Lời Mở Đầu 1
Nội Dung 2
1. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong vài năm gần đây 2
1.1. Khái quát chung 2
1.2 Nhận xét 8
1.3. Đầu tư trong lĩnh vực công nghệ 9
2.Thực trạng và kiến nghị 10
2.1. Thực trạng. 10
2.2. Kiến nghị 11
3. Một số giải pháp 11
3.1. Về môi trường pháp lý 11
3.2. Về thủ tục hành chính 11
3.3. Về kết cấu hạ tầng 11
3.4. Về đào tạo nguồn nhân lục 11
3.5. Về xúc tiến đầu tư 11
3.6. Giải pháp chính sách 11
Kết luận 11
31 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1816 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển công nghệ ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như quản lý doanh nghiệp theo hướng đơn giản, thuận tiện hơn so bới trước, nhằm phát huy tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp.
Công tác xúc tiến đâu tư đã chuyển biến tích cực. Có sự phối hơp nhịp nhành giữa các bộ ngành với địa phương theo hướng bám sát các tập đoàn đa quốc gia, các nhà đầu tư lớn có ý định đầu tư vào Việt Nam, từ khâu ban đầu thành lập dự án cho tới khâu cuối cùng triển khai sản xuất kinh doanh nhằm hỗ trợ nhà đầu tư hoạt động thuận lợi tại Việt Nam. Tài liệu phục vụ công tác xúc tiến đầu tư được cập nhật, phát hành kịp thời. Nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư kết hợp các doanh nghiệp các chuyến công tác của các cán bộ cấp cao tạo cơ hội cho các doanh nghiệp hai bên gặp gỡ và trao đổi và ký kết các hợp đồng đầu tư với giá trị lên tới hàng chục tỷ USD tạo tiền đề cho đâu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam sau này.
1.2.2. Hạn chế
Mặc dù tình hình thu hút đâu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm qua vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng nhưng để đảm bảo cho giai đoạn sau này thì Việt Nam cũng cần khắc phục những bất cập như là;
- Hầu hết các lĩnh vực đầu tư có điều kiện cũng như không có điều kiện thì đều chưa có văn bản cụ thể để làm căn cứ thẩm tra. Điều này gây ra sự lúng túng trong công tác quản lý của các địa phương.
- Chưa chuẩn bị sẵn sàng về đât đai cũng như công việc giải phóng mặt bằng phục vụ cho công tác đầu tư.
- Pháp luật và chính sách còn nhiều hạn chế.
1.3. Đầu tư trong lĩnh vực công nghệ
Theo từ điển khoa học Việt Nam phát hành năm 1995 đã tập hợp khái niệm được coi là tiêu biểu về công nghệ. Nhưng ta có thể hiểu tổng quát công nghệ như sau: Công nghệ là tổng hợp các phương pháp, công cụ và phương tiên dựa trên cơ sở vận dụng các tri thức khoa học vào sản xuất và đới sống để tạo ra sản phẩm và dịch vụ đáp ưng nhu cầu vật chất con người.
Nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, hàng loạt biện pháp nhắm phát triển nền kinh tế, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Tính tới năm 2007 nước ta đã thu hút được FDI vào Việt Nam đã đóng góp cho nền kinh tế rất lớn. Hiện có trên 8.590 dự án của 81 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động có tổng vốn đầu tư trên 83,1 tỉ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 29,2 tỷ USD. Vốn FDI chiếm tỷ trọng 18% tổng vốn đầu tư xã hội, đóng góp 16,2% GDP, chiếm 19,78% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu thô) và 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Những con số trên cho thấy được tác động của đâu tư trực tiếp nước ngoài vào cac lĩnh vực của nền kinh tế. Trong đó lĩnh vực công nghệ cũng rất được quan tâm.
Nhiều công nghệ đã được đổi mới, dưới nhiều hình thức khác nhau như: Chuyển giao công nghệ, đầu tư mới …vv việc thu hút vốn đâu tư nước ngoai cũng tác động lớn đến các hoạt động quản lý và hiệu quả hoạt động trong công nghệ ở Việt Nam.
2.Thực trạng và kiến nghị
2.1. Thực trạng.
Sau 20 năm đầu tư tại Việt Nam chúng ta nhìn nhân lại một trạng đường, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời gian qua đạt được những thành tựu thành tựu nổi bật.
Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội.
Tính từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2007 thu hút đầu tư nước ngoài vượt ngưỡng hơn 20 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua.
Quá trình thu hút đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới trong 21 năm qua. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1,5 tỷ USD trong năm 2007; đồng thời thu hút 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.
Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Về cơ cấu, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển chung và các vùng phụ cận.
Đầu tư nước ngoài là cầu nối quan trọng giữa kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch và tạo điều kiện quan trọng để Việt Nam hội nhập ngày càng chủ động và sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới.
Đầu tư nước ngoài có tác động đến kinh tế trong nước, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp cũng như phương thức kinh doanh; đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, lợi thế địa kinh tế, tài nguyên được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn.
2.1.1. Khái quát hiệu quả chung
Sau 20 năm đầu tư tại Việt Nam chúng ta nhìn nhân lại một trạng đường, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời gian qua đạt được những thành tựu thành tựu nổi bật.
Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội.
Tính từ năm 1988 đến nay, Việt Nam đã thu hút 9.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD. Đặc biệt, năm 2007 thu hút đầu tư nước ngoài vượt ngưỡng hơn 20 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm qua. Quá trình thu hút đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới trong 21 năm qua. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1,5 tỷ USD trong năm 2007; đồng thời thu hút 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.
Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Về cơ cấu, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển chung và các vùng phụ cận.
2.1.2. Vai trò của khu vực FDI với nền kinh tế Việt Nam
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua. Các nghiên cứu gần đây của Bộ Kế hoạch và đầu tư rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách Nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI.
*FDI đối với vốn đầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế
Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này, một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước.
Đồ thị: FDI thực hiện so với tổng đầu tư toàn xã hội và đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP
Nguồn: Tổng cục Thống kê
*FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu
FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng...
Đến nay, khu vực có vốn FDI đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí, ô tô, máy giặt, điều hoà, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% cán thép; 28% xi măng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 55% sản lượng sợi; 49% sản lượng da giày... Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành.
Tỷ lệ xuất khẩu ở khu vực đâu tư trực tiếp nước ngoài đạt giá trị cao. Góp phần vào tổng giá trị xuất khẩu của nền kinh tế.
*FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực
Điều đó cho thấy FDI vẫn xuất hiện chủ yếu trong các ngành tập trung vốn và sử dụng lao động có trình độ kỹ năng cao. Đó cũng là một cách lý giải cho mức thu nhập trung bình của lao động trong khu vực này cao gấp 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Hơn nữa, số lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức lao động tiên tiến. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã có thể thay thế dẫn các chuyên gia nước ngoài trong việc đảm nhiệm những chức vụ quản lý doanh nghiệp và điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại.
Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hoá trung gian giữa các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức về số lao động gián tiếp được tạo ra bởi khu vực FDI tại Việt Nam.
2.1.3.Những yếu tố tác động tới đầu tư
*Môi trường đầu tư.
Môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu tố đối nội đối ngoại, đối ngoại, chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa xã hội. Mà nó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động đầu tư.
Một môi trường đầu tư tốt là một môi trường đảm bảo các yếu tố cơ bản sau
- Sự ổn định về chính trị - xã hội: Yếu tố này giữ vai trò quan trọng và quyết định tới các nhà đầu tư. Vì thực tế tình hình chính trị có ổn định, xã hội có trật tự kỷ cương thì cac chính sách, chủ trương của nhà nước mới bền vững. Tạo được niềm tin ở các nhà đầu tư.
- Sự phát triển của nền kinh tế: Đó là sự đồng bộ về cac mặt. Một quốc gia được coi là phát triển thì có được lợi thế như: Hệ thống giao thông tốt, cơ sở hạ tầng đầy đủ, hệ thống thông tin liên lạc phát triển …vv
Một môi trường tốt sẽ luôn là lợi thế canh tranh và là điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư, va kết quả đầu tư.
*Chính sách, pháp luật của nhà nước và địa phương.
Hệ thống pháp luật và chính sách cũng ảnh hưởng rất nhiều tới kết quả thu hút đầu tư. Hệ thống luật pháp rõ ràng, ổn đình nghĩa là luật như đầu tư và các luật có liên quan phải được hoàn thiện, các văn bản quy phạm hướng dẫn đầy đủ đây là cơ sở căn cứ cho các nhà đầu tư tiến hành đâu tư vào Việt Nam.
Ngoài ra các ưu đãi của nhà nước và địa phương cũng là nhân tố thúc quan trọng. Các quy định đảm bảo quyện lợi cho nhà đầu tư. Đây là yếu tố mà nhà đầu tư cũng rất quan tâm.
Như vậy có thế thấy một quốc gia có hệ thống pháp luật hoàn thiện, và chính sách hợp lý thì đâu tư trực tiếp nước ngoài vào sẽ cao.
2.1.4. Những hạn chế còn tồn tại
Trong 20 năm qua, Việt Nam đã thu hút được khoảng 83 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài (ÐTNN) đăng ký (tính cả cấp mới và tăng thêm) với 8.590 dự án còn hiệu lực. Tuy nhiên, đến nay, mới có khoảng 50% số dự án triển khai hoạt động với tổng vốn ÐTNN thực hiện chỉ chiếm 52,2% vốn đăng ký. Con số này cho thấy khả năng hấp thụ nguồn vốn ÐTNN của nước ta còn hạn chế. Mặc dù nhiều cơ hội đang mở ra nhưng Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức để có thể thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn này.
*Cơ sở hạ tầng yếu kém
Mối lo ngại lớn nhất của cộng đồng các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam là hệ thống cơ sở hạ tầng. Những năm qua, tuy được chú trọng đầu tư, nhưng hệ thống cơ sở hạ tầng ở nước ta vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam A-lanh Ca-ny cho rằng, tình trạng quá tải của hệ thống giao thông đô thị, thiếu hệ thống cảng biển nước sâu, khả năng cung cấp điện hạn chế đang trở thành những vấn đề nổi cộm và có thể hạn chế hoạt động đầu tư trong tương lai. Những yếu kém về cơ sở hạ tầng nếu không được khắc phục kịp thời sẽ cản trở quá trình sản xuất, kinh doanh cũng như mở rộng quy mô đầu tư của các doanh nghiệp có vốn ÐTNN tại Việt Nam, đồng thời làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ta.
*Thiếu hụt nguồn nhân lực
Sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam. Hàng loạt các dự án ÐTNN quy mô lớn đang được các nhà đầu tư ráo riết tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam. Ngay trong năm 2008, nhiều dự án với tổng vốn đầu tư lên đến hàng tỷ USD sẽ triển khai hoạt động. Ðiều này đồng nghĩa với nhu cầu tuyển dụng lao động, nhất là lao động có trình độ tay nghề cao là rất lớn. Khó khăn lớn nhất mà nhiều doanh nghiệp có vốn ÐTNN đang gặp phải là tìm kiếm và giữ các nhân viên kỹ thuật chuyên nghiệp và nhân viên quản lý cao cấp. Theo Chủ tịch Phòng Thương mại Australia tại Việt Nam (chi nhánh Hà Nội) Pôn Phe-ơ-hét, sự chênh lệch giữa cung và cầu trên thị trường lao động Việt Nam đang có xu hướng tăng đáng kể. Nhiều doanh nghiệp Australia phải tuyển dụng cán bộ quản lý từ nước ngoài mặc dù rất tích cực tìm kiếm tại thị trường Việt Nam. Chất lượng hệ thống giáo dục và đào tạo Việt Nam cũng bộc lộ nhiều hạn chế khi sinh viên tốt nghiệp các trường đại học trong nước không đủ các kỹ năng cần thiết để làm việc, doanh nghiệp phải đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung. Tính hấp dẫn của Việt Nam về nguồn lao động dồi dào, chi phí nhân công rẻ đang bị đe dọa khi các doanh nghiệp có vốn ÐTNN phải mất nhiều thời gian và chi phí tuyển dụng và đào tạo lao động, nhất là lao động trong các lĩnh vực công nghệ cao, tài chính, ngân hàng... Hệ thống đào tạo dạy nghề dù đã được quan tâm phát triển nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra là tăng cường nguồn lao động có tay nghề và cải thiện chất lượng, nâng cao tính cạnh tranh nguồn nhân lực của nước ta.
*Thủ tục hành chính còn phức tạp
Một rào cản khác cũng đang ảnh hưởng xấu tới hoạt động đầu tư kinh doanh của các nhà ÐTNN tại Việt Nam là thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà. Những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong cải cách hành chính như "cơ chế một cửa" trong cấp phép và đăng ký đầu tư kinh doanh, thành lập các ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tại các cấp chính quyền địa phương... được các nhà ÐTNN hoan nghênh. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xin cấp phép kinh doanh, giấy phép lao động, chứng nhận đầu tư hoặc hoàn thiện các thủ tục thuế và hải quan vẫn còn khá phức tạp. Có thể nói đây là hậu quả của việc áp dụng hệ thống luật pháp, chính sách chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số bộ, ngành chậm ban hành thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ, gây lúng túng cho nhà ÐTNN. Trong khi đó, việc theo dõi, hướng dẫn cấp và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư của các địa phương còn chưa kịp thời, thường xuyên, còn tình trạng kéo dài thời gian góp ý về chủ trương hoặc xác nhận các thông tin cho nhà đầu tư đối với dự án chưa rõ về chủ trương, có những vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng...
Không chỉ vậy, nhiều doanh nghiệp có vốn ÐTNN cũng lo lắng về khả năng tiếp cận đất đai rất khó khăn. Tiến độ bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư nhìn chung đều chậm. Hiện quỹ đất sẵn có tại nhiều địa phương khá khan hiếm. Hơn nữa việc quản lý đất đai và quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan, văn bản hướng dẫn không rõ ràng, chi tiết... tất cả đang làm nản lòng nhà ÐTNN.
Nhiều nhà ÐTNN đã quyết định chọn Việt Nam là địa chỉ tin cậy để đầu tư nhưng cũng mong muốn môi trường đầu tư tại Việt Nam sẽ ngày càng tốt hơn để có thể mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh theo nhu cầu thị trường và tiếp tục đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Nhanh chóng khắc phục những khó khăn, thách thức nêu trên là đòi hỏi cấp bách để Việt Nam có thể tranh thủ cơ hội thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ÐTNN trong giai đoạn tới.
2.2. Kiến nghị
- Một là Chính phủ Việt Nam cần chuyển từ đường lối "kiểm soát và chỉ đạo" sang "điều tiết, theo dõi và cưỡng chế tuân thủ". Một số biện pháp cần thực hiện ngay như cụ thể hoá danh sách các hạn chế tiếp nhận đầu tư, xoá bỏ giới hạn về thời gian trong giấy chứng nhận đầu tư...
- Hai là thực hiện đầu tư vào một số lĩnh vực quan trọng, khuyến khích các dòng đầu tư mớI nhằm đa dạng hoá lĩnh vực chứ không chỉ vào xuất khẩu. - Ba là tạo điều kiện thuận lợi cho việc hấp thu các kỹ năng cần thiết cho nền kinh tế. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chính sách phát triển kỹ năng dựa trên giáo dục.
- Bốn là phân biệt rõ ràng chức năng sở hữu và chức năng điều tiết của Nhà nước. Trong đó, UNCTAD đề xuất: chuyển giao quyền sở hữu tất cả các doanh nghiệp Nhà nước cho SCIC và trao cho tổng công ty này chức năng thực hiện ràng buộc ngân sách đối với tất cả các doanh nghiệp quốc doanh và thực hiện cơ chế trợ cấp Nhà nước một cách minh bạch khi cần thiết.
- Năm là đơn giản hoá hệ thống thuế và hợp lí hoá cơ cấu ưu đãi thuế nhằm giúp cơ quan quản lí thuế dễ dàng thực thi. Cụ thể, Chính phủ nên tiến hành đánh giá tổng thể các ưu đãi thuế và cải cách hệ thống hiện hành khiến cho hệ thống thuế phổ cập trở nên hấp dẫn và cạnh tranh.
- Sáu là hấp thu và thực hiện các thay đổi của pháp luật một cách lành mạnh. Cần có nhiều nỗ lực để trang bị thông tin, giáo dục-đào tạo các thẩm phán và các nhà quản lý.
3. Một số giải pháp
3.1. Về môi trường pháp lý
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và triển khai có hiệu quả các đạo luật mới như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, sửa đổi Luật Thuế, Luật Ngân hàng, Bảo hiểm, Sở hữu trí tuệ, Hải quan… Ban hành các văn bản hướng dẫn còn thiếu, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và minh bạch của hệ thống pháp lý về đầu tư- kinh doanh, nhất là các văn bản liên quan trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp (về quyền sử dụng đất, về huy động vốn, về lao động, về thuế, đặc biệt là cách tính thuế và thu thuế).
- Rà soát các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường để thực hiện theo đúng lộ trình. Các bộ, ngành sớm ban hành quy định về các điều kiện đầu tư cụ thể tương ứng trong lĩnh vực đầu tư có điều kiện phù hợp với cam kết WTO của Việt Nam.
- Tập trung thực hiện các công việc theo nội dung công văn số 2513/BKH-ĐTNN của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ký ngày 13/4/2007 về tăng cường quản lý hoạt động ĐTNN trong tình hình mới.
- Ban hành công khai danh mục các giấy phép con để hướng dẫn nhà đầu tư biết và thực hiện.
3.2. Về thủ tục hành chính
Về luật pháp, chính sách, triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005; tiếp tục ban hành, xây dựng các văn bản hướng dẫn còn thiếu và các luật mới khác có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh. Rà soát và có chương trình triển khai đầy đủ, theo đúng tiến độ các cam kết hội nhập liên quan đến mở cửa thị trường; công bố các cam kết của nước ta với các nước trong các Hiệp định song phương và đa phương để tạo sự minh bạch về các lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Đồng thời, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Giai đoạn II Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản nhằm nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ta.
Về thủ tục hành chính, đi đôi với việc phân cấp triệt để cho các địa phương trong việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư và quản lý ĐTNN, cần tăng cường thực hiện cơ chế “một cửa”, đơn giản hoá trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Rà soát các vướng mắc về thủ tục hành chính ở tất cả các lĩnh vực, các cấp nhằm đẩy nhanh tiến độ cấp phép đầu tư mới và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư; các thủ tục liên quan tới triển khai dự án đầu tư như thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, cấp dấu, xử lý tranh chấp... Đồng thời, cần tập trung xử lý dứt điểm các vướng mắc trong quá trình cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư và các vấn đề vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thông-một cửa’ ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý ĐTNN của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam.
3.3. Về kết cấu hạ tầng
Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó có việc ban hành quy chế khuyến khích tư nhân, đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.4. Về đào tạo nguồn nhân lục
Tăng cường mạnh mẽ công tác đào tạo, nhất là đào tạo nghề với sự tham gia của các tổ chức trong nước và nước ngoài nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động kỹ thuật cao của nhà đầu tư.
Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác XTĐT nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý ĐTNN.
Ngành giáo dục đã đưa ra 4 giải pháp - sáng kiến của VN để phát triển nhanh đào tạo nhân lực có kỹ năng.
Thứ nhất là xác lập các yêu cầu mới về chuẩn tri thức, kỹ năng và hành vi của giáo dục phổ thông và đào tạo nghề. Trong đó, công bố chương trình chuẩn giáo dục phổ thông cho giáo dục hiện nay; nhấn mạnh các yêu cầu hành vi như chủ động, hoạt động tập thể, vận dụng sáng tạo, biết tự học, biết khai thác thông tin qua mạng, trung thực; nhấn mạnh các giá trị văn hóa dân tộc làm nền tảng cho phát triển bền vững quốc gia và cá nhân; chú trọng đào tạo và ứng dụng ngoại ngữ, tin học trong học tập, làm việc.
Thứ hai là phát triển nhanh đội ngũ giáo viên và các nhà quản lý giáo dục theo yêu cầu của thời kỳ sau 2010. Cụ thể như: Triển khai chương trình đào tạo đổi mới phương pháp giảng dạy cho gần 1 triệu giáo viên phổ thông từ 2007 - 2010; Triển khai chương trình đào tạo 20.000 tiến sĩ làm giảng viên cho ĐH, CĐ từ 2007 - 2020, trong đó 10.000 tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài; Bồi dưỡng tất cả các hiệu trưởng các trường phổ thông và ĐH - CĐ theo chương trình chuẩn về quản lý giáo dục từ 2007 - 2010; Tăng lương cho tất cả các nhà giáo, cải thiện điều kiện làm việc của nhà giáo.
Thứ ba là triển khai mạnh mẽ đào tạo theo nhu cầu xã hội. Tập trung triển khai 10 năm (2008 - 2018) nâng cao chất lượng đào tạo và khả năng sử dụng tiếng Anh của người Việt; thành lập trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực; triển khai đào tạo theo đặt hàng của các ngành, Cty lớn quan sự liên kết giữa 3 bên như cơ sở đào tạo - DN - cơ quan Nhà nước; tại các tỉnh thành có KCN lớn, Bộ GDĐT, Bộ LĐTBXH và BQL các KCN phối hợp hình thành các trung tâm cung ứng nhân lực, phục vụ nhanh, hiệu quả nhu cầu của các nhà đầu tư; xây dựng chợ kỹ thuật trên mạng; liên kế tới các ĐH nước ngoài để phát triển các ngành đào tạo có trình độ quốc tế; khuyến khích ĐH tư thục, trường dạy nghề tư thục phát triển, thu hút các ĐH, trường nghề nước ngoài mở cơ sở tại VN; thực hiện kiểm định chất lượng ĐH (từ 2006) và công bố xếp hạng các ĐH từ 2007.
Thứ tư là đổi mới cơ chế tài chính như nâng cao học phí các trường ĐH; phát triển các chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên nghèo, khuyến khích sinh viên học giỏi; khuyến khích các trường phổ thông tư, các trường dạy nghề tư và các trường ĐH, CĐ tư ra đời và hoạt động hiệu quả; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào GDĐT.
3.5. Về xúc tiến đầu tư
- Tăng cường phối hợp trong XTĐT giữa trung ương và địa phương. Nhanh chóng ban hành Quy chế phối hợp và triển khai các bộ phận XTĐT ở một số địa bàn trọng điểm. Đổi mới phương thức xúc tiến đầu tư, chuyển mạnh sang hình thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm, tiếp cận và vận động các công ty, tập đoàn lớn có thực lực về tài chính- kỹ thuật đầu tư vào Việt Nam.
- Triển khai đúng tiến độ việc thực hiện Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình XTĐT quốc gia giai đoạn 2007-2010 để có thể bắt đầu từ ngày 01/01/2998 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Đối với trung ương, đề nghị Chính phủ rà soát và điều chỉnh quy hoạch tổng thể và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, tránh tình trạng đầu tư chồng chéo, tràn lan, manh mún dẫn đến sự lãng phí và kém hiệu quả, trong đó Chính phủ đóng vai trò chỉ huy thống nhất trên phạm vi toàn vùng, có biện pháp bảo đảm, nâng cao tính hiệu lực pháp lý của các quy hoạch đã công bố. Trên cơ sở quy hoạch chung của vùng, các địa phương xây dựng chiến lược và các dự án kêu gọi đầu tư phù hợp với khả năng của mình và phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư. Các tỉnh khu vực miền Trung có lợi thế về cảng biển, sân bay, thủy sản, du lịch và các tỉnh Tây
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách thu hút FDI phát triển công nghệ ở nước ta.DOC