Đề án Chính sách tiền tệ và việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Phần nội dung 3

Chương I: Lý thuyết chung về chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ 3

1.1. Chính sách tiền tệ: 3

1.1.1. Định nghĩa về chính sách tiền tệ: 3

1.1.2. Phân loại: 3

1.1.3. Mục tiêu của Chính sách tiền tệ 4

1.1.3.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ. 4

1.1.3.2. Tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. 5

1.1.3.3. Tăng trưởng kinh tế. 7

1.1.3.4. Mối quan hệ giữa các mục tiêu. 7

1.1.4. Đối tượng quản lý & xây dựng chính sách tiền tệ 8

1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 8

1.2.1. Dự trữ bắt buộc. 8

1.2.2. Chính sách chiết khấu. 10

1.2.3. Nghiệp vụ thị trường mở 12

1.2.4. Các công cụ khác 14

1.2.4.1. Kiểm soát hạn mức tín dụng 14

1.2.4.2. Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại 15

Chương II: Quản lý và điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam 17

2.1. Chính sách tiền tệ ở Việt nam 17

2.1.1. Về lãi suất tín dụng 18

2.1.2. Về dự trữ bắt buộc 20

2.1.3. Về tái cấp vốn 22

2.1.4. Về tỷ giá hối đoái 23

2.1.5. Về nghiệp vụ thị trường mở 24

2.2. Những định hướng quản lý và điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam 27

Phần kết luận 30

Danh mục tài liệu tham khảo 31

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chính sách tiền tệ và việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợng tiêng gửi mới do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra tăng gấp 20 lần.... Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại. Như đã nói ở trên, tiền dự trữ bứt buộc đều phải mở tài khoản và gửi ở ngân hàng trung ương và đựoc hưởng lãi, cho dù cá ngân hàng thương mại vẫn phải trả lãi cho các khoảng gửi tại ngân hàng mình. Vì vậy, khi mức dự trữ tăng lên, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoảng vay đắt hơn, khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm xuống và theo đó lượng tiền cung ứng cũng giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống, cá ngân hàng thương mại có cơ hội giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoảng vay rẻ hơn, tăng khả năng cho vay của cá ngân hàng thương mại và theo đó lượng tiền cung ứng tăng lên. Tuy nhiên hiện nay, công cụ dự trữ bắt buộc đóng vai trò kém phần quan trọng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương bởi vì nó phức tạp, kém linh hoạt, ảnh hưỏng nhiều đến khả năng thanh toán và ợi nhuận kinh doanh của các ngân hàng.... 1.2.2. Chính sách chiết khấu. Chính sách chiết khấu là công cụ của ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi ngân hàng trung ương cho vay các ngân hàng kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng, từ đó làm tăng thên lượng tiền cung ứng. Ngân hàng trung ương kiểm soát công cụ này bằng hai cách: bằng cách tác động đến giá cả các khoản vay (gọi là lãi suất cho vay tái chiết khấu) hoặc bằng cách tác động đến số lượng vay thông qua quản lý cửa sổ chiết khấu. Theo điều 9/ Luật ngân hàng nhà nước Việt nam thì: “Lãi suất tái chiết khấu là hình thức lãi suất tái cấp vốn dựoc áp dụng khi ngân hàng nhà nước tái chiết khấu thuơng phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng”. Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá cả tín dụng nên khi lãi suất tăng sẽ làm thay đổi mặt bằng giá vốn đầu vào của các ngân hàng thương mại, dẫn đến thu hẹp khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng, lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế giảm và ngược lại. Mặt khác, lãi suất tái chiết khấu cũng gây ra hiệu ứng thông báo, các nhà kinh doanh và nhà đầu tư thông qua việc thay đổi chính sách chiết khấu của ngân hàng trung ương sẽ dự báo được xu hướng thay đổi của lãi suất, từ đó có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhằm bảo vệ tài sản của mình và có hướng đầu tư mới... Cửa sổ chiết khấu là những khoản cho vay tái chiết khấu của ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng thương mại. Để xem xét ngân hàng trung ương tác động đến khối lượng cho vay chiết khấu như thế nào thông qua việc quản lý cửa sổ chiết khấu, chúng ta cần phải xem xét kỹ càng hơn các khoảng cho vay được thực hiện ra sao: Các khoản cho vay mà ngân hàng trung ương cấp cho các ngân hàng thương mại cá 3 loại: tín dụng điều chỉnh, tín dụng thời vụ và tín dụng mở rộng. +Cho vay tín dụng điều chỉnh, một loại thông dụng nhất, nhằm giúp các ngân hàng giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn hạn do tiền gửi tạm thời bị rút. Tín dụng điều chỉnh được cấp bằng một cú điện thoại, sẽ được hoàn trả khá nhanh chóng – vào cuối ngày làm việc đối với các ngân hàng lớn. +Tín dụng thời vụ được cấp để đáp ứng những nhu cầu thời vụ của một số ít các ngân hàng đang nghỉ hoặc một số vùng nông nghiệp hoạt động theo kiểu thời vụ. +Tín dụng mở rộng được cấp cho các ngân hàng bị khó khăn nghiêm trọng về khả năng hoàn trả do tiền gửi bị rút ra, thì không yêu cầu phải hoàn trả nhanh chóng. Những ngân hàng được cấp loại tín dụng này phải nộp một bản đề nghị trình bày nhu cầu vay tín dụng mở rộng và một bản kế hoạch khôi phục lại khả năng hoàn trả của ngân hàng. Đây là hình thức thường áp dụng cho một số ngân hàng có nguy cơ bị phá sản mà có khả năng ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Ngân hàng trung ương quản lý cửa sổ bằng nhiều cách để tránh cho khoản vốn cho vay của mình khỏi bị sử dụng không đúng và hạn chế việc cho đó. Các ngân hàng không được phép kiếm lợi từ các khoản vay chiết khấu (vì lãi suất chiết khấu thường thấp hơn lãi suất thị trường) và ngân hàng trung ương cố gắng ngăn chặn tình hình này bằng cách quy định thể lệ cho vay chiết khấu đối với từng ngân hàng một, thể lệ đó giới hạn các ngân hàng này có thể được vay chiết khấu thường xuyên đến mức nào. Nếu một ngân hàng thường xuyên đến cửa sổ chiết khấu quá nhiều, thì ngân hàng trung ương sau này sẽ thôi không cấp các khoản vay đó nữa và việc một ngân hàng đến cửa sổ chiết khấu phải được coi như một đặc ân, chứ không phải là một quyền hạn. Khi một ngân hàng thương mại đến vay chiết khấu tại ngân hàng trung ương thường phải chịu 3 loại chi phí: + Lợi tức chiết khấu + Phí về việc phải làm đúng theo các điều tra của ngân hàng trung ương về khả năng thang toán của ngân hàng đến vay tại cửa sổ chết khấu. + Phí về việ rất có thể bị từ chối vay chiết khấu vì ngân hàng trung ương đang theo đuổi mộy chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm chống lạm phát. Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hưởng đến cơ số tiền tệvà cung ứng tiền tệ, chính sách chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những cơn hoảng loạn tài chính cho các ngân hàng thương mại. Bởi vì, tiền dự trữ bắt buộc được tức điều đến các ngân hàng nào cần thêm tiền dự trữ hơn cả. Khi đó, ngân hàng trung ương thực hiện chức năng là ngưòi cho vay cuối cùng và đó là một trong những yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành thành công chính sách tiền tệ. Nói tóm lại, chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc htực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Nó đóng vai trò không chỉ điều tiết lượng tiền cung ứng, mà còn để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng và tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư của nền kinh tế. Tuy nhiên, với công cụ này, ngân hàng trung ương thường bị động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Bởi vì, ngân hàng trung ương chỉ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các ngân hàng thương mại phải vay chiết khấu tại ngân hàng trung ương. 1.2.3. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operaions) là hoạt đông mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường của ngân hàng trung ương nhằm thực thi chính sách tiền tệ. Trong điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương theo cơ chế thị trường, thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất vì nó là yếu tố quyết định sự thay đổi lãi suất và tiền dự trữ của các ngân hàng, nói đúng hơn, là cơ số tiền tệ (MB); vì vậy, nó là tác nhân chính làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Nghiệp vụ thị trường mở chỉ thực sự phát huy tavs dụng khi nó được tổ chức thực hiện hoàn toàn trên cơ sở thị trường. Do đó, để nghiệp vụ thị trường mở thực sự trở thành một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, thì các công cụ khác hiện có cũng cần phải được điều chỉnh và hạ tầng cơ sở của thị trường cần phải có sự chuyển đổi phù hợp. Thông qua mua bán các giấy tờ có giá (thường là loại ngắn hạn – tín phiếu kho bạc, trái phiếu ngân hàng trung ương) trên thị trường, ngân hàng trung ương có thể mở rộng hoặc thu hẹp lượng tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng (giả định rằng các đối tác tham gia nghiệp vụ thị trường mở là các ngân hàng có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng trung ương) và tác động một cách tốt nhất đến MB, lượng tiền cung ứng. Khi ngân hàng trung ương bán các giấy tờ có giá có nghĩa là nó hút tiền vào từ hệ thống ngân hàng. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương thục hiện mua các giấy tờ có giá thì tức là làm tăng tiền dự trữ của hệ thống ngân hàng. Ta có thể phân biệt thành hai loại nghiệp vụ thị trường mở: + Nghiệp vụ thị trường mở chủ động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tền tệ. + Nghiệp vụ thị trường mở thụ động nhằm bù đắp lại những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ, ví dụ như sự thay đổi tiền gửi của kho bạc tại ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, việc lựa chọn thị trường chủ động hay thụ động là tuỳ thuộc vào ngân hàng trung ương sẽ quyết định thay đổi chỉ tiêu chính sách tiền tệ hoặc chỉ tiêu duy trì nó trong từng thời kỳ nhất định. Như vậy, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ quan trọng nhất của ngân hàng trung ương trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, bởi những ưu thế vốn có của nó: Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được hoàn toàn kượng nghiệp vụ thị trường tự do. Linh hoạt và chính xác, có thể sử dụng ở bất cứ mức độ nào, điều chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ... Ngân hàng trung ương dễ dàng đảo ngược lại tình thế của mình. Thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí và thời gian... 1.2.4. Các công cụ khác Ngoài ba công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ đã nghiên cứu ở trên, thì ở các nước chưa phát triển, khi mà các công cụ chính sách tiền tệ trên được sử dụng còn nhiều hạn chế thì, trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ, các nước đó có thể sử dụng một số công cụ bổ trợ khác như: Kiểm soát hạn mức tín dụng, kiểm soát lãi suất của các ngân hàng thương mại,.... Sau đây, chúng ta cùng xem xét kỹ hơn về các công cụ đó: 1.2.4.1. Kiểm soát hạn mức tín dụng Hạn mưc tín dụng là mức dư nợ tối đa mà ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ được quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào dặc điểm kinh doanh (cơ cấu khách hàng, mưc độ rủi ro), định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ của các đối tượng trong nền kinh tế. Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợtín dụng của các ngân hàng thương mại, từ đó quyết định đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế vì mỗi khoản cho vay cấu thành dư nợ tín dụng của ngân hàng thương mại thì tương đương với nó là một lượng nguồn vốn tiền gửi huy động, từ đó ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với lượng tiền cung ứng. Khi ngân hàng trung ương tăng hạn mức tín dụng sẽ dẫn đếntăng khả năng cung ứng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mạicho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền qua hệ thống ngân hàng, do đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương giảm hạn mức tín dụng, khống chế khả năng cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng cho nền kinh tế, do đó làm giảm lượng tiền cung ứng. Để cho hạn mức tín dụng có hiệu quả thì khi đưa ra hạn mức tín dụng bao giờ cũng phải nhỏ hơn nhu cầu vay tiền của nền kinh tế, dẫn đến khan khiếm tiền, khi đó sự thay đổi hạn mức tín dụng mới có ý nghĩa tác động vào hạn mức đồng thời tác động đến vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hạn mức tín dụng nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế là bao nhiêu còn là vấn đề cần phải xem xét. Hạn mức tín dụng được ngân hàng trung ương sử dụng như một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, khi mà các công cụ truyền thống khác kém hiệu quả. Tuy nhiên, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất thị trường tăng lên, làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm lệch lạc cơ cấu đầu tư của các ngân hàng thương mại, làm phát sinh thị trường tài chính “ngầm” ngoài sự kiểm soát của ngân hàng trung uơng, gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ... 1.2.4.2. Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại Khi sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệcủa ngân hàng trung ương (thị trường mở, chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng) đều có tác động đến lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt là lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương tác động mạnh đếnlãi suất cho vay của ngân hàng thương mại. Song, khi các công cụ trên hoạt động chưa có hiệu quả, thì ngân hàng trung ương có thể quy địng trực tiếp khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại. Với các hình thức như: ấn định mức lãi suất “sàn” tối đa cho tiền gửi và lãi suất “trần” tối thiểu cho tiền vay. Ngân hàng trung ương ấn định trực tiếp mức lãi suất cho vay để các ngân hàng thương mại áp dụng cho các đối tượng cho vay. Khi ngân hàng trung ương tăng, giảm trần lãi suất cho vay thì các ngân hàng thương mại cũng phải tăng, giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. + Ưu điểm: Ngân hàng trung ương có thể tác động trực tiếp vào các dự án kinh tế nào có lợi nhuận cao nhất mới đượng vay vốn ngân hàng và như vậy có thể loại bỏ được các dự án kinh tế có lợi nhuận thấp, không có lợi. Điều kiện để thực hiện biệp pháp này có hiệu quả là ngân hàng nhà nước phải nắm trong tay các dự án đầu tư từ trước để ấn định tín dụng phù hợp. Ngoài ra, với công cụ này trong một thời gian ngắn có thể huy động được một lượng tiền gửi lớn nếu lãi suất tiền gửi cao hơn lợi nhuận kinh doanh, hoặc hạn chế việc gửi bằng tiền bằng cách quy định lãi suất thấp, buộc người có tiền phải sử dụng hình thức sinh lời khác của tiền, ví dụ như: kinh doanh bất động sản, mua trái phiếu, cổ phiếu của các xí nghiệp xản suất,..... + Nhược điểm: Nếu lãi suất ngân hàng ấn định không đúng sát với nền kinh tế thì có thể để lại những hậu quả: - Lãi suất ngân hàng quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tệ tăng nhanh hơn dự định, các ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn về nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu này. Lãi suất ngân hàng quá cao sẽ làm cho cầu tiền tệ giảm đi, dẫn đến tình trạng đầu tư giảm, hệ thống ngân hàng sẽ không kịp điều chỉnh theo bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Bên cạnh đó, nếu sử dụng mức lãi suất ấn định sẽ làm cho tính linh hoạt, nhạy bén của thị trường. Chương II: Quản lý và điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam 2.1. Chính sách tiền tệ ở Việt nam Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương là tổng hoà các giải pháp bảo đẩm ổn định dòng tiền và thị trường tiền tệ, góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Tại Việt nam, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, hệ thống ngân hàng được tổ chức theo mô hình một cấp, ngân hàng nhà nước Việt nam vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ – tín dụng, vừa thực hiện chức năng ngân hàng chuyên doanh như: ngân hàng công nghiệp, ngân hàng thương nghiệp, ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng ngoại thương, hệ thống tiết kiệm. Như vậy, trong điều kiện đó. chính sách tiền tệ chưa được coi là một chính sách độc lập trong hệ thống các chính sách vĩ mô của nhà nước. Sau Đại hội toàn quốc của Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VI, đất nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện về mọi mặt của đời sống kinh tế – văn hoá - xã hội. Cùng với công cuộc đổi mới đó ngày 3/8/1987 Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định 218/HĐBT, cho phép ngân hàng nhà nước Việt nam tiến hành thí điểm chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh doanh. Sau một thời gian thí điểm ở một số chi nhánh ngân hàng nhà nước các tỉnh, thành phố cho thấy, việc chuyển hoạt động ngân hàng Việt nam sang hạch toán kinh doanh là đúng đắn. Tiếp theo đó, ngày 26/3/1988 Hội đồng bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT về tổ chức bộ máy ngân hàng nhà nước Việt nam, đánh đấu một bước ngoặt lớn, chuyển hệ thống ngân hàng Việt nam sang mô hình tổ chức hai cấp. Sau đó, đến ngày 24/5/1990 Nhà nước ta ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng: “ Pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt nam” và “ Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính”. Đó là một bước tiến quan trọng tạo cơ sở pháp lý để đổi mới căn bản về tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hàng ở Việt nam, và chỉ khi đó thì chính sách tiền tệ mới trở thành một chính sách độc lập trong hệ thống các chính sách vĩ mô của nhà nước và được ngân hàng nhà nước Việt nam hoạch định và thực hiện. Để làm được điều này ngân hàng trung ương phải sử dụng mộ loạt các công cụ như: dự trữ bắt buộc, lãi suất, tỷ giá hỗi đoái, tái cấp vốn, thị trường mở... 2.1.1. Về lãi suất tín dụng Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất ở Việt nam có thể chia thành các giai đoạn sau: Giai đoạn 1986 – 1990 Giai đoạn 1991 – 1995 Giai đoạn 1996 – 8/2000 Giai đoạn 8/ 2000 trở đi Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, do hậu quả của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp để lại, nền kinh tế Việt nam rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng trầm trọng. Lạm phát đã gia tăng rất cao, có những lúc ở mức 3 con số. Chính vì vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia lúc này là kìm chế, đẩy lùi và khống chế lạm phát ở mức phù hợp. Năm 1989, ngân hàng trung ương thực hiện một cơ cấu kiểm soát lãi suất tiền gửi và laic suất cho vay phức tạp, ấn địng các mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay cụ thể theo đối tượng, ngành nghề kinh tế và kỳ hạn vay mượn. Đây được coi là thời kỳ lãi suất âm: lãi suất tiền gửi có kỳ hạn bình quân năm 1992 là 35.1%/năm trong khi đó lãi suất cho vay bình quân là 30%/năm, cùng thời kỳ này tiền gửi của các doanh nghiệp trên tài khoản thanh toán không được tính lãi. Năm 1992, ngân hàng trung ương đã áp dụng cơ chế lãi suất trần tín dụng và sàn cho tiền gửi, nhưng vẫn được phân biệt theo kỳ hạn và loại hình khách hàng. Từ năm 1993 đến nay, ngân hàng đã bỏ hình thức lãi suất theo ngành, chỉ qui định các mức trần, sàn lãi suất theo kỳ hạn giao dịch. Cùng thời gian này, cơ chế lãi suất thoả thuận đã được thí điểm áp dụng đối với nguồn vốn hình thành do phát hành trái phiếu, kỳ phiếu. Do vậy, thời kỳ nàylãi suât thật dương, lãi suất cho vay trung bình năm 1993 – 1994 là 21%/năm và không phân biệt doanh nghiệp quốc doanh với ngoài quốc doanh, lãi suât tiền gửi tiết kiệm bình quân là 20,4%/ năm,có sự phân biệt lãi suất cùng kỳ hạn của các tổ chức thấp hơn của dân cư. Tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp được thanh toán với lãi suất 0,1%/ tháng. Với cơ chế lãi suất này thì các ngân hàng thương mại đã bắt đầu hoạt động có lãi. Bắt đầu từ 1/1/1996 ngân hàng trung ương thực thi chính sách trần lãi suất tín dụng ngắn, trung và dài hạn tối đa, các ngân hàng thương mại căn cứ vào đó quy định mức lãi suất cụ thể nhưng không được phép vuợt quá trần cho vay tối đa. Cũng từ trần lãi suất cho vay đó, các ngân hàng thương mại có thể tự ấn định mức lãi suất huy động ( ngân hầng trung ương chỉ quản lý mức chênh lệch, không điều tiết trực tiếp lãi suất tiền gửi). Năm 1998 là năm tự do hoàn toàn lãi suất tiền gửi , ngân hàng trung ương chỉ quản lý duy nhất trần lãi suất tín dụng. Trong thời gian này, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á và đặc biệt ở các quốc gia trong khu vực như: Thái lan, Malaysia. Indonexia,...Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, ngay từ đầu năm, trân lãi suất cho vay bằng đồng Việt nam (VND) được điều chỉnh tăng lên, lãi suất cho vay ngắn hạn tăng từ 1%/tháng lên 1.2%/tháng, cho vay trung và dài hạn từ1.1%/tháng lên 1.25%/tháng, mức chênh lêch lãi suất là 0.35%/tháng cũng bị huỷ bỏ. Tháng 9/1998, trần lãi suất cho vay bằng USD được điều chỉnh từ 8.5%/năm xuống 7.5%/năm. Nhìn chung, việc điều chỉnh trên là phù hợp với những biến đổi của tỷ giá và tình hình kinh tế chung, do vậy hệ thống ngân hàng thương mại vẫn đảm bảo huy động vốn cho nến kinh tế. Tổng mức huy động vốn trong năm tăng19,1% so với năm 1997 ( chiếm tỷ trọng 22,1% trong GDP), tín dụng cho nền kinh tế tăng 16,4% so với năm 1997. Nguồn huy động cho vay của hệ thống ngân hàng đều giảm sút so với năm 1997 có tác động mạnh tới sự tăng lên của lạm phát tới 9,2% và giảm sút của tốc độ tăng trưởng kinh tế ( năm 1998 là 9,2%). Bước sang năm 2000, trong những tháng đầu năm lãi suất tiền gửi ở ngân hàng vẫn ở mức thấp do các ngân hàng không có nhu cầu huy động vốn, không nhận tiền gửi vì nguồn vốn của hệ thống ngân hàng bị “đóng băng” không thể giải ngân được. Tuy nhiên, kể từ ngày 5/8/2000, theo quyết định 214/QĐ- NHNN1 của Thống đốc ngân hàng nhà nước đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng đồng ngoại tệ. Theo đó đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt nam các tổ chức tín dụng sẽ ấn định lãi suât cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do ngân hàng trung ương công bố theo nguyên tắc: lãi suất cho vay khong được phép vượt quá lãi suất cơ bản và biên độ dao động do Thống đốc ngân hàng trung ương quy định cho từng thời kỳ. Trong đó, lãi suất cơ bản được ngân hàng trung ương công bố trên cơ sỏ tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhốmcác tổ chức tín dụng được lựa chọn theo quyết định của Thống đốc trong từng thời kỳ, còn biên độ dao động được công bố hàng tháng trong trường hợp cần thiết, ngân hàng trung ương sẽ công bố điều chỉnh kịp thời. Đối với lãi suất cho vay bằng đồng USD các tổ chức tín dụng sẽ ấn định mức lãi suất cho vay theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore (SIBOR)kỳ hạn ba tháng đối vốich vay ngắn hạn, kỳ hạn sáu tháng đối với cho vay trung và dài hạn tại thời điểm cho vay và biên độ do Thống đốc quy định từng thời kỳ. Như vậy, với việc ban hành cơ chế điều hànhlãi suất mới này thì ngân hàng trung ương đã dần hướng các tổ chức tín dụng hình thành lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn và tạo tiền đề vững chắc quan trọng cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt nam. 2.1.2. Về dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc được áp dụng trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam qua hai giai đoạn chủ yếu sau: Giai đoạn từ 3/1991 – 9/1995 Giai đoạn 9/1995 trở đi Năm 1990 trong điều 45 của Pháp lệnh ngân hàng quy định: Ngân hàng nhà nước quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp nhất là 10% và cao nhất là 35% trên toàn bộ các tổ chức tín dụng. Trong trường hợp cần thiết hội đồng quản trị ngân hàng trung ươngquyết định tăng tỷ lệ dự trữ lên 35% và ngân hàng trung ương trả lãi cho mức tăng đó. Năm 1991, dự trữ bắt buộc được thực hiện như một công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ. Để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, dự trữ bắt buộc được quy định đối với tất cả các loại tiền gửi của các tổ chức tín dụng. Năm 1994, tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi không kỳ hạn là 13%, có kỳ hạn là 7% và sau đó là 8%. Kể từ khi ban hành Quyết định 260/QĐ- NHNN1 ngày 19/9/1995 mức dự trữ bắt buộc được tính chung cho tất cả các koại tiền gửi không phân biệt tiền gửi không kỳ hạn hay có kỳ hạn dưới 12 tháng. Ngân hàng nhà nước thông nhất tỷ lệ dự trứ bắt buộc là 10%, đồng thời thay đổi lại cơ cấu dự trữ bắt buộc: tiền gửi dự trữ bắt buộc ở ngân hàng nhà nước được tập hợp lại thành một tài khoản tiền gửi từ hai tài khoản dự trữ vàthanh toán trước đây; tiền gửi dự trữ vượt quá được trả lãi 0.1%/tháng. Đồng thời ngân hàng nhà nước cũng áp dụng mức phạt vi phạm dự trữ bắt buộc tương đương lãi suất cho vay cao nhất. Như vậy, với những quy định này thì các ngân hàng thương mại đã trở lên chủ động, tự giác hơn trong việc điều chỉnh dự trữ phù hợp với nhu cầu thanh toán của mình, cung tiền được kiểm soát chặt chẽ hơn, góp phần kiềm chế lạm phát. Nếu so sách các lần tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các mức lạm phát và lãi suất qua các năm ta thấy, thời kỳ có lạm phát cao hay lãi suất cao cũng là lúc tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định ở mức cao, điều này cho thấy đã có sự phối hợp vận dụng các công cụ khác của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước.Điều này rất dễ nhận thấy trong diễn biến của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong năm 1999, đay là năm mà Chính phủ mở rộng tiền tệ để thực hiện kích cầu, lãi suất trần điều chỉnh giảm bốn lần thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng giảm ba lần. Cụ thể, qua ba lần điều chỉnh đó tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm từ 10% xuống còn 5% và chỉ tính cho các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng. Đồng thời từ 3/1999 một số tổ chức tín dụng như: ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân trung ương và địa phương... phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 5% giảm xuống còn 1% vào tháng 7/1999. Mặt khác cơ cấu tiền gửi dự trữ bắt buộc được quy định lại, phải duy trì toàn bộ trên tài khoản tại ngân hàng nhà nước. Việc điều chỉnh này góp phần hiệu quả điều tiết chặt chẽ hơn mức cung tiền . Năm 1999 tổng phương tiện thanh toán khoảng 19 – 29%, góp phần thực hiện chuơng trình kích cầu của Chính phủ. Như vậy, kể từ khi đưa vào thực hiện, công cụ dự trữ bắt buộc đã không ngừng được hoàn thiện, góp phần giúp ngân hàng nhà nước kiểm soát tốt hơn tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, nhằm thực hiện tốt chính sách tiền tệ. 2.1.3. Về tái cấp vốn Trong giai đoạn trước 3/1997, ngân hàng nhà nước quy định lãi suất tái cấp vốn theo một tỷ lệ phần trăm của lãi suất cho vay trên từng khế ước xin tái cấp vốn, điều này có nghĩa là lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại xác định mức lãi suất tái cấp vốn, hoàn toàn ngược với bản chất của lãi suất tái cấp vốn – là mức lãi suất chỉ đạo trên thị trường. Do đó lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động, lãi suất tái cấp vốn có sự khác nhau giữa các ngân hàng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này do nền kinh tế Việt nam chưa phát triển nên chưa có đủ các phương tiện, mặt hàng để thực hiện tái chiết khấu như: thương phiếu, hối phiếu... Việc tái chiết khấu chỉ thực hiện chủ yếu dựa trên các căn cứ chứng từ do ngân hàng thương mại đã cho vay nhưng chưa đến hạn trả nợ. Bên cạnh đó, ngân hàng nhà nước còn thực hiện các phương thức cho vay bù đắp thiếu hụt nguồn vốn t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35427.doc
Tài liệu liên quan