MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I: Một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 2
1. Những khái niệm chung về cơ cấu kinh tế. 2
1.1. Khái niệm cơ cấu 2
1.2. Khái niệm cơ cấu kinh tế 2
1.3. Phân loại cơ cấu kinh tế 3
2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. 4
2.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê Nin về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. 4
2.2. Một số lý thuyết kinh tế phương tây. 5
a. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế. 5
b. Lý thuyết nhị nguyên. 6
c. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối. 7
d. Lý thuyết phát triển theo mô hình “ Đàn nhạn bay ”. 7
3. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong một số mô hình công nghiệp hoá. 8
3.1. Mô hình công nghiệp hoá cổ điển Anh, Pháp, Đức. 8
3.2. Mô hình công nghiệp hoá theo cơ chế kế hoạch hoá tập chung. 10
3.3. Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của một số nước công nghiệp mới –NIC. 11
4. Kinh ngiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời kỳ công nghiệp hoá ở một số nước. 12
4.1. Kinh ngiệm của Nhật Bản. 12
4.2. Kinh ngiệm của Hàn Quốc. 13
4.3. Kinh ngiệm của Malaysia. 14
Phần II: Thực trạng cơ cấu 16
kinh tế ngành ở nước ta 16
1. Thực trạng nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 16
1.1. Nhận thức về vị trí của nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của nền kinh tế. 16
1.2. Những chuyển biến cơ bản của hệ thống nông nghiệp. 16
1.3. Những động thái của chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. 17
1.4. Những giới hạn trong sự phát triển nông nghiệp. 18
2. Thực trạng của công nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. 19
2.1. Công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm thực sự chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của công nghiệp. 19
2.2. Những ngành có tốc độ phát triển cao và đang dần dần chiếm vị trí quan trọng trong công nghiệp những năm tới. 19
2.3. Những ngành công nghiệp vận động trong thời kỳ đổi mới bị trao đảo nhiều nhất, phải kể đến các ngành cơ khí chế tạo, hoá chất phân hoá, dệt may. 20
2.4. Những ngành công nghiệp có quy mô và tốc dộ phát triển tương đối đều, thậm chí có xu thế giảm sút trong những năm tới. 20
3. Thực trạng thương mại và dịch vụ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. 21
3.1. Thương mại- dịch vụ có sự phát triển mạnh mẽ, tỷ trọng tổng sản phẩm trong nước (GDP) không ngừng gia tăng. 21
3.2. Từng bước hình thành thị trường thống nhất trong cả nước. 22
3.3. Cơ cấu hoạt động thương mại đang chuyển dịch phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế mở, các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng mở rộng phản ánh trình độ phát triển và phục vụ hữu hiệu việc phát triển kinh tế trong nước. 22
3.4. Các hoạt động dịch vụ sản xuất và đời sống ngày càng đa dạng hơn. 23
3.5. Bên cạnh những xu thế vận động tích cực đã nêu trên, sự phát triển thương mại – dịch vụ ở nước ta cũng đã lộ rõ những tồn tạiyêú kém.Đó là: 24
4. Đánh giá thực trạng chuyển cơ cấu kinh tế ngành. 24
Phần III: Định hướng chuyển dịch 27
cơ cấu kinh tế ngành và những giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời gian tới 27
1. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đến năm 2020. 27
2. Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta trong thời gian tới. 28
Kết luận 30
Tài liệu tham khảo 31
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kế hoạch hoá tập chung.
Mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành kiểu kế hoạch hoá tập chung được khởi đầu ở liên xô và sau đó, ở hàng loạt nước Xã Hội Chủ Nghĩa sau những thập niên sau triến tranh thế giới thứ hai. Có những đặc trưng là.
Tập chung ưu tiên cao độ cho công nghiệp nặng ngay trong giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá. Ngay trong kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1927-1932), tổng đầu tư cho công nghiệp nhóm A cuẩ liên xô chiếm tới 78% vốn đầu tư cho công nghiệp. Tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp nặng trong tổng đầu tư công nghiệp của các nước XHCN Đông âu trong những năm 1950-1960 dao động từ 70%-90% ở việt nam trức 1985 ở mức 70%. Sự ưu tiên phát triển công nghiệp nặng ngay trong giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá dựa trên những đánh giá về điều kiện cần và đủ như sau.
- Về mặt thực tiễn: Chỉ có xây dựng một ngành công nghiệp nặng hiện đại mới bảo đảm được một nền kinh tế độc lập tự chủ, chống lại mọi hình thức nô dịch của chủ nghĩa thực dân còn ở bên trong, đó là cơ sở duy trì sự.hậu, đuổi kịp trình độ của thế giới.
- Cùng với điều kiện cần trên., đánh giá về điều kiện đủ dựa trên những cơ sở quan trọng nhất là chế độ công hữu XHCN cho phép nhà nước thâu tóm mọi quyền lực kinh tế và khoa học kỹ thuật và trực tiếp điều hành công cuộc công nghiệp hoá theo cơ cấu kinh tế định sẵn theo kế hoạch.
Các chi tiêu hiện vật được xem như là cơ sở quan trọng nhất của việc duy trì tính cân đối giữa các ngành của quá trình công nghiệp hoá. Đây là thuộc tính riêng có gắn liền với thể chế của mô hình công nghiệp hoá này. Từ điểm suất phát là chế độ công hữu, các quan hệ thị trường, đặc biệt là thước đo thông qua giá trị, bị gạt ra khỏi quá trình kế hoạch hoá. các quan hệ giá trị chỉ có ý nghĩa kế toán hỗ trợ chứ không được xem là căn cứ đề ra quyết định phân bổ nguồn lực. Chính vì thế chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của cơ cấu ngành thiếu đi thước đo khách quan và chắc chắn là quan trọng nhất trong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực.
Quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế được đẩy nhanh bằng cách áp dụng nhiều biện pháp phi kinh tế.
Quá trình công nghiệp hoá theo mô hình công nghiệp hoá tập chung đã đưa đến kết quả là: Trong giai đoạn đầu tiên công nghiệp tăng trưởng và tốc độ hết sức nhanh tróng, cơ cấu kinh tế thay đổi mạnh mẽ. ở một số nước tỷ trọng của công nghiệp đã vượt qua nông nghiệp. Còn ở một số nước kém phát triển hơn khác thì hiện trạng cơ cấu kinh tế đã được cải thiện căn bản so với thời kỳ thuộc địa trước đó. Song điều đáng tiếc là những kết quả tăng trưởng công nghiệp, những thay đổi cơ cấu nêu trên đã không trở thành hình mẫu đáng mong muốn về tăng trưởng liên tục và lâu bền. Cuộc khủng hoảng có tính chất hệ thống đã dẫn đến sự xụp đổ của liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa đông âu cũng như cuộc cải cách toàn diện ở một số nước khác từ cuối thập kỷ 1980 chứng tỏ mô hình công nghiệp hoá kiểu kế hoạch hoá tập chung đã thất bại. Đồng ý rằng sự đổ vỡ có nguồn gốc sâu xa từ cơ chế như sự phân tích trong nhiều sách báo kinh tế đã đề cập tới, song ở đây trong phạm vi có liên quan trực tiếp tới vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần thấy rằng những tiền đề cho sự ra đời sớm và duy trì tốc độ tăng trưởng cao của công nghiêpi nói chung, công nghiêpi nặng nói riêng không được bảo đảm.
3.3. Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của một số nước công nghiệp mới –NIC.
Về mặt lý thuyết mô hình này dựa trên những xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế dưới tác động của khoa học – kỹ thuật và lựa chọn một cơ cấu kinh tế không cân đối để hình thành các cực tăng trưởng dựa trên những lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương. Cách tiếp cận cơ cấu kinh tế trong mô hình công nghiệp hoá này có một số đặc trưng là.
Quá trình công nghiệp hoá được bắt đầu từ việc tập chung khai thác các thế mạnh của nền kinh tế, tạo ra những lĩnh vực phát triển có lợi thế so sánh trên thị trường thế giới. Đối với các nước chậm phát triển những thế mạnh khả dĩ là nguồn lao động rồi rào giá rẻ, tài nguyên khoáng sản và nông sản. Đối với các nước trong nhóm NIC thì sự phát triển hướng vào những ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, điện tử dân dụng. Trong khi đó một số nước khác như Malayxia và Thái Lan lại khởi đầu với các sản phẩm nông nghiệp, khai thác khoáng sản. Chính sách hướng vễ xuất khẩu đặt trọng tâm phát triển vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế và sản xuất những sản phẩm mà thị trường thế giới cần, tức là hướng tới một cơ cấu kinh tế không cân đối. Toàn bộ chính sách chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu đèu dựa trên nguyên lý chung là đảm bảo cho các nhà sản xuất có lợi hơn nếu bán sản phẩm của mình ra nước ngoài. Những biện pháp khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu bao gồm hai loại cơ bản là: Nhà nước trực tiếp tác động bằng cách đưa ra danh mục các mặt hàng ưu tiên . Được giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu, hoặc trực tiếp trợ cấp cho các loạt hàng hoá phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Nhà nước gián tiếp can thiệp qua các công cụ tài chính tiền tệ. Tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất hướng ra thị trường thế giới.
Với những chính sách nêu trên thực tiễn mấy chục năm gần đây cho thấy rằng những quốc gia đi theo mô hình hướng về xuất khẩu đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế và thay đổi cơ cấu hết sức nhanh tróng.
4. Kinh ngiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời kỳ công nghiệp hoá ở một số nước.
4.1. Kinh ngiệm của Nhật Bản.
Trong hơn 100 năm của quá trình phát triển tại Nhật Bản. Giai đoạn 1955-1973 là một thời kỳ đặc biệt kinh tế kinh tế bình quân mỗi năm tăng 10% và thành quả này kéo dài gần 20 năm các nhà kinh tế gọi đó là giai đoạn thần kỳ. Trước khi bước vào giai đoạn phát triển cao độ này Nhật Bản trực diện với một tình huống rất quốc tế rất giống Việt Nam và có thành tựu trên là:
Nhật Bản có sự gia tăng nguồn vốn nhanh chóng.
Vào thời kỳ này Nhật Bản đã duy trì được tỷ lệ tích luỹ vốn cao và có xu hướng tăng lên. Năm 1955 tích luỹ vốn so với tổng sản phẩm xã hội là 21,8%, 1968 là 39,7%. Tỷ lệ tích luỹ tư bản cố định trong tổng sản phẩm xã hội bình quân từ 1955 đến 1968 là 29,2%, lớn hơn 2 lần của Mỹ và gần bằng 2 lần của Anh. Có tỷ lệ tích luỹ vốn cao như trên là nhờ. Duy trì mức tiền lương thấp. Trong khi mức năng suất lao động của Nhật Bản tăng rất nhanh thì tiền lương của công nhân Nhật Bản lại thấp so với các nước tư bản phát triển. Lợi dụng được khối lượng lớn tiền tiết kiệm của dân chúng vào kinh doanh. Chi phí quân sự thấp, Nhật Bản không được phép có lực lượng vũ trang, trừ quân đội phòng vệ. Nguồn vốn nước ngoài: Nhật Bản được những nguồn vốn lớn của nước ngoài đổ vào. Chủ yếu từ Mỹ. Ngoài ra Nhật Bản còn hạn chế gắt gao về phúc lợi xã hội. Đa dạng hoá cơ cấu sản xuất.
Có sự thay đổi vị trí giữa công nghiệp và nông nghiệp, những ngành công nghiệp nặng cơ bản dần chiếm ưu thế và dần dần công nghiệp đã chiếm vị trí áp đaỏ trong những ngành sản xuất bằng kỹ thuật hiện đại nhất, có năng xuất cao từ năm 1955 đến năm 1968, tỷ trọng lao động công nghiệp chế tạo luôn tăng 4,5 lần, đầu thập kỷ 70. Nhật Bản dẫn đầu thế giới về sản lượng tàu biển, máy ảnh, máy thu thanh, ti vi...
Đẩy mạnh công tác ứng dụng và ngiên cứu khoa học – kỹ thuật Nhật Bản tăng cường nhập khẩu các bằng phát minh sáng chế chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển.Về số lượng bằng phát minh nhập khẩu, Nhật Bản đứng đầu thế giới: Từ năm 1950 đến năm 1969. Nhật Bản nhập 11606 bằng phát minh với tổng chi phí là 6 tỷ USD. Năm 1970 so với năm 1956, chi phí nhập kỹ thuật tăng 13 lần.Vì vậy những ngành này chẳng những phát triển nhanh về sản lượng mà còn tiến rất nhanh về trình độ kỹ thuật.
Tăng cường vai trò quản lý và điều tiết của nhà nước. Hệ thống quản lý ở Nhật đã kết hợp yếu tố hiện đại, với việc khai thác tối đa yếu tố truyền thống của Nhật. Nên đã hướng được sự quan tâm cuả công nhân tới chỗ chia sẻ trách nhiệm với tập thể của mình, càng nỗ lực nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa trong sản xuất kinh doanh.
Mở rộng thị trường: Thị trường trong nước, từ năm 1946 đến năm 1949. Nhật Bản diễn ra cuộc cải cách nông nghiệp, số lao động nông nghiệp giảm nhanh từ 1950-1979, 9 triệu người rút khỏi nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và các lĩnh vực khác. Tốc độ tiêu dùng sản xuất tăng nhanh hơn tốc độ tiêu dùng cá nhân 14-15% năm. Như vậy đối với thị trường trong nước, tiêu dùng sản xuất có tác động mạnh hơn tiêu dùng cá nhân. Thị trường ngoài nước Nhật Bản là nước đầu tiên của mô hình công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Trong vòng 20 năm 1953-1973, giá trị xuất khẩu của Nhật Bản tăng 20 lần, bình quân 17% năm.
4.2. Kinh ngiệm của Hàn Quốc.
Hàn Quốc thúc đẩy mạnh phát triển kinh tế từ kế hoạch năm 5 lần 1 khởi đầu vào năm 1962. Hướng đột phá là đẩy mạnh tốc độ phát triển công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến. Và đặc biệt trú trọng những ngành công nghiệp nhẹ hướng vào xuất khẩu. Đến nửa đầu kế hoạch năm 5 lần hai, công nghiệp chế biến bỏ xa các ngành khác về tốc độ phát triển từ 4-5 lần.
Chính sách tạo vốn có hiệu quả. Ngay từ đầu những năm 1960, Hàn Quốc đã đưa ra chính sách đầu tư thông thoáng để thu hút nguồn vốn là khuyến khích đầu tư làm tăng việc sử dụng nguyên liệu trong công nghiệp, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Hàn Quốc, khuyến khích du nhập kỹ thuật mới. Đối với bên ngoài, chính phủ ban hành các đạo luật mới để thu hút vốn dưới dạng cho vay hoặc đầu tư trực tiếp. Do vậy lượng vốn đầu tư vào Hàn Quốc ngày càng tăng không kể giai đoạn 1976-1980. Nguồn vốn đầu tư vào Hàn Quốc mỗi thời kỳ tăng 4 lần. Chính sách thuế, tiết kiệm và hệ thống tín dụng ngân hàng cũng đem lại nguồn vốn đáng kể cho chính phủ Hàn Quốc. Thể hiện ở chỗ tiền gửi tiết kiệm của người dân Hàn Quốc ngày càng tăng năm 1965 là 76,5 tỷ WON, năm 1971 là 972 tỷ WON...
Chính sách lao động, tiền lương. Nhờ phát triển những ngành cần nhiều lao động mà đến đầu thập kỷ 1970 con số thất nghiệp giảm được 37,9% từ 1963 đến 1971 tổng cộng việc làm tăng 22,2%, lao động ngành nông nghiệp giảm 26,1%, lao động ngành công nghiệp tăng 92,2%, lao động ngành dịch vụ tăng 62,2%. Cùng với việc tạo thêm việc làm thì chất lượng lao động cũng rất được quan tâm. Năm 1980 Hàn Quốc có 100.000 kỹ sư, 130.000 kỹ thuật viên và hơn 5 triệu công nhân lành nghề.
Chính sách kỹ thuật, chính sách mở rộng thị trường một nguyên nhân nữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh tróng là chính sách kỹ thuật. Đứng đầu các nước đang phát triển ở châu á về số lượng các phát minh sáng chế từ các nước công nghiệp phát triển, hàng năm mua nước ngoài từ 200 – 300 bằng phát minh. Hàn Quốc là một trong những nước đứng đầu các nước đang phát triển ở châu á. Về khả năng tự chủ về kỹ thuật sản xuất, nhất là trong công nghiệp điện tử, công nghiệp xây dựng, công nghiệp đóng tầu biển, hoá chất và da thuộc ở trình độ tiên tiến của thế giới. Chính vì vậy mà nó đã bắt đầu suất khẩu tư bản và kỹ thuật dưới dạng “ chìa khoá trao tay ” song các nước đang phát triển khác với chiến lược hướng vào xuất khẩu, thị trường thế giới trở thành vấn đề sống còn đối với Hàn Quốc. Và hai thị trường chính là Mỹ và Nhật Bản nếu năm 1960, Nhật chiếm 62% tổng xuất khẩu của Hàn Quốc và Mỹ chiếm 11%, năm 1971, tỷ trọng thị trường của Nhật là 24,5% và của Mỹ là 50%. Để đảm bảo sức cạnh tranh trên thị trường thế giới Hàn Quốc áp dụng một số biện pháp nữa là phá giá đồng tiền, trước đây 1 USD = 480 won, 12/1984 đến nay 1 USD = 824 won.
Xây dựng các khu vực “ Mậu dịch tự do ” (FZT). Cũng như nhiều nước NIC và một số nước đang phát triển khác. Hàn Quốc đã tiến hành xây dựng các khu vực mậu dịch tự do. Những khu vực này có nhiều quyền ưu tiên đảm bảo thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài.
Ngày nay Hàn Quốc bước vào đội ngũ các nước công nghiệp phát triển mới. Sự thành công này chịu ảnh hưởng lớn của việc lựa chọn chiến lược phát triển. Đó là đã thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thích hợp. Việc lựa chọn mũi đột phá là công nghiệp hướng vào xuất khẩu.
4.3. Kinh ngiệm của Malaysia.
Kể từ khi chủ nghĩa thực dân cũ chấm dứt thống trị cho đến giữa năm 1990, ở Malaysia chính sách phát triển công nghiệp và nói rộng ra là đường lối phát triển kinh tế thay đổi ba lần. Kèm theo đó là những bước ngoặt trong cơ cấu kinh tế. Giai đoạn 1957 đến cuối năm 1960 về cơ cấu ngành là đa dạng hoá cơ cấu kinh tế. Malaysia cố gắng phát triển những ngành kinh tế mới, có khả năng hỗ trợ trong những giai đoạn mà sản xuất hàng hoá xuất khẩu truyền thống không thuận lợi. Trong các kế hoạch phát triển nông nghiệp được chú trọng hàng đầu. Trong thời gian 1966-1970, 26,3% vốn đầu tư của nhà nước dành cho nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trong lúc công nghiệp chỉ được đầu tư 4,3%,vận tải 12,7%, bưu điện 4,6%. Mở rộng diện tích cây trồng công nghiệp có hiệu quả kinh tế lớn như cao su, cọ dầu... Năm 1970, Malaysia trở thành nước sản xuất lớn nhất dầu cọ trên thế giới trên 60% sản lượng thế giới chiếm 70% thị trường dầu cọ, giá trị xuất khẩu đạt 3,9 tỷ M $. Đầu tư cho thuỷ lợi lớn, 1961 –1965 đầu tư trên 112 triệu M $,1966-1970 đầu tư gấp 3 lần bằng 8,1% tổng số đầu tư của nhà nước, trên 1/3 đầu tư cho nông nghiệp hoá... Giai đoạn 1970-1980 chiến lược phát triển kinh tế là hướng về xuất khẩu. Đặc điểm nổi bật của sự biến động cơ cấu trong giai đoạn này là ở chỗ công nghiệp tăng trưởng nhanh và phát triển của nhiều ngành sản xuất mới
Nhịp độ phát triển của công nghiệp chế biến đạt mức cao nhất 12,55%/năm. Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu tăng 9,6 lần còn tỷ trọng trong tổng xuất khẩu tăng từ 11,9% năm 1970 lên 21% năm 1980, dệt may giá trị xuất khẩu tăng 21 lần trong thập kỷ 1970. Trong những năm 1970, nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển theo hướng đa dạng hoá, mặc dù tỷ trọng giảm khá nhiều trong GDP. Song nó vẩn còn là ngành chủ yếu trong nền kinh tế. Giai đoạn từ năm 1980 đến nay Malaysia đã thành lập thêm nhiều khu công nghiệp và khu mậu dịch tự do từ 1972 đến đầu 1986 đã có 10 khu thành lập 50% hàng xuất khẩu thành phẩm của Malaysia là thuộc các chu kỳ này. Với chính sách trên cơ cấu trong thời gian 1981 – 1985, cơ cấu kinh tế Malaysia tiếp tục có những thay đổi. Tỷ trọng công nghịêp trong GDP năm 1985 đạt 29,3%. Tỷ trọng nông nghịêp giảm từ 22,8% năm 1980 xuống còn 20,36% năm 1985. Các ngành vận tải, bưu điện kho tàng tăng ít (từ 5,7% lên 6,4%), xây dựng từ 4,6% lên 5,1% thương nghiệp từ 12% lên 12,7%.
Phần II: Thực trạng cơ cấu
kinh tế ngành ở nước ta
1. Thực trạng nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.1. Nhận thức về vị trí của nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của nền kinh tế.
Địa vị của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của đất nước. Song dù ở giai đoạn phát triển nào chăng nữa thì nhiều loại sản phẩm của nông nghiệp không thể thay thế bằng sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác. Với tư cách là bộ phận hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất, sự phát triển của nông nghiệp có quan hệ tương hỗ với sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ. Đó là luận cứ có tính nguyên tắc để xác định vị trí của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân.
Về danh nghĩa, nền nông nghiệp được khằng định có vai trò quan trọng và đòi hỏi phải được chú ý đúng mức trong chỉ đạo. Song trên thực tế, sức lực, trí tuệ và vốn liếng lại được tập chung cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng. Kết quả chúng ta đã tạo ra một tiềm lực công nghiệp nặng đáng kể. Nhưng nền nông nghiệp không được khai thác, phát triển. Nền tảng cho sự phát triển công nghiệp không bền vững, những mất cân đối về kinh tế ngày càng trầm trọng và nhiều vấn đề kinh tế – xã hội bức xúc cần giải quyết. Nông nghiệp từng bước được đặt vào đúng vị trí của mình . Việc phát triển nông nghiệp tập chung vào ba nhiệm vụ cơ bản: Bảo đảm lương thực – thực phẩm tiến tới có lương thực dự chữ, bảo đảm nguyên liệu cho sản xuất hàng tiêu dùng , cung cấp sản phẩm xuất khẩu.
1.2. Những chuyển biến cơ bản của hệ thống nông nghiệp.
Trong những năm gần đây nền nông nghiệp của nước ta có những chuyển biến rõ nét. Trong thời kỳ 1990-1994 sản lượng bình quân tăng 4,2% năm. Nếu năm 1990 giá trị sản xuất nông nghiệp là 14889 tỷ đồng thì năm 1994 đạt 18500 tỷ đồng tăng 24,25%. Sản xuất lương thực tăng liên tục trong nhiều năm liền. Sản lượng lương thực năm 1990 là 21,488 triệu tấn, năm 1994 là 26 triệu tấn tăng 21%. Cùng với những chuyển biến to lớn trong sản xuất lương thực, các lĩnh vực kinh tế khác: Nông, lâm, ngư ngiệp cũng phát triển theo chiều hướng tích cực ví dụ từ năm 1990-1994: Cao su mủ tăng 1,81 lần, cà phê tăng 2 lần, chè búp tươi tăng 1,46 lần, mía 1,24 lần. Chăn nuôi cũng phát triển ổn định. Đàn trâu bò tăng 9,3%, đàn lợn tăng 18,3%... Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng 17%, sản lượng thuỷ sản tăng 21,6%... Diện tích trồng rừng tập chung tăng 42,13% ; sản lượng gỗ trộm khai thác giảm 26%.
Nông nghiệp đang thực hiện kết quả những nhiệm vụ đặt ra cho nó. Từ chỗ hàng năm phải nhập 0,7- 0,8 triệu tấn lương thực, hiện nay nước ta trở thành nước thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Việc bảo đảm cho công nghiệp chế biến cũng có nhiều tiến bộ chẳng hạn sản lượng đường từ 323,5 ngàn tấn năm 1990 tăng lên 520 ngàn tấn năm 1994, tăng 1,61 lần, chè chế biến từ 24,2 ngàn tấn lên 35 ngàn tấn tăng 1,45 lần... Nông nghiệp cũng góp phần to lớn vào kim ngạch xuất khẩu từ 2404 triệu USD lên 3600 triệu USD tăng 49,75%.
Mặc dầu có những bước phát triển song nhìn chung nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, chưa trở thành cơ sở thật vững chắc cho quá trình công nghiệp hoá.
1.3. Những động thái của chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.
a. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân có xu hướng giảm dần trong khi sản lượng (cả về giá trị và hiện vật) của nông nghiệp không ngừng gia tăng.
Xu thế chung của các nước trong quá trình công nghiệp hoá là giảm tỷ trọng của nông nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế. Nhưng tỷ trọng giữa ba ngành chủ chốt trong GDP từ năm 1995 đến năm 1999 thay đổi rất ít tỷ trọng này chỉ thay đổi trong những năm đầu đổi mới (1986) cho đến năm 1995. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế giảm xuống nhưng vị trí của nông nghiệp vẫn được củng cố. Nông nghiệp vẫn có tác động tích cực đến các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Do vận hành trong cơ chế kế hoạch hoá tập chung bao cấp rồi chuyển sang cơ chế thị trường sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong thời gian qua mặc dù đúng hướng nhưng còn quá chậm và chưa đạt được mục tiêu mong muốn, cơ cấu đó không đủ sức giúp tạo ra nền tảng cho sự phát triển kinh tế và mở rộng giao lưu với quốc tế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
b. Cơ cấu nội tại của nông nghiệp (gồm nông, lâm, ngư nghiệp) có thay đổi nhưng chưa xuất hiện xu hướng tích cực ổn định.
Để chứng minh cho nhận định này có thể xem xét những số liệu sau đây.
Cơ cấu ngành nông nghiệp (1985-1993).
Ngành sản xuất
1985
1988
1989
1990
1992
1993
Toàn bộ nông nghiệp
100
100
100
100
100
100
- Nông nghiệp
85
83
84
83,3
82,3
85,1
- Lâm nghiệp
7,8
8,9
7,7
7,8
6,8
6,7
- Ngư nghiệp
7,2
8,1
8,3
8,5
10,9
8,2
Toàn bộ sự thay đổi tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp rõ ràng là trậm trạp, chưa tương ứng với yêu cầu và khả năng tài nguyên sinh thái đa dạng của đất nước
c. Cơ cắu ngành nông nghiệp đang trong quá trình chuyển dần từ nền kinh tế mang nặng tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hoá với các loại sản phẩm chủ lực trên cơ sở điều kiện sinh thái của mỗi vùng. Việc chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Bằng hàng loạt chính sách cởi mở đã thúc đẩy sự phát triển sản xuất các loại nông sản, tăng tỷ trọng và tỷ xuất các loại nông sản hàng hoá, mở rộng sự giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các vùng trong nước và tăng nông sản xuất khẩu.
d. Bên cạnh những xu thế biến đổi có tính tích cực đã nêu ra ở trên, sự vận động của nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng bộc lộ rõ một loạt các tồn tại khó khăn và cản trở sau đây.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp có trình độ sản xuất hàng hoá thấp kém, tính chất độc canh, quảng canh, tự cung tự cấp nặng nề
Các bộ phận hợp thành nền nông nghiệp (chồng chọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp) chưa gắn với nhau chặt chẽ trong cơ cấu.
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp không gắn chặt chẽ với xây dựng nông thôn.
Giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ tạo thành cơ chế kinh tế thống nhất.
1.4. Những giới hạn trong sự phát triển nông nghiệp.
Đất đai canh tác – tư liệu sản xuất chủ yếu không gì thay thế được – là một đại lượng có hạn và đang có xu hướng giảm dần.
Tác động tích cực của những động lực tạo ra từ những năm đầu đổi mới có cơ chế quản lý đang đi dần đến đỉnh điểm của sự tới hạn.
Sự phân tán manh mún của kinh tế hộ gia đình hạn chế trực tiếp khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ và phát triển các vùng chuyên canh.
Thực trạng nông nghiệp việt nam còn thấp xa so với yêu cầu phát triển nông nghiệp “ sạch ”.
Tiềm năng thuỷ sản lớn nhưng khả năng khai thác còn hạn chế.
2. Thực trạng của công nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Từ năm 1986 tới nay do phát triển công nghiệp theo đường lối đổi mới nên cơ cấu ngành của công nghiệp đã có sự chuyển dịch nhất định. Có thể nêu ra những nhận định khái quát về sự chuyển dịch đó là.
2.1. Công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm thực sự chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của công nghiệp.
Công nghiệp lương thực thực phẩm vốn chiếm tỷ trọng cao trong những năm trước đây (năm 1986 chiếm 27,14% giá trị tổng sản lượng công nghiệp). Năm 1993 chiếm 34,4%. Đây là ngành khai thác đươc thế mạnh nông sản nhiệt đới, có thị trường rộng nhất là thị trường xuất khẩu, lại gắn với sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn mặt trận hàng đầu của quá trình đổi mới phát triển kinh tế. Trong việc chế biến lương thực thực phẩm, ngoài phát triển chế biến gạo đã chú ý vào chế biến nông sản hàng hoá cây công nghiệp (chè, cà phê, cao xu, mía đường....). Chế biến thuỷ sản, hải sản. Đó chính là cơ sở phát triển các mặt hàng, ngành mũi nhọn chính yếu trong công nghiệp lương thực, thực phẩm nước ta.
2.2. Những ngành có tốc độ phát triển cao và đang dần dần chiếm vị trí quan trọng trong công nghiệp những năm tới.
Như công nghiệp nhiên liệu (bao gồm dầu khí) năm 1986 chiếm 1,625% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, năm 1993 chiếm 16,4%, công nghiệp điện năm 1986 chiếm 4,81% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, năm 1993 chiếm 6,3%,tương tự công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng nă 1986 là 6,87% và năm 1993 là 7,45%....Đây là những ngành mà nhu cầu trong nước rất lớn (điện, dầu, than, vật liệu xây dựng) và có thị trường xuất khẩu (than, dầu thô) là những ngành được đầu tư với số vốn lớn trong những năm trước đây (điện, than, dầu khí) và kích thích các nguồn lực đầu vào những năm gần đây, nên có năng lực sản xuất khá. Mặt khác đây cũng là các ngành phát triển chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên của đất nước, đang có điều kiện và khả năng mở rộng quy mô và đẩy nhanh nhịp độ phát triển các ngành này.
Như vậy cùng với sự phát triển của những ngành xay sát chế biến thuỷ sản, đường, bia... như đã nói ở trên, các ngành dầu khí và vật liệu xây dựng cũng đang phát triển với nhiều hứa hẹn, đang vươn lên chiếm vị trí quan trọng trong phát triển công nghiệp trong những năm tiếp theo.
2.3. Những ngành công nghiệp vận động trong thời kỳ đổi mới bị trao đảo nhiều nhất, phải kể đến các ngành cơ khí chế tạo, hoá chất phân hoá, dệt may.
Đó là những ngành được ưu tiên về vốn đầu tư, nguyên liệu thị trường tiêu thụ...trong những năm còn bao cấp. Do vậy, khi sản xuất thực sự gắn với nhu cầu thị trường nhiều sản phẩm không còn phù hợp, không thể tiêu thụ được. Riêng ngành dệt – may, còn mất cả ngành nguyên liệu, thị trường tiêu thụ (dễ tính), nguồn cung cấp phụ tùng với giá rẻ, các hiệp định và hợp đồng gia công ký với Liên xô cũ và các nước đông âu. Điểm đáng chú ý sau thử thách gay go đó, đẻ giảm sự suy thoái, các ngành và các doanh nghiêp trên đã vận động tìm lối thoát bằng việc đa dạng hoá các sản phẩm, đa dạng hoá tạo vốn và nắm chắc nhu cầu thị trường, nên những năm gần đây có những sản phẩm, những doanh nghiệp đã phục hồi và bắt đầu phát triển (phân bón phục vụ nông nghiệp, lắp ráp điện tử, may xuất khẩu...).
2.4. Những ngành công nghiệp có quy mô và tốc dộ phát triển tương đối đều, thậm chí có xu thế giảm sút trong những năm tới.
Đây là những ngành chịu sự tác động với giới hạn của nhiều nhân tố. Chẳng hạn, công nghiệp luyện kim đen và luyện kim màu phụ thuộc vào trữ lượng mỏ có thể khai thác và yêu cầu phát triển những ngành chế tạo, công nghiệp chế tạo, công ngiệp giấy và công nghiệp in – nhu cầu tiêu thụ lớn, nhưng vùng nguyên liệu rát có hạn, công nghiệp chế biến gỗ, do khai thác ồ ạt trong những năm trước đây (năm 1986 chiếm 6,75% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, năm 1993 còn chiếm 3,3% do yêu cầu bảo vệ rừng, tái tạo rừng và bảo vệ môi trường sinh thái nói chung. Nói cách khác, việc tăng quy mô và tăng tốc độ một cách chủ quan – duy ý chí với các ngành công nghiệp này – trong nhiều trường hợp sẽ không bảo đảm hiệu quả kinh tế –xã hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35528.doc