A.LỜI NÓI ĐẦU 1
B.NỘI DUNG 2
I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯÒNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 2
1.CÁC KHÁI NIỆM 2
2.BẢN CHẤT CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 3
2.1. Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường 4
2.2. Nền kinh tế thị truờng gồm nhiều thành phần, trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trũ chủ đạo 4
2.3. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hỡnh thức phõn phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. 5
2.4.Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước xó hội chủ nghĩa. 6
2.5.Nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập 7
3. SỰ KHÁC NHAU GIỮA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TƯ BẢN CHỦ NGHĨA 8
4.NHỮNG NHÂN TỐ ĐẢM BẢO TÍNH ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. 10
4.1.VAI TRÒ ĐÌÊU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC 10
4.1.1CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC VIÊT NAM 10
4.1.2.NỘI DUNG QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. 11
4.1.3.CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. 12
4.2.VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 14
4.2.1.NỘI DUNG CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC 14
4.2.2.BẢN CHẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC. 16
4.2.3.VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC 17
II.THỰC TRẠNG VỀ ĐẢM BẢO TÍNH ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 19
1.VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC. 19
1.1.Hệ thống pháp luật. 20
1.2 CÁC CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC. 21
1.2.1Chiến lược lần thứ nhất được thông qua tại Đại hội 7 Đảng Cộng Sản Việt Nam(6-1991) 21
1.2.2Chiến lược lần thứ hai được thông qua tại đại hội 9 của Đảng(4-2001) và hiện đang triển khai thực hiện. 21
1.3CẢI CÁCH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở NƯỚC TA. 23
1.3.1.NHỮNG THÀNH TỰU. 23
1.3.2.NHỮNG BẤT CẬP TRONG HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ. 25
1.3.3.NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY BẤT CẬP ĐỐI VỚI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH-TIỀN TỆ NƯỚC TA. 25
1.4 NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI. 26
1.4.1.Những thành tựu cơ bản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 27
1.4.2Thực tế quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong những năm qua cũng còn nhiều hạn chế. 28
1.4.3Nguyên nhân của hạn chế : 28
1.5.Cơ chế quản lý kinh tế đang được đồng bộ hoá và hoàn thiện bước đầu. 29
2.VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC. 29
2.1.Những thành tựu mà thành phần kinh tế nhà nước đã đạt được. 30
2.2Bên cạnh đó vẫn còn những doanh nghiệp nhà nước hoạt động không có hiệu quả gây ra những tổn thất nặng nề cho ngân sách nhà nước. 31
2.3Căn cứ vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam,có thể nêu ra những ngành và lĩnh vực sau thuộc doanh nghiệp nhà nước : 31
III.CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐẢM BẢO TÍNH ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 32
1.NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC XHCN. 32
1.1.Hoàn thiện hệ thống pháp luật cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện pháp luật trên các lĩnh vực sau đây: 32
1.2.Đổi mới phương thức và nội dung kế hoạch hoá: 33
1.3.Hoàn thiện các chính sách kinh tế : 33
1.3.1.Về chính sách tài chính. 33
1.3.3.Chính sách tiền tệ lãi suất phải được quy định hợp lý. 34
1.4.Chính sách phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trưòng. 34
1.5.Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung,quan liêu bao cấp,hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước. 35
2.VỀ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC. 36
C.KẾT LUẬN 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kế hoạch kết hợp với thị trường.Kế hoạch và thị trường là hai công cụ quản lý của Nhà nước ,chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau.Sự điều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực , còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường ,làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của kế hoạch.Kế hoạch nói ở đây được hoạch định trên cơ sở thị trường ,bao quát tất cả các thành phần kinh tế , tất cả các quan hệ kinh tế kể cả quan hệ thị trường.
*Lực lượng kinh tế của Nhà nước.Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng các công cụ pháo luật, kế hoạch hoá , mà còn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế , hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ,thuc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.Nhờ đó Nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế-xã hội do kế hoạch đặt ra.
*Chính sách tài chính và tiền tệ.Những biện pháp kinh tế điều tiết vĩ mô của Nhà nước chủ yếu là chính sách tài chính và tiền tệ.
Chính sách tài chính , đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội.Thông qua việc hinh thành và sử dụng ngân sách nhà nước , Nhà nước đìêu chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế ,xây dựng kết cấu hạ tầng đảm bảo công bằng trong phân phối Chính sách tiền tệ.Là một công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu ,vai trò của nó trong điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng.Trong chính sách tiền tệ,lãi suất là công cụ quan trọng ,là phương tiện điều tiết cung , cầu tiền tệ.Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ kìm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trưc tiếp đến nền kinh tế.
*Các công cụ đièu tiết kinh tế đối ngoại.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ , trong đó chủ yếu là thuế xuất-nhập khẩu , trợ cấp xuất khẩu,bảo đảm tín dụng xuất khẩu.Thông qua các công cụ đó Nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu ,bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta ; giữ vững độc lập , chủ quyền ,bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.
4.2.Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Việc đề ra quan điểm ”thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với thành phần kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”là một trong những thành tựư to lớn của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam ,nó đánh dấu một sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng như về các yếu tố cơ bản cấu thành nền kinh tế đó.
4.2.1.Nội dung của thành phần kinh tế nhà nước
Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu của nhà nước về tư liệu sản xuất .Phải phân biệt nhà nước với tư cách một lực lượng kinh tế , kiểm soát nền kinh tế theo các nguyên tắc của thị trường với nhà nước là một lực lượng chính trị với các phương tiện vật chất đảm bảo cho sự thống trị chính trị đó.Chỉ có sở hữư nhà nước với tư cách là một lực lượng kinh tế , một chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường mới là sở hữu thuộc thành phần kinh tế nhà nước.Với quan niệm như thế thành phần kinh tế nhà nước bao gồm các yếu tố cấu thành sau:
Yếu tố thứ nhất là hệ thống các doanh ngiệp nhà nước .Đây là các tổ chức kinh tế mà sở hữu của nhà nước có thể là 100% hay chỉ là cổ phần không chế, cổ phần đặc biệt có quyền phủ quyết.Các doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động theo luật riêng như hiện nay cũng có thể hoạt động theo luật doanh nghiệp chung như nhiều ý kiến đề nghị nhưng điẻm cốt lõi của nó là nhà nước thông qua các đại diện sở hữu của mình tiến hành kiểm soát chi phối hoạt động của doanh nghiệp nhằm lấy đó làm công cụ can thiệp tích cực vào nền kinh tế định hướng những cân đối lớn và hiệu quả chung.
Yếu tố thứ hai là hệ thống tài chính của nhà nước.Ngày nay khi mà xu hướng mở rộng phân phối qua ngân sách nhà nước đã trở thành phổ biến ở các quốc gia thì ở nước ta do nhà nước có vai trò lớn trong đam bảo công bằng nên tài chính nhà nước trở thành lưc lượng kinh tế đáng kể.Từ ngân sách nhà nươc có thể hình thành các luồng tài chính khác nhau như đầu tư vào các doanh nghiệp không phải doanh nghiệp nhà nước để sinh lãi trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội cho vay tín dụng v.v
Yếu tố thứ ba là hệ thống dự trữ , tài nguyên đất đai vùng biển thuộc sở hữu nhà nước.Do đặc thù xã hội chủ nghĩa nên ở nước ta toàn bộ đát đai ,mặt biển không phận đều thuộc sở hữu nhà nước.Có bộ phận đất đai nhà nước giao cho dân sử dụng lâu dai.Cũng có bộ phận đất đai mặt biển tài nguyên không phận v.v... nhà nước cho thuê và có thu nhập.Thu nhập đó có thể tái đầu tư ,cũng có thể cho vay hoặc chuyển giao cho công dân dưới hình thức nào đó. kiểm soát các quá trình kinh tế đó.
Yếu tố thứ tư là hệ thống dịch vụ nhà nước kể cả dịch vụ thu phí và cả dịch vụ không thu phí.Khác với quan niệm sai lầm trước kia cho rằng của cải tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình , ngày nay kinh tế hiện đại cho rằng của cải còn là những dịch vụ với tư cách hàng hoá vô hình nhưng có vai trò thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và làm tăng chất lượng cuộc sống và cũng được tính vào GDP.Những dịch vụ nhà nước có thể kể ra như dịch vụ của ngân hàng nhà nước , dịch vụ hải quan , dịch vụ thủ tục hành chính cho hoạt động kinh tế như kiểm soát thị trường tiền thị trưòng chứng khoán thị trường vốn…
4.2.2.Bản chất xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế nhà nước.
Trong các kỳ đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay thay cho cụm từ “ xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa “ , Đảng ta đã sử dụng cụm từ “ định hướng xã hội chủ nghĩa “ với hàm ý rằng nước ta còn đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.Đương nhiên đặc trưng của thời kỳ quá độ , như Lênin đã chỉ ra là thời kì mà nhiều thành phần cùng tồn tại trong đó có cả thành phần đại diện cho phương thức sản xuất cũ chưa thể bị thay thế , cả các thành phần đại diện cho phương thức sản xuất mới chưa đủ sức khẳng định vai trò thông trị của mình.Chính ở giai đoạn này nhà nước với tư cách “ Bà đỡ “ cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng thể hiện ở các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho thành phần kinh tế mới nảy sinh , phát triển và tiến đến thắng lợi.Lịch sử đã chứng minh mọi phương thức sản xuât mới đều hình thành như thế.Vấn đề khác biêt đối với thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta là ở chỗ : Nếu như các phương thức sản xuất khác thực hiện sự bóc lột với quảng đại quần chúng nhân dân thì phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa mà chúng ta hướng tới sẽ giải phóng quảng đại nhân dân lao động khỏi ách ap bức bóc lột, do đó nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động. chiếm hữu dưới hình thái nhà nước ,chứ không phải dưới hình thái một giai cấp và từ sự chiếm hữu dưới hình thái nhà nước đó , thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa do dân và vì dân mà nhân dân lao động tiến hành kiểm soát các quá trình tổ chưc quản lý và phân phối của nền kinh tế.Có nghĩa là , ẩn giấu đằng sau hình thái sở hữu nhà nước , thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta vẫn là sở hữu toàn dân , chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa.
Cho nên , nhà nước ta không những phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác phát triển mà hơn lúc nào hết phải tạo điều kiện và bảo vệ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển , một khi trong lòng quan hệ sản xuất của nó , lực lượng sản xuât đang còn nhiều dư địa để phát triển.Quan điểm có tính nguyên tắc của chúng ta là tạo ra môi trường hoạt động bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác hết nội lực và nhân tố hiệu quả của chúng , đồng thời cố gắng tìm tòi , thể nghiệm dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm cũng như khái quát lý luận để tìm ra những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả , trong đó không những lực lượng sản xuất tìm thấy nguồn động lực phát triển mạnh mẽ mà quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng không ngừng được tái sinh và hoàn thiện.Và đây mới chính là nội dung cốt lõi nhất , tư tưởng xuyên suốt của đổi mới quản lý để thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
4.2.3.Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Về mặt lý luận , vai trò chủ đạo do thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuất mới đang dần thay thế phương thưc sản xuất cũ đảm nhiệm.Trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta , vai trò chủ đạo đó tất yếu được đặt lên vai thành phần kinh tế nhà nước.Đại hội VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định :”Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo : làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giảI quyết những vấn đề xã hội ; mở đường , hướng dẫn , hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển ; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thưc hiện các chức năng đièu tiết và quản lý vĩ mô ; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới “ và tư tưởng này một lần nữa được khẳng định ở Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII).Tuy nhiên cho đến nay vẫn không ít ý kiến cho rằng vai trò chủ đạo này nên đặt cho hệ thống doanh nghiệp nhà nước hơn la cho thành phần kinh tế với nội dung đã được xác định như trên.Nếu chỉ riêng hệ thống doanh nghiệp nhà nước thì khó đảm đương vai trò chủ đạo bởi lẽ : Thứ nhất , hệ thống này khó chiến thắng doanh nghiệp tư nhân trong điều kiện cạnh tranh thị trường thuần tuý ; Thứ hai , nó khó lòng định hướng dẫn dắt và cải tạo các thành phần kinh tế khác theo hướng kinh tế tư bản nhà nứơc nếu không có sự hỗ trợ của nhà nước với tư cách chủ thể kinh tế mạnh ; Thứ ba , bản thân các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa chưng tỏ bản chất xã hội chủ nghĩa của nó mà bản chất đó chỉ được khẳng định bằng chính bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước.Như vậy , không thể chối cãi được rằng với tổng thể tiềm lực kinh tế của mình , kinh tế nhà nước đủ sức trở thành lực lượng đi tiên phong trong công nghiệp hoá , hiện đại hoá nhằm mở ra những phạm vi rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển và do đó nó có ưu thế hơn hẳn các thành phần kinh tế khác ở nước ta.Mặt khác thông qua vai trò đièu tiết , định hướng , dẫn dắt thành phần kinh tế nhà nước góp phần chi phối và biến đổi các thành phần kinh tế khác trong quỹ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa.Như nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nói trong Hội nghị Trung ương 4 ( khoá VIII) : “ Chúng ta không thể để quan hệ sản xuất phát triển tự phát.Nếu để tự phát thì nền sản xuất sẽ hàng ngày hàng giờ đi vào chủ nghĩa tư bản “ Và hơn nữa chúng ta kì vọng vào sự tìm tòi thử nghiệm để sáng tạo tạo ra những hình thức tốtnhất , trong đó vừa duy trì và tái sản xuất được quan hệ sản xuất mới – xã hội chủ nghĩa , vừa tạo ra những phạm vi rộng lớn cho sự tăng trưởng nhanh , có hiệu quả lực lượng sản xuất.Chính đó là cốt lõi của luận đề:”kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ,cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng”.Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhận thức rằng quá trình tìm tòi này không phải dễ dàng.Trên con đường tìm tòi đó sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước hiện có , đa dạng hoá loại hình sở hữu ngay trong doanh nghiệp nhà nước , cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước , chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ , công ty hoá doanh nghiệp nhà nước , cải cách hành chính theo hướng giảm bớt các đầu mối quản lý ,tìm hình thức đại diện sở hữu nhà nước qua hội đồng quản trị , cải cách cơ chế điều tiết vĩ mô , tách tài phần kinh tế này.Ba là , tăng cường sự kiểm tra , kiểm soát của nhân dân đối với thành phần kinh tế nhà nước để hạn chế tối đa xu hướng quan liêu hoá , tham ô , tham nhũng của cán bộ đại diện cho sở hữu nhà nước.
Ngoài ra , với khái niệm thành phần chính công ra khỏi tài chính doanh nghiệp…tất cả những việc làm đó chính là quá trình thử nghiệm , tìm tòi để tìm ra một mô hình tổ chức kinh tế nhà nước tối ưu phản ánh được bản chất của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.Sự vật sẽ tự phát triển và dẫn đến những mô hình ngày càng hoàn thiện hơn.Đó là quy luật của lịch sử , không ai có thể nóng vội đốt cháy giai doạn.Song cũng có những vấn dề có tính nguyên tắc không thể xa rời. Một là, phải giữ gìn và thể hiện trên thực tế bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước.Do vậy phải kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và nâng tầm lãnh đạo của Đảng ngang mức thực tế đòi hỏi.Hai là, phải củng cố,phát triển thành phần kinh tế nhà nước để nó thực sự ngày càng mạnh và thực sự có hiệu quả hơn.Cải tổ khu vực kinh tế nhà nước nhất quyết không có nghĩa là thu hẹp vai trò của thành kinh tế nhà nước rộng như vậy thì kinh tế nhà nước đã bao hàm cả phần vốn nhà nước liên doanh với tư bản tư nhân , do vậy khái niệm “ thành phần kinh tế tư bản nhà nước “ là không còn cần thiết và thích hợp với phạm trù “thành phần” , mà nên quy nó vế các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh hỗn hợp.
II.thực trạng về đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở việt nam
1.Vai trò điều tiết của nhà nước.
Hiện nay nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Đó là nền kinh tế mà ở đó Nhà nước XHCN thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và sử dụng kinh tế nhà nước để gián tiếp tác động ,hướng sự phát triển kinh tế phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ các quy luật,nguyên tắc,cơ chế thị trường.Vì vậy khi xem xét vấn đề vai trò điều tiết của nhà nước ta cần nghiên cưú về các công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước xem đạt được những thành tựu gì cũng như còn tồn tại những bất cập gì.Qua đó sẽ đề ra một số giải pháp cơ bản.
1.1.Hệ thống pháp luật.
Trong hơn 15 năm qua trải qua 3 khoá VIII,IX,và X là những khoá của thời kỳ đổi mới,Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 1992 và ra nghị quyết sửa đổi,bổ sung một số điều của Hiến pháp này.Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng ban hành hàng trăm đạo luật,pháp lệnh,trong đó có những bộ luật lớn như Bộ luật dân sự,Bộ luật hình sự,Bộ luật lao động,Luật thương mại,Luật Tổ chức Quốc hội,Luật Tổ chức Chính phủ,Luật Tổ chức Toà án nhân dân…công bố chương trình xây dựng luật,pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ 2002-2007…
Hệ thống pháp luật ấy đã được điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị,kinh tế,an ninh,quốc phòng đến văn hoá,khoa học và công nghệ…góp phần quan trọng vào sự ổn định đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng.
Tuy nhiên hệ thống pháp luật của nước ta nhìn chung vẫn chưa hoàn thiện,đồng bộ,chất lượng và hiệu quả chưa cao,chưa thật sát với cuộc sống,chưa đáp ứng tốt yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá,phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,chưa phản ánh đầy đủ ý chí và nguyện vọng của nhân dân.Nhiều qui định của luật pháp còn thiếu cụ thể,muốn đưa vào cuộc sống,phải chờ đợi nhiều văn bản dưới luật.
Để xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh,có chất lượng và hiệu quả hơn cần có chương trình lập pháp dài hạn cho cả thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Trên cơ sở đó,xây dựng chương trình kế hoạch lập pháp,hàng năm và cả nhiệm kỳ phải đổi mới hơn nữa quy trình lập pháp sao cho việc xây dựng luật từ nay phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ bao gồm nhiều công đoạn với nhiều chủ thể tham gia,xác định trách nhiệm và cách thức làm việc của các ban soạn thảo đổi mới công tác lấy ý kiến đóng góp của nhân dân,của các chuyên gia.
1.2 Các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới kinh tế,Việt Nam đã đề ra hai chiến lược phát triển kinh tế-xã hội với các nội dung cụ thể nhằm giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho mỗi thời kỳ là:
+,Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991-2000(gọi tắt là Chiến lược lần thứ nhất).
+,Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010(gọi tắt là Chiến lược lần thứ hai)
1.2.1Chiến lược lần thứ nhất được thông qua tại Đại hội 7 Đảng Cộng Sản Việt Nam(6-1991)
ở thời điểm năm1991,sau hơn 4 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế,tuy bước đầu đạt được một số thành tựu có ý nghĩa,nhưng”bước tiến đó chưa vững chắc.Lạm phát còn ở mức cao,sản xuất chưa ổn định,tiêu cực xã hội vẫn trầm trọng.Đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội”.Vì vậy bản Chiến lược lần thứ nhất đã xác định mục tiêu tổng quát là”ra khỏi cuộc khủng hoảng,ổn định tình hình kinh tế xã hội,phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển,cải thiện đời sống nhân dân,củng cố quốc phòng an ninh,tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ 21.Tổng sản phẩm trong nước(GDP) đến năm 2000 tăng khoảng gấp đôi so với năm 1990”
1.2.2Chiến lược lần thứ hai được thông qua tại đại hội 9 của Đảng(4-2001) và hiện đang triển khai thực hiện.
Đại hội Đảng IX đã đánh giá kết quả 10 năm thực hiện Chiến lược lần thứ nhất với nhận định”Sau mấy năm thực hiện Chiến lược,đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội.Phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược kinh tế-xã hội 1991-2000 đã được thực hiện.Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất,quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế;đời sống vật chất,tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt,văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ;thế và lực của đất nước hơn hẳn 10năm trước,khả năng độc lập tự chủ được nâng lên,tạo điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá...
...Tuy nhiên,những thành tựu và tiến bộ đã đạt đựơc chưa đủ để vượt qua tình trạng nước kém phát triển,chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước.Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước xung quanh.Thực trạng kinh tế-xã hội vẫn còn những mặt yếu kém bất cập “
Trên cơ sở đánh giá tình hình trong nước và quốc tế,Đại hội Đảng9 đã xác định tiêu đề của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI là chiến lược đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá(CNH-HĐH) theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa(XHCN),xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành công nghiệp với mục tiêu tổng quát là :
“Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,nâng cao rõ rệt đời sống vật chất,văn hoá tinh thần của nhân dân,tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.Nguồn lực con người,năng lực khoa học và công nghệ,kết cấu hạ tầng tiềm lực kinh tế quốc phòng,an ninh được tăng cường,thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản,vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Những kết luận đánh giá của Hội nghị lần thứ 9 BCHTƯ Đảng(khoá IX) tháng 1-2004 vừa qua về kết quả thực hiện nửa nhiệm kỳ kế hoạch 5 năm 2001-2005 cho thấy bên cạnh “một số thành tựu quan trọng”,đã bộc lộ dần ra xu hướng khó hoàn thành một số mục tiêu quan trọng của chiến lược.
Thông qua các chiến lược kinh tế xã hội Việt Nam chúng ta cũng đã đạt đựoc những thành tựu nhất định tưng bước nâng cao đời sống nhân dân về mọi mặt nền kinh tế ngày càng phát triển hơn với tốc độ phát triển nhanh.Cụ thể là Tổng sản phẩm trong nước GDP tăng bình quân 7,5% một năm, tỷ lệ tích luỹ từ mức không đáng kể 2,9% GDP năm 1990 lên đạt mức tích luỹ 18,2%GDP năm1995 và 27%GDP năm2000 và hiện đã đạt trên 30%GDP.Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ,từ mức 61,3%GDP năm1990 lên 75,7%GDP năm 2000và hiện đạt gần 80%GDP.Cơ cấu thành phần kinh tế cũng chuyển theo hướng đa dạng hoá.Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị chỉ còn dưới 6%,đời sống nhân dân được cảI thiện rõ rệt công tác xoá đói giảm nghèo đạt kết quả khả quan.Tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm rõ rệt,từ mức 58% năm1992 xuống còn 29% năm2002.Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất.
1.3Cải cách hệ thống tài chính tiền tệ ở nước ta.
1.3.1.Những thành tựu.
+,Thành tựu lớn nhất trong cải cách hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam là đã thành công trong đẩy lùi và khống chế kìm giữ lạm phát(lạm phát từ 774% năm 1986 giảm xuống 12,7% năm1995,3,6% năm1998,vài năm gần đây có hiện tượng giảm phát và giữa năm 2003 lạm phát ở mức 4%.
+,Những cải cách về thuế khoá đã có tác dụng to lớn(huy động từ 13%GDP qua thuế phí trong giai đoạn 1986-1990 lên xấp xỉ 19,4% trong giai đoạn từ 1991-2000 và 20,7% đến nay.Tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP từ 10,1%(năm 1990)lên 27% năm 2000.Tương tự đã tác động đến tỷ lệ đầu tư trong GDP từ 15%(năm1990) lên 29,5%(năm 2000)
+,Thu hút được trên 4500 dự án đầu tư nước ngoài với vốn đăng ký 50,277 tỷ USD,tổng vốn đầu tư được thực hiện trên 20,7 tỷ USD.Đến nay có khoảng 1800 dự án với số vốn đăng ký 24,5 tỷ USD đã thực sự đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.Cân đối và đièu hành ngân sách nhà nước đã bước đầu thực hiện theo những nguyên tắc chuẩn mực như chi thường xuyên không được lớn hơn thu tư kinh tế trong nước(thuế, phí,lệ phí).
+,Ngân hàng Trung ương(Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)giữ vị trí và vai trò quản lý nhà nước bước đầu điều hành và thanh tra giám sát thực hiện chính sách tiền tệ,góp phần kìm chế lạm phát,tiến lên ổn định dần giá trị đồng tiền Việt Nam.Các ngân hàng thương mại các tổ chức tín dụng và các định chế phi ngân hàng có hoạt động giữ vai trò kinh doanh tiền tệ.
+.Thành tựu chủ yếu trong hoạch định và điều hành chính sách tài chính quốc gia là đã huy động và phân bố nguồn lực tài chính một cách tương đối theo đúng trình tự thông qua hệ thống tài chính và các công cụ của nó.Xoá bỏ sự phân biệt về lãi suất cho vay theo mục đích và đối tượng vay từ tháng 4-1989,thực hiện chính sách lãi suất dương từ 6-1991 và điều chỉnh lãi suất linh hoạt phù hợp với thị trường.Sử dụng công cụ lãi suất chiết khấu và dự trữ bắt buộc để điều tiết mức cung tiền.Theo Pháp lệnh Ngân hàng,tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể ở mức 10-35% tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại.
+,Từ tháng 7-2000 Nghiệp vụ thị trường mở – một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ đã được thực hiện ở nước ta.
+,Trong những năm có khủng hoảng tài chính khu vực,tiền tệ Việt Nam vẫn khắc phục được những ảnh hưởng của nó và giữ thế ổn định tương đối.Mặt khác thông qua điều hành chính sách tiền tệ cũng góp phần dự trữ ngoại tệ cho Ngân hàng Trung ương tư không đáng kể đến nay đã lên 4,062 tỷ USD.
Thông qua những nhận định trên có thể thấy thành tựu chủ yếu của hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới được biểu hiện chủ yếu trong việc khắc phục lạm phát phi mã,tiếp đến đưa ngân sách quốc gia tiến lên tự chủ,bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ chính trị kinh tế qua các năm,góp phần cung ứng tốt vốn cho nền kinh tế quốc dân trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
1.3.2.Những bất cập trong hệ thống tài chính tiền tệ.
+,Trong tình hình hiện nay ở nước ta đã tiến hành cải cách hệ thống tài chính tiền tệ song vẫn còn nhiều thứ thuế,phí,và nhiều thứ phí động viên ngoài ngân sách rườm rà,tản mạn gây tiêu cực thất thoát và cản trở khuyến khích đầu tư của công chúng.Các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước còn phân bổ dàn trải không tập trung dứt điẻm công trình.Phân cấp ngân sách nhà nước tuy đã được luật hoá song còn rất lúng túng.Tình trạng”bao cấp chức năng”trong vận hành tài chính nhà nước vẫn còn tiếp diễn gây lãng phí tham nhũng tiêu cực.
+,Chính sách tài chính-tiền tệ-tín dụng-đầu tư chưa có sự liên kết thống nhất chặt chẽ với các chiến lược tổng thể của nền kinh tế.Phương thức điều hành và thực thi có tình trạng phân tán,manh mún và cục bộ.Công nghệ trong hệ thống tài chính tiền tệ còn ở mức thấp so với khu vực.Môi trường đầu tư và hành lang pháp lý còn nhiều bất cập và chưa được hoàn thiện.Nguồn nhân lực trong hệ thống tài chính-tiền tệ phát triển chưa đồng bộ cần được tiếp tục cấp tốc đào tạo lại.Bao trùm lên toàn bộ lĩnh vực tài chính-tiền tệ Việt Nam là thiếu vốn dài hạn nghiêm trọng,hiệu quả đầu tư còn thấp,hệ thống tài chính thiếu minh bạch,hệ thống giám sát yếu,gây nên nạn tham nhũng lãng phí.
1.3.3.Những nguyên nhân gây bất cập đối với hệ thống tài chính-tiền tệ nước ta.
+,Về nhận thức,tư duy chưa thấy hệ thống tài chính tiền tệ là nòng cốt là xương sống của nền kinh tế.Vì chưa quán triệt được nhận thức này nên đã xảy ra những bất cập trong việc hoạch định chính sách,điều hành và thực thi.
+,Xuất phát từ nhận thức tư duy không được đổi mới liên tục nên hệ thống tài chính-tiền tệ của Việt Nam còn có nhiều khập khễnh so với lý luận hiện đại.
+,Hệ thống kế toán,thống kê và phương pháp điều hành thiếu công khai minh bạch là một nguyên nhân quan trọng gây nên những thất thoát trong hệ thống tài chính ngân hàng.
+,Hệ thống giám sát,thanh tra còn lỏng lẻo thiếu nghiêm minh và còn có tình trạng”chiếu lệ”.Kỷ cương tài chính cũng thiếu nghiêm minh, thường thực hiện theo phong trào.
1.4 Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28083.doc