mục lục
lời cảm ơn
Lời nói đầu 1
Phần I: chính sách tiền tệ 2
I. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 2
I.1. Khái niệm và vai trò của chính sách tiền tệ. 2
I.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 3
I.3. Nội dung của chính sách tiền tệ. 7
II. Các công cụ của chính sách tiền tệ 9
II.1. Các công cụ trực tiếp. 9
II.2. Các công cụ gián tiếp 11
II.3. Kinh nghiệm về các chính sách tiền tệ trên thế giới 16
Phần II: Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ 1986-2000. 19
I. Tổng quan về nền kinh tế việt nam( từ 1986 – 2000) 19
II. Các giai đoạn thực hiện chính sách tiền tệ. 20
II.1. Giai đoạn 1986 - 1988 20
II.2. Giai đoạn 1989 - 1991 20
II.3. Giai đoạn 1992 - 1995 21
II.4. Giai đọan 1996 - 2000. 22
III. Những thành tựu đạt được do việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ đúng hướng phù hợp với diễn biến của nền kinh tế. 24
III.1. Về chính sách lãi suất. 25
III.2. Về chính sách tỷ giá. 25
III.3. Về thị trường tín dụng. 26
III.4. Về thị trường tài chính thứ cấp. 26
III.5. Vềviệc kiềm chế lạm phát và ổn định sức mua đồng VNĐ. 27
IV. Những tồn tại trong sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam và nguyên nhân 28
IV.1. Những tồn tại trong cơ chế lãi suất hiện hành. 29
IV.2. Những tồn tại trong tái cấp vốn và kiểm soát lượng tiền cung ứng. 30
IV.3. Những tồn tại trong quy chế dự trữ bắt buộc. 30
Phần III: Giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng chính sách tiền tệ ở việt nam trong giai đoạn hiện nay. 31
I. Cải cách quy chế dự trữ bắt buộc sao cho phù hợp với môi trường và mục đích kinh doanh của các ngân hàng thương mại. 32
II. Phát triển nghiệp vụ thị trường mởphù hợp với quy mô nền kinh tế: 33
III. Phát triển thị trường tiền tệ và điều hành cung ứng tiền tệ một cách hợp lý: 34
III.1. Cải cách đối với ngân hàng trung ương: 35
III.2. Cải cách đối với NHTM 36
IV. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với các chính sách vĩ mô khác: 38
IV.1. Ngân sách nhà nước: 38
IV.2. Hoàn thiện quy chế pháp lý: 38
IV.3. Phối hợp đồng bộ CSTT với chính sách kinh tế vĩ mô khác: 38
Kết luận 40
Tài liệu tham khảo 41
46 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3163 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chính sách tiền tệ và tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lệ cho từng Ngân hàng một tỉ lệ đó giới hạn các ngân hàng này có thể được vay chiết khấu thường xuyên đến mức nào. Giới hạn đó gọi là cửa sổ chiết khấu.
Nếu một ngân hàng thường vay đến cửa sổ chiết khấu quá nhiều, thì Ngân hàng trung ương sau này sẽ không cấp các khoản vay đó nữa. Việc các ngân hàng được đến các cửa sổ chiết khấu là một đặc ân chứ không phải là một quyền hạn.
Ngân hàng phải chịu ba loại phí khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu:
- Phí lãi biểu thị bằng lãi suất chiết khấu.
- Phí về việc phải làm đúng theo các điều tra của Ngân hàng trung ương về khả năng thanh toán của Ngân hàng khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu.
- Phí về việc rất có thể bị từ chối cho vay chiết khấu bởi vì đến cửa sổ chiết khấu quá thường xuyên.
II.2.2.3. Ưu và nhược điểm của chính sách chiết khấu.
Chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Nó không chỉ điều tiết lượng tiền cung ứng, mà còn thể hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng và tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế.
Biện pháp này có ưu điểm là việc vay mượn được thực hiện trên những giấy tờ có giá nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của qui luật cung cầu thị trường. nó cũng giúp NHTW thực hiện vai trò là người vay cuối cùng nhằm tránh khỏi những cuộc sụp đổ tài chính. Chiết khấu là một cách có hiệu quả đặc biệt để cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng trong quá trình xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng bởi vì dự trữ lập tức được điều đến các ngân hàng nào cần thêm dự trữ hơn cả. Chính sách chiết khấu có tác dụng thông báo ý định của NHTW về chính sách tiền tệ trong tương lai.
Việc sử dụng biện pháp này đôi khi cũng không đạt hiệu quả bởi vì nó có hai nhược điểm chính sau: thứ nhất, ở vào nghiệp vụ này NHTW ở vào thế bị động, NHTW có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM phải đi vay; thứ hai khi NHTW ấn định mức lãi suất chiết khấu tại một mức đặc biệt nào đấy sẽ xảy ra những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất chiết khấu và lãi suất thị trường vì lãi suất vay thay đổi, dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó trong cung ứng tiền tệ, NHTW khó có thể đảo ngược những thay đổi trong lãi suất chiết khấu.
II.2.3.Nghiệp vụ thị trường mở
II.2.3.1. Khái niệm và nội dung:
Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các chứng khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc Nhà nước, nhằm làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Sở dĩ Ngân hàng trung ương tiến hành đại bộ phận nghiệp vụ thị trường mở của mình với tín phiếu kho bạc là vì, thị trường tín phiếu kho bạc có dung lượng lớn, tính lỏng cao, rủi ro thấp.
Bằng việc bán các giấy tờ có giá cho các NHTM với lãi suất hấp dẫn, NHTW thu hồi tiền từ lưu thông làm giảm lượng tiền cung ứng, đồng thời khả năng cho vay của các NHTM cũng giảm và già trị tín dụng tăng lên. Ngược lại, Bằng việc mua các giấy tờ có giá, NHTW cung cấp tiền cho các NHTM để cho vay, làm gia tăng lượng tiền cung ứng trên thị trường. Điều quan trọng ở đây là thời hạn cuả các giấy tờ có giá. Việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn chủ yếu nhằm mục đích cân bằng giao động của tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ, trong khi đó mua bán các giấy tờ có giá dài hạn có ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng thanh toán của các NHTM.
II.2.3.2. Ưu và nhược điểm:
Nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất của Ngân hàng trung ương trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, đặc biệt là ở các thị trường tài chính phát triển cao, bởi ưu thế vốn có của nó:
- NHNN hoàn toàn kiểm soát được khối lượng giao dịch trên thị trường mở.
-Là công cụ linh hoạt và có tính chính xác cao, có thể sử dụng ở bất cứ mức độ nào, điều chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ
- Ngân hàng trung ương với công cụ nghiệp vụ thị trường mở có thể đảo ngược lại tình thế của chính mình.
- Nghiệp vụ thị trường mở có thể tiến nhanh chóng không gây những chậm trễ về mặt hành chính và ít tốn kém về mặt chi phí.
Tuy nhiên, khi NHTW mua bán chứng khoán trên thị trường thì vẫn phải phụ thuộc vào người mua bán ( các NHTM ). Và để sử dụng được nghiệp vụ này thì phải có sự phát triển khá cao của của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt, tiền trong lưu thông phần lớn nằm trong tài khoản của ngân hàng, đòi hỏi thị trường tài chính phải tương đối phát triển.Hay nói cách khác, nghiệp vụ thi trường mở chỉ đạt được hiệu quả trong điều kiện có một thị trường chứng khoán thứ cấp sôi động,một thị trường liên NH, thị trường tiền tệ hoạt động sôi động.
II.3. Kinh nghiệm về các chính sách tiền tệ trên thế giới
Có bốn loại chính sách tiền tệ cơ bản trên thế giới: chính sách tiền tệ có mục tiêu tỷ giá hối đoái; chính sách tiền tệ có mục tiêu là khối lượng tiền tệ; chính sách tiền tệ có mục tiêu lạm phát; chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm ẩn chứ không công khai.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu tỷ giá hối đoái đã có một lịch sử lâu dài. Đó là việc ấn định giá trị đồng nội tệ theo giá vàng hoặc gắn vào đồng tiền của một quốc gia khác. Gần đây, người ta thường sử dụng phương pháp neo giá trị của đồng nội tệ theo giá trị một ngoại tệ trong một biên độ nhất định. Phương pháp này rất đơn giản rõ ràng và dễ hiểu và tỷ lệ lạm phát dự kiến sẽ được kiểm soát thông qua đồng ngoại tệ được chọn làm neo. Một số quốc gia đã sử dụng thành công chính sách này như Anh, Pháp (sau khi gắn đồng tiền của nó vào đồng Mark Đức. Tuy nhiên nó cung có những mặt hạn chế như làm mất đi tính độc lập của các chính sách tiền tệ; do có sự ổn định của đồng tiền, các nhà đầu tư không lường hết được mọi sự rủi ro và làm luồng vốn đổ vào tăng nhanh, khi vốn bị rút ra một cách bất ngờ thì đây là một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng mức độ trầm trọng của các cuộc khủng hoảng; nó cũng loại bỏ đi những dấu hiệu quan trọng cho thấy chính sách tiền tệ đã quá bành trướng nhưng đến khi NHNN nhận ra thì đã muộn.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu tiền tệ: Chính sách này cho phép NHNN có thể chọn một tỷ lạm phát không giống các quốc gia khác tuỳ theo sự biến động của sản lượng. Chế độ tiền tệ này có thể gửi tín hiệu gần như lập tức cho cả công chúng và thị trường về tình trạng của chính sách tiền tệ cũng như ý định của các nhà làm chính sách trong việc kiểm soát lạm phát. Mỹ, Anh, Canada đã không thành công trong việc kiểm soát vì việc theo đuổi chính sách này không được chặt chẽ và mối liên hệ không ổn định giữa khối lượng tiền tệ và các biến mục tiêu như lạm phát. Thế nhưng Đức và Thuỵ Sĩ lại thành công khi áp dụng và do đó hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến ủng hộ mạnh mẽ và nó đang được xem xét như là một chính sách tiền tệ chính của NHTW các nước Châu Âu.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu lạm phát: Niu Dilân là quốc gia đầu tiên thực hiện theo chính sách này vào năm 1990 tiếp theo là Canada (1991) Anh (1992)...Chính sách này có một số lợi điểm quan trọng. Nó cho phép sử dụng chính sách trong việc đối phó với các cú sốc trong nội địa, ngoài ra nó dễ hiểu và có tính minh bạch cao. NHTW có trách nhiệm công khai về con số mục tiêu lạm phát, nó sẽ cung cấp thông tin cho công chúng và những người tham gia thị trường tài chính cũng như các nhà chính trị, đồng thời nó làm giảm bớt tính không chắc chắn của chính sách tiền tệ, lãi suất và lạm phát. Một đặc tính quan trọng nữa của chế độ tiền tệ này là nó làm tăng tính trách nhiệm của NHTW.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm chứ không công khai: Milton Friedman đã nhấn mạnh tác động của chính sách tiền tệ có độ trễ khá lớn. Do đó chính sách tiền tệ sẽ mất thời gian khá dài để có thể tác động tới lạm phát. Vì vậy để ngăn chặn lạm phát xuất hiện, NHNN cần phải hành động theo kiểu dự báo đón trước nhằm đưa ra chính sách tiền tệ phù hợp. Lí do cơ bản cho việc sử dụng chiến lược này chính là sự thành công của nó mà điển hình là ở Mỹ trong vài năm gần đây. Một nhược điểm quan trọng của chiến lược náy là nó thiếu tính minh bạch. Nhưng nhược điểm lớn nhất là nó phụ thuộc quá nhiều vào sở thích, năng lực và độ tin cậy của những người có trách nhiệm trong NHNN. Những bất lợi đó có thể làm cho chiến lược hoạt đông không tốt trong tương lai.
Bốn loại chính sách tiền tệ được đề cập trên đây đều có những ưu và nhược điểm riêng của mình. Các kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự minh bạch và tính có trách nhiệm là điều cốt yếu để điều khiển một chính sách tiền tệ nhằm mang lại một kết quả mong muốn trong dài hạn. việc sử dụng loại chế độ nào là tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá và lịch sử của từng quốc gia.
Phần II: Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ 1986-2000.
I. Tổng quan về nền kinh tế việt nam( từ 1986 – 2000)
Sau đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển từ chế độ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chúng ta phải đi những bước đầu tiên, vừa xây dựng và cải cách tổ chức hoạt động hệ thống ngân hàng, vừa định hướng chính sách tiền tệ.
Từ năm 1990, sau khi hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành( pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng – Hợp tác xã tín dụng – Công ty tài chính ), hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống ngân hàng của nền kinh tế thị trường.
Chính sách tiền tệ đã được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ thể: chính sách tín dụng tạo ra các công cụ huy động vốn, mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất thực hiện thông qua xoá bỏ bao cấp vốn, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp với sự biến động của lạm phát...; chính sách quản lí ngoại hối và một số công cụ hỗ trợ khác.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động ngày càng có hiệu quả, thể hiện vai trò quản lí thông qua: ban hành và hoàn thiện cơ chế chính sách, điều hành các chính sách ấy hoạt động có hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức của hệ thống ngân hàng theo hướng gọn nhẹ có khoa học; củng cố hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, mở rộng quan hệ quốc tế; xây dựng qui chế, cấp giấy phép thành lập và quản lý hệ thống các tổ chức tín dụng đa thành phần; xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ngày càng hoàn thiện, có hiệu quả, góp phần kiềm chế lạm phát, từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam.
Đến tháng 10 / 1998, hai pháp lệnh ngân hàng đã được thay thế bằng hai luật ngân hàng: Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức Tín dụng. Hai luật này đã giúp hoạt động của hệ thống ngân hàng được tự do hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân hàng.
II. Các giai đoạn thực hiện chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ của NHNN là tổng hoà các giải pháp đảm bảo ổn định đồng tiền và thị trường tiền tệ, góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6. Thời kì 1986 đến 2000 có thể chia làm 4 giai đoạn
II.1. Giai đoạn 1986 - 1988
Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu luôn vượt quá tổng cung. Tình trạng thiếu ngân sách xảy ra thường xuyên vì vậy Nhà nước liên tục phát hành tiền để bù thiếu hụt khiến cho nền kinh tế luôn trong trạng thái bát ổn định, lạm phát đạt kỷ lục ba con số (siêu lạm phát). Xuất phát từ thực trạng đó, nhiệm vụ chống lạm phát đựơc đặt lên hàng đầu. Do vậy đã có hai thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ:
- Đưa tỷ giá hối đoái lên ngang mức giá thị trường
- Thi hành chế độ lãi suất thực dương.
Điều này đã làm nên những thay đổi mạnh mẽ dảo ngược tình hình. Với mục tiêu trực tiếp là đem lại giá trị thực cho đồng tiền Việt Nam, những thay đổi trên đã góp phần đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân đối với đồng nội tệ, các quan hệ thị trường được hình thành, tạo ra những cơ sở vững chắc để biến tư tưởng đổi mới trở thành xu hướng thực tiễn.
II.2. Giai đoạn 1989 - 1991
Các chính sách tiền tệ mới đã có ý nghĩa quyết định cắt được cơn sốt lạm phát cao. Nhưng lạm phát ở mức trên 66% năm 1990 –1991 là không thể tránh khỏi vì nhuồn lực cho nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển đổi thích nghi hướng theo hệ thống kinh tế thị trường.
Đi đôi với các biện pháp thắt chặt chi tiêu tài chính, tiết kiệm chi và giảm bội chi, việc tăng cường động viên tài chính và hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng kinh tế cũng được quan tâm thích đáng. Đặc biệt cải cách hệ thống thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác động tích cực trong mở rộng và tập trung kịp thời nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
II.3. Giai đoạn 1992 - 1995
Đây là giai đoạn nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, sự ổn định đã đi vào chế độ dừng. Việc cung ứng tiền tệ cho bội chi ngân sách đã chấm dứt, cải cách thuế đã thay đổi cơ bản thu chi ngân sách Nhà nước, các chính sách kinh tế đưa ra phú hợp vứi nền kinh tế đã chuyển đổi sang cơ chế thị trường làm cân bằng tổng cung và tổng cầu hàng hoá. Việc điều hành quản lý kinh tế tuy vậy vẫn ở dạng thô. Do vậy nền kinh tế không tránh khỏi những giao động về lạm phát.
Lạm phát giai đoạn 1991-1995
Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố quyết định chiếu hướng thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Chính phủ luôn chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp. Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh ngân hàng thương mại và hợp tác xã tín dụng đã qui định cơ sở cho việc thành lập hệ thống ngan hàng hai cấp. Bên cạnh đó Nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và được sự trợ giúp kĩ thuật của các tổ chức tài chính quốc tế. cán cân thanh toán đã có chiều hướng thuận lợi.
Bên cạnh những thành tựu đạt được như kiềm chế lạm phát, quản lí ngoại hối, chính sách lãi xuất... việc điều hành chính sách tiền tệ cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế. Cụ thể:
- Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn thiện theo cơ chế thị trường: lãi suất còn cao và chưa được điều chỉnh khéo léo, linh hoạt phù hợp với yêu cầu đặt ra của nền kinh tế; công cụ dự trữ bắt buộc chưa phát huy hết tác dụng; cán cân thanh toán còn bị thâm hụt lớn; việc chi tiêu ngân sách còn gặp nhiều bất cập, đôi khi gây ra những ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế.
- Trên thực tế vẫn xảy ra hiện tượng phát hành để bù đắp chi tiêu gây ra hiện tượng lạm phát ngoài dự kiến.
- Công cụ hữu hiệu nhất của chính sách tiền tệ là hoạt động thị trường mở trong khi thị trường tín phiếu kho bạc hình thành chậm làm cho NHNN khó khăn trong việc điều hành công cụ này.
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính nhiều khi chưa ăn khớp nhịp nhàng.
II.4. Giai đọan 1996 - 2000.
Trong giai đoạn này mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế. Gia tăng tốc độ phát triển là mục tiêu chính trong giai đoạn này, mục tiêu kinh tế vĩ mô bao hàm nghĩa rộng hơn so với mục tiêu kiểm soát, ổn định kinh tế, tốc độ tăng trưởng đồng đều trong các năm, tỷ lệ lạm phát giao động không quá mạnh. Cố gắng đạt cán cân thanh toán quốc tế từ thiếu hụt tới cân bằng vá tiến tới thặng dư. Đảm bảo trạng thái cân bằng ngân sách, tăng thu giảm chi nhất là các khoản chi điều hành để tập trung cho đáu tư công cộng.
Một số nội dung chính trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ trong thời kì này:
- Hạn mức tín dụng: việc đưa ra hạn mức tín dụng sẽ tạo ra những nhân tố khó khăn cho các NHTM. Mặc dù công cụ này đã được áp dụng từ năm 1994 và đã có những tác đọng hiệu quả nhưng từ quý II năm 1998 NHNN đã không áp dụng công cụ này như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ.
- Dự trữ bắt buộc: theo quy chế dự trữ bắt buộc được ban hành theoQuyết định số 1991/1999/QD-NHNN1 năm 1997, NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng(6%_đối với tiền gửi ngắn hạn và không kỳ hạn;6% trung và dài hạn). Đồng thời cũng qui định trả lãi cho dự trữ vượt quá, mức phạt nếu tổ chức tín dụng thiếu khoản dự trữ bắt buộc. Những quy định này khuyến khích các tổ chức tín dụng chủ đọng trong điều hành nguồn vốn kinh doanh và thực hiện dự trữ bắt buộc đúng như quy định phù hợp mục tiêu hành chính sách tiền tệ.
- Tái cấp vốn: thông qua hình thức cho vay thế chấp chứng từ và cho vay thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các NHTM, NHNN thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các NHTM. Năm 1998 lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ 1% tháng lên 1,1% tháng. Năm 1999, cùng với việc giảm trần lãi suất cho vay lãi suát tái cấp vốn cũng được giảm xuống mức 0,85% tháng.
- Lãi suất: thời kì này đánh dấu sự thay đổi căn bản về điều hành lãi suất thích ứng với nhịp độ cải cách kinh tế của Việt nam. NHNN điều hành chính sách lãi suất thông qua mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chée theo tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là 0,35% tháng. Trong phạm vi trần lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất được công bố, các ngân hàng thương mại được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầuvề vốn và đặc điểm kinh doanh riêng.
- Nghiệp vụ thị trường mở: ngày 12/7/2000 nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên. Công cụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có ưu điêmr hơn hẳn các công cụ khác, cho phép NHNN chủ động linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ. Do vậy việc áp dụng công cụ thị trườnt mở đánh dấu bước phát triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN từ việc sử dụng những công cụ cứng nhắc mang tính hành chính sang công cụ linh hoạt và hiệu quả hơn.
Tỉ lệ tăng tổng phương tiện thanh toán (%)
Tỉ lệ tăng
lượng tiền
cung ứng (%)
Tỉ lệ tăng dư nợ tín dụng (%)
Tỉ lệ tăng vốn huy động (%)
1996
22,7
22,7
1997
26,1
26,1
22
25,7
1998
23,9
25,6
16,4
34
1999
39,25
39,3
19,2
34
2000
20
25
21
25
( Nguồn: Tạp chí Ngân hàng,số4 năm2001, trang14-19 )
Để triển khai và thực hiện thắng lợi CSTT trong giai đoạn tiếp theo, giai đoạn 2001-2005,2005-2010 góp phần thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội từ năm 2001 đến 2010. Muốn vậy, chúng ta cần có cách nhìn nhận, phân tích,đánh giá những bài học thực thi CSTT ở nước ta trong thời gian qua
Từ quá trình thực hiện CSTT ở nước ta chúng ta cần rút ra được các bài học kinh nghiệm,thấy được thành công cũng như hạn chế của quá trình thực hiện CSTT ở Việt nam để từ đó có một CSTT đủ sức vượt qua các thách thức và trở ngại.
III. Những thành tựu đạt được do việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ đúng hướng phù hợp với diễn biến của nền kinh tế.
Cho đến nay, CSTT ở nước ta chưa đạt đến độ hoàn thiện và tương xứng với những đòi hỏi mà nền kinh tế đạt ra. Nhưng một cách khách quan và công bằng mà nói thì chúng ta đã có đủ cơ sở để thừa nhận sự đóng góp to lớn của CSTT vào thành tựu to lớn của những năm đầu trong công cuộc đổi mới đất nước của Đảng và nhân dân ta.
III.1. Về chính sách lãi suất.
Trong suốt thời gian qua, lãi suất đã thực sự là một công cụ điều hành CSTT rất đắc lực. Đặc điểm sử dụng lãi suất NHNN mang tính trực tiếp theo yêu cầu tăng cường vốn đầu tư phát triển KT và thực hiện một số chính sách XH.Cho đến nay, ta đã thực thi và hoàn thiện dần dần cơ chế lãi suất dương và đang trên con đường tiến tới tự do hoá lãi suất. NHNN đã công bố cho phép các tổ chức tín dụng được tự do ấn định lãi suất trong kinh doanh theo một phạm vi nhất định,vào 1/1/1996. Luật ngân hàng nhà nước (10/1998) quy định tại diều 18: ”NHNN công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”& tại điều 19 quy định: “lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố để các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”.
Những thành công trên là kêt quả của cả một quá trình từ diều chỉnh lãi suất một cách tình thế sang một cách chiến lược có tính lâu dài cho cơ chế lãi suất.
Việc vận dụng các công cụ trực tiêp của chính sách tiền tệ vẫn rất cần thiết và phù hợp với điều kiện của nước ta. Việc xây dựng nền móng và tiến tới sử dụng các công cụ gián tiếp cũng được chú trọng và đạt nhiều thành tích đáng kể.
III.2. Về chính sách tỷ giá.
Trong những năm dầu của thời kì đổi mới, Nhà nước vẫn duy trì chính sách hai tỷ giá:tỷ giá do NHNN quy định& tỷ giá do thị trường quy định.Cùng với nó lạn khan hiếm ngoại tệ mạnh làm cho nạn đầu cơ xuất hiện làm tỷ giá tăng mạnh.
Nhà nước vừa không điều hành được tỷ giá vừa không dự trữ được ngoại tệ mạnh.Vì vậy, việc ấn định tỷ giá gần vơi tỷ giá trên thị trường có ý nghĩa quan trọng và mang tính chiến lược về kinh tế. Ngày 25/2/1999 NHNN ra quyết định 64/QĐ NHNN “NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân hình thành ở thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất”. Như vậy Cơ sở pháp lý cho việc điều hành tỷ giá của NHNN trên cơ sở thị trường đã được xác lập, góp phần tạo thế ổn định cho sản suất trong nước và khuyến khích xuất khẩu.Sự ổn định của tỷ giá sau khi điều chỉnh cơ chế điều hành tỷ giá phần nào phản ánh sự thành công của hoạt động quản lý tiền tệ _ngân hàng.
III.3. Về thị trường tín dụng.
Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng đã được cải thiện, song hoạt động tín dụng vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Với quy chế 324, cơ chế cải thiện từng bước: tính hiệu quả được đề cao trong các quyết định tín dụng, thời hạn tín dụng được điều chỉnh theo chu kỳ sản xuất kinh doanh, đối tượng cho vay được mở rộng,thủ tục nới lỏng...đã làm cho hiệu quả tín dụng tăng lên đáng kể.
III.4. Về thị trường tài chính thứ cấp.
Quyết định số 140/QĐ NHNN ra ngày 19/4/1999( có hiệu lực sau 15 ngày) về mua bán nợ giữa các tổ chức tài chính tín dụng cũng là một tư tưởng hoàn toàn mới trong việc điều hành hoạt động tiền tệ ngân hàng. Thực chất của quy chế này là tạo môi trường pháp lý cho việc hình thành thị trường thứ cấp các tài sản của hệ thống tài chính tín dụng. Mặc dù thời gian hoạt động chưa nhiều để có thể đánh giá được hoạt động mua bán nợ giữa các tổ chức tài chính tín dụng, nhưng có thể khẳng định được sự tồn tại cũng như tác dụng tích cực của cơ chế này.
Thứ nhất,đối với thị trường tài chính, Sự ra đời của thị trường thứ cấp là một tất yếu vãe có tác dụng tích cực đối với thị trường sơ cấp.
Thứ hai, trong điều kiện tạo các nguồn vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế tương đối hạn chế, thì việc hình thành thị trường thứ cấp làm các tài sản có của hệ thống TCTD sẽ có tác dụng tích cực trong việc chuyển đổi thời hạn giữa các nguồn vốn ngắn hạn sang các khoản tín dụng trung và dài hạn.
Hơn thế nữa, Việc thiết lập môi trường pháp lý cho thị trường thứ cấp các tài sản có của hệ thống trung gian TC, còn có tác dụng đối với việc tối đa hoá hiệu quả sử dụng vốn qua đó góp phần giảm lãi suất tín dụng và tạo điều kiện cho NHNN thực hiện làm người cho vay cuối cùng hiệu quả hơn.
III.5. Vềviệc kiềm chế lạm phát và ổn định sức mua đồng VNĐ.
Không một ai có thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của CSTT trong việc kiềm chế lạm phát của chính phủ Việt Nam trong thời gian qua. Từ khi đổi mới đến nay, nhờ CSTT và hoạt động NH được cải thiện đổi mới mà lạm phát đã giảm thấp và được kiềm chế( Năm 1994 tỷ lệ lạm phát là 14,4%; năm 1995 là 12,7%; năm 1996 là 4,5%; năm 1997 là 3,6%..).trong khi tỷ lệ tăng trưởng kinh tế vẫn khá ổn định và ở mức cao.
Ngoài các thành công đã nêu trên, CSTT còn đóng góp rất nhiều vào các lĩnh vực khác như: tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, xoá đói giảm nghèo..
Tuy vậy, chúng ta cần làm rõ cốt lõi của tất cả các thành tựư đã đạt được. Điểm mấu chốt nằm trong sự phù hợp của hướng tiếp cận đến CSTTvới lôgic của tiến trình đổi mới. Có 3 đặc trưng chinh thể hiện sự phù hợp đó:
Một là, CSTT quán triệt đi theo đường lối chuyển sang kinh tế thị trường.
Hai là, Nỗ lực để CSTT thực sự trở thành công cụ điều hành KT vĩ mô hữu hiệu trong tay nhà nước.
Ba là, Sự đồng nhất và phù hợp của CSTT với tất cả các chính sách kinh tế vĩ mô khác được áp dụng trong quá trình đổi mới.
Tại các mức độ khác nhau, cả 3 đặc trưng trên đều chứa đựng trong từng giải pháp tiền tệ đã nói ở trên. Tổ hợp chung lại là lời giải thích đầy đủ hơn cả về thành công của chính sách tiền tệ trong toàn bộ quá trình chuyển đổi nền kinh tế nhìn từ góc độ CSTT. Với cách tiếp cận đó, CSTT đã góp phần to lớn vào việc thực hiện hai mục tiêu khôi phục ổn định& thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình thực thi CSTT thời gian qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng mặc dù vậy cũng không tránh khỏi những bộc lộ yếu kém.
IV. Những tồn tại trong sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam và nguyên nhân
Chính sách tiền tệ của NHNN thời gian qua đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, tuy nhiên trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ đang bộc lộ những thiếu sót nhất định. Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính – tiền tệ nói
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, thực trạng & Giải pháp.DOC