò quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và quản lý các thành phần kinh tế nói riêng của cán bộ, các ngành và các địa phương.Tăng cường chỉ đạo, kiểm soát đôn đốc cán bộngành thể chế hóa hoàn thiện một số công cụ chính sách như chính sách tín dụng, chính sách thuế… hình thành các tổ chức phù hợp , thống nhất với nhiệm vụ cụ thể để thực hiện có hiệu quả chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế.
-Năm là: nâng cao tính chủ động và hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, cần nhanh chóng nâng cao trình độ quản lý kinh doanh của cán bộ quản lý doanh nghiệp, coi trọng công tác xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh để nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường, cũng như đối phó có hiệu quả với sự biến động của thị trường; nghiêm chỉnh thực hiện chế độ báo cáo tài chính, đảm bảo taì chính chính xác và minh bạch.
-Sáu là: Nâng cao vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp. Trong những năm qua các hiệp hội doanh nghiệp phát triển khá mạnh, nhưng sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong các hiệp hội vẫn còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ, sự liên kết kinh tế giữa các
thành phần kinh tế chưa nhiều. Trong thời gian tới, các hiệp doanh nghiệp cần nâng cao vai trò của mình trên các mặt sau:
+Thường xuyên tập hợp kiến thức của các doanh nghiệp về pháp luật, cơ chế, chính sách, về cách thức quản lý, điều hành của cơ quan quản lý các cấp để tổng hợp, phân tích và đề đạt các kiến nghị đó đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
+Nâng cao chất lượng cung cấp thông tin nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hình thức trao đổi kinh nghiệm và cơ hội kinh doanh, hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển kinh doanh.
+ Tích cực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trước những can thiệp hành chính trái pháp luật cũng như trước những biến động của thị trường.
Chương III: CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
I. Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Để hình thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc công nhận, bảo hộ chế độ đa sở hữu và phát triển doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi lẽ các doanh nghiệp luôn là một trong những chủ thể nhất của nền kinh tế.
Trong những name đổi mới vừa qua, cùng với việc luật hóa chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, công nhân bảo hộ chế độ đa sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân. Đảng và nhà nước ta đã từng bước xây dựng , hoàn thiện thể chế kinh tế đối với các loại hình doanh nghiệp.
+ Doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước giữ một vị trí quan trọng tr