Đề án Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam từ lãi suất cơ bản đến lãi suất thỏa thuận, thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Phần I: Lí luận chung về lãi suất cơ bản & lãi suất thoả thuận 3

Chương I: Tổng quan về lãi suất 3

I. Khái niệm,những vấn đề chung về lãi suất: 3

1. Khái niệm: 3

2. Ý nghĩa của lãi suất: 4

II. Các loại lãi suất: 5

A/ Phân theo thời gian : Có 3 loại 5

B/ Theo các loại hình tín dụng: Có 4 loại 6

1) Lãi suất tín dụng thương mại: 6

2) Lãi suất tín dụng ngân hàng: 6

3) Lãi suất tín dụng nhà nước: 7

4) Lãi suất tín phiếu tiêu dùng: 8

C/ Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất: 2 loại 8

D/ Căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất: 2 loại 8

E/ Một số loại lãi suất được áp dụng thời gian gần đây tại các NHTM: 8

III. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường: 8

1. Lãi suất tín dụng là phương tiện kích thích lợi ích vật chất để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. 8

2. Lãi suất tín dụng là công cụ kích thích đầu tư phát triển kinh tế. 9

3. Lãi suất tín dụng là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. 9

5. Lãi suất là một trong những công cụ đánh giá “sức khoẻ” của nền kinh tế. 9

6. Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 9

7. Lãi suất với tỉ giá và hoạt động xuất nhập khẩu. 10

IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất: 10

 

Chương II : lãi suất cơ bản 14

I. Khái niệm 14

II. Cơ sở của việc xây dung LSCB: 15

1. LSCB được xây dung dựa trên những lí luận cơ sở sau: 15

2. Các cách tính LSCB: 16

 

Chương III : lãi suất thoả thuận 18

I- Khái niệm: 18

II- Cơ sở xây dung lãi suất thoả thuận : 19

1. Cơ sở lí luận của việc xây dung lãi suất thoả thuận: 19

2. Cách tính lãi suất thoả thuận : 20

 

Phần II: thực trạng về điều hành lãi suất cơ bản và lãi suất thoả thuận ở Việt Nam 22

 

Chương I: diễn biến lãi suất Việt Nam từ trước đến nay 22

 

Chương II : Thực trạng điều hành lãi suất cơ bản của nước ta 25

I. Diễn biến của lãi suất cơ bản từ khi ra đời 25

II. Tác động của cơ chế điều hành LSCB đến các chủ thể trong nền kinh tế: 26

1. Tác động đến hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam : 26

2. Tác động tới việc quản lý kinh tế vĩ mô: 28

3. Tác động tới các chủ thể trong nền kinh tế: là người gửi tiền ( người tiêt kiệm) và người đi vay. 29

II- Ưu và nhược của lãi suất cơ bản: 30

1. Ưu điểm: 30

2. Những tồn tại trong việc điều hành LSCB: 32

3. Nguyên nhân của những tồn tại trên : 33

 

Chương III : Thực trạng điều hành cơ chế lãi suất thoả thuận của NHTƯ 35

I. Diễn biến cơ chế lãi suất thoả thuận từ khi thay thế lãi suất cơ bản 35

II. Tác động của việc áp dụng cơ chế LSTT: 36

III. Những mặt được và những tồn tại của cơ chế điều hành lãi suất thoả thuận 37

1. Những mặt được 37

2. Những tồn tại của cơ chế lãi suất thoả thuận 39

3. Nguyên nhân dẫn tới một số tồn tại của cơ chế lãi suất thoả thuận . 39

 

Chương IV: Thực trạng điều hành lãi suất ở một số nước 41

1. Thực trạng điều hành lãi suất ở một số nước: 41

2. Bài học kinh nghiệm cho nước ta: 43

 

Phần 3: Giải pháp điều hành lãi suất trong thời gian hiện nay 44

I. Giải pháp: 44

II. Định hướng của cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian tới: 46

 

Kết luận 48

Tài liệu tham khảo 49

 

doc51 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1600 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam từ lãi suất cơ bản đến lãi suất thỏa thuận, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iữa người đi vay và người cho vay, không ai ép buộc ai. Do đó ở giác độ người đi vay, lãi suất cho vay thoả thuận không làm cho ai được lợi cũng không làm cho ai bị thiệt. Tuy nhiên do lãi suất là một loại giá - giá thuê vốn – do đó giá ( lãi suất ) của ngân hàng bán buôn thấp hơn lãi suất của ngân hàng bán lẻ, lãi suất cho vay ở nông thôn cao hơn thành thị. Sự cạnh tranh lãi suất ở các TCTD cũng lamd lãi suất bị méo mó. II- Cơ sở xây dung lãi suất thoả thuận : 1. Cơ sở lí luận của việc xây dung lãi suất thoả thuận: Thực tế cho thấy tình hình kinh tế vĩ mô đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận dựa trên cơ sở thị trường, năng lực của NHNN trong việc điều tiết kiểm soát lãi suất thông qua các công cụ chính sách tiền tệ … Nhưng thực ra là do trong cơ chế lãi suất cơ bản, mặc dù trong gần hai năm thực hiện theo cơ chế này đã tạo ra điều kiện cho các TCTD mở rộng cho vay, góp phần thúc đẩy nhịp độ tăng trương kinh tế ở mức cao so với khu vực và thé giới. Các TCTD và khách hàng đã có một khung lãi suất tương đối rộng cho việc thoả thuận lãi suất vay vốn. Nhưng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản vẫn mang bong dáng cơ chế trần lãi suất, đã ít nhiều làm méo mó quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, gây trở ngại cho các TCTD trong việc huy động và phân bổ nguồn lực quan trọng bậc nhất dối với tăng trưởng kinh tế. Nói chính xác hơn là có những dự án kinh doanh khả thi, có thể mang lại lợi nhuận cao đã không tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng. Bởi với những dự án có thể có lợi nhuận cao thì thường có rủi ro đi kèm và do vậy lãi suất cho vay sẽ phải vượt mức LSCB cộng với biên độ cho phép. Tình trạng nhiều dự án có khả năng mang lợi không tiếp cận được với vôn đã và đang hạn chế việc chip lấy cơ hội đầu tư của một bộ phận không nhỏ người sản xuất, đặc biệt là người sản xuất ở khu vực nông thôn. Đồng thời hiện nay các điều kiện cơ bản cho việc áp dụng lãi suất thoả thuận đã chín muồi: + Thứ nhất: nền kinh tế nước ta đã phát triển ổn định,vững chắc theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Môi trường pháp lí cho hoạt động ngân hàng dần đồng bộ.Đặc biệt là NHNN đã mạnh lên nhiều, có khả năng quản lí chặt chẽ các TCTD và điều tiết lãi suất thị trường. +Thứ hai: Hệ thống các TCTD được sắp xếp cơ cấu lại theo đề án cơ cấu được Chính phủ duyệt. Không chỉ có những điều kiện cơ bản trong nước mà cả trên thế giới cũng tác động mạnh đến xu hướng này. Trên thế giới hiện nay các nước đang trong quá trình phát triển theo kinh tế thị trường đều phấn đấu để tiến tới tự do hoá lãi suất , bởi vì tự do hoá lãi suất có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế quốc dân, có khả năng quyết định nhịp độ tăng trưởng kinh tế . So sánh giữa tự do hoá lãi suất và kiểm soát lãi suất cho thấy tự do hoá lãi suất có nhiều ưu điểm cơ bản như: nó thúc đẩy tăng trương kinh tế, tạo điều kiện ổn định kinh tế vĩ mô, tăng huy động tiết kiệm để đầu tư phát triển. Lãi suất được điều chỉnh linh hoạt theo cung cầu vốn trên thị trường, làm cho các nguồn vốn được tự do luân chuyển đến các lĩnh vực có lợi nhuận cao, với mức rủi ro thấp năng cao hiệu quả đầu tư. Góp phần làm giảm thâm hụt ngân sách vì huy động được tối đa nguồn lực trong nền kinh tế để bù đắp thâm hụt ngân sách thay vì đi vay nợ nước ngoài hoặc sử dụng phát hành tiền. Đẩy mạnh quá trình tự do hoá tài chính góp phần làm cho thị trường tài chính phát triển , cải thiện chất lượng cung ưng dịch vụ tài chính. Từ những phân tích này có thể thấy việc thực hiên cơ chế lãi suất thoả thuận là xu thể đổi mới và hội nhâp, phù hợp với thông lệ quốc tế và cung cầu. 2. Cách tính lãi suất thoả thuận : Để đưa ra cách tính lãi suất thoả thuận khó khăn hơn so với LSCB .ở từng ngân hàng khác nhau co quy định mức lãi suất tín dụng khác nhau, vừa để thu hút khách hàng ,cạnh tranh với các ngân hàng khác đông thời duy trì, phát triển hoạt động của ngân hàng mình. Trong điều kiện cạnh tranh để tồn tại , nhiều TCTD đã mời chào cho vay dưới mức lãi suất cơ bản cộng biên độ cho phép. Nhưng vào thời điểm VHĐ huy động khó khăn, nhiều NHTM phải tăng lãi suất đầu vào để đảm bảo khả năng thanh toán nhưng ngân hàng không thể tăng lãi suất đầu ra. Ví dụ như LSCB : 0,65%/tháng , cho vay ngắn hạn biên độ là 0,30% , cho vay trung và dài hạn biên độ là 0,5%/tháng . Nhứng TCTD lại chào hàng với lãi suất 0,62%- 0,7%/tháng. Nói chung là lãi suất thoả thuận sẽ được tính trên cơ sở sự đồng ý của cả hai bên , người vaysẽ được lãi suất thấp nếu thoả thuận được với ngân hàng, còn ngân hàng sẽ cho vay nếu có đủ chi phí và có lợi nhuận, tuỳ từng khách hàng thuộc các đối tượng khác nhau mà ngân hàng sẽ chấp nhận mức lãi suất thị trường khác nhau. Quan hệ giữa người cho vay và nhười đi vay cũng giống nhu qun hệ giữa nhười mua và người bán. Người mua muốn mua rẻ, người bán muốn bàn đắt. Nhưng quy luật cung cầu trên thị trường mới là yếu tố quyết định hình thành giá cả hàng hoá, chứ không do ý muốn của người bán hay người mua. Về việc hình thành lãi xuất ngoài quy luật cung cầu còn phải kể đến một nguyên tắc chi phối lãi xuất cho vay. Đó là : lãi suất là một phần của lợi nhuận. Thông thường, lãi suất cho vay bao gời cũng thấp hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp. Hai phần lí luận về lãi suất cơ bản & lãi suất thoả thuận ở trên đã đề cập chưa làm rõ được tính chất tất yếu của việc chuyển đổi cơ chế lãi suất của NHNN cũng là việc chuyển từ quản lý chính sách tiền tệ bằng công cụ gián tiếp sang công cụ trực tiếp. Bằng việc phân thực trạng của cơ chế lãi suất cơ bản , những mặt được và những vấn đề còn tồn tại, ta sẽ thấy được lí do thực hiện theo cơ chế lãi suất thoả thuận và những thay đổi có thể xảy ra nếu cơ chế này đi vào cuộc sống.Và những gì trong nền kinh tế thay đổi từ khi có lãi suất thoả thuận. Định hướng trong thời gian tới như thế nào. Phần II: thực trạng về điều hành lãi suất cơ bản và lãi suất thoả thuận ở Việt Nam Trước khi đi vào bàn cụ thể về 2 loại cơ chế này,đề án sẽ trình bày sơ lược về diễn biến lãi suất ở Việt Nam từ trước đến nay. Chương I: diễn biến lãi suất Việt Nam từ trước đến nay Thực hiện đường lối đổi mới do ĐH Đảng lần thứ VI (1986) đề ra chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang KTTT định hướng XHCN, một nội dung đổi mới có tính then chốt lãi suất chuyển hệ thống ngân hàng từ một sang hai cấp.Quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng được bắt đầu từ 3/1988 theo Nghị định 53/ĐH của Thủ tướng Chính phủ , và chính thức từ Pháp lệnh NH 5/1990. Từ 1990 về cơ bản đã hình thành hệ thống ngân hàng với chức năng NHTƯ, ngân hàng của các ngân hàng và ngân hàng của Chính phủ . Mặc dù vậy cơ chế lãi suất âm vẫn kéo dài đến tận 6/1992. Điều này chứng tỏ việc thay đổi lãi suất là vấn đề khó khăn và nhạy cảm nhất vì nó liên quan trực tếp đến lợi ích của cả doanh nghiệp tổ chức kinh tế xã hội và từng người dân. Từ đó đến nay cơ chế lãi suất đã được điều chin hr thông qua các giai đoạn sau: Từ 6/1992 đến cuối 1995: Khung lãi suất cho vay tối đa, tieenf gửo tối thiểu. Từ 1996 đến 7/2000: lãi suất trần cho vay Từ 8/2000 đến 6/2001: lãi suất cơ bản Từ 6/2001 đến nay: tiếp tục lãi suất cơ bản với VHĐ và lãi suất thị trường với ngoại tệ. Diễn biến cụ thể các giai đoạn: Giai đoạn 6/1992 đến cuối 1995: Chuyển cơ chế lãi suất âm sang lãi suất thực dương thực sự là một cuộc cách mạng trong tín dụng . Nhưng để phù hợp với giai đoạn đầu chuyển đổi, NHNN vẫn quy định lãi suất tiền gửi, tiền vay cụ thể là vẫn phân biệt mức lãi suất theo thành phần kinh tế. Lãi suất cho vay dài hạn ngoài quốc doanh cao hơn lãi suất doanh nghiệp nhà nước, tiền gửi tiết kiệm cao hơn tiền gửi các tổ chức kinh tế, cho vay nội tệ cao hơn cho vay ngoại tệ. Tuy nhiên vẫn còn cơ chế lãi suất thoả thuận :nếu huy động tiết kiệm và tiền gửi theo lãi suất quy định không đủ thì các TCTD được phép phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn và cho vay khách hàng với lãi suất thoả thuận. Tháng 10/1995 ,Quốc hội ra Nghị quyết khống chế chênh loch lãi suất cho vay và huy động cho TCTD tối đa 0,3%/tháng. Giai đoạn 1/1996 – 7/2000. NHNN ban hành lãi suất trần cho vay với mức : + cho vay ngắn hạn ( đô thị ) + cho vay trung dài hạn cao hơn cho vay ngắn hạn + cho vay ở nông thôn ( cao hơn vùng đô thị ) + cho vay quĩ tín dụng nhân dân cơ sở Đến tháng 1/1998 được điều chỉnh còn 3 mức + cho vay của các TCTD ở đô thị + cho vay của các TCTD ở nông thôn + cho vay quĩ tín dụng nhân dân Đối với lãi suất cho vay ngoại tệ , NHNN cũng khống chế trần lãi suất cho vay , đồng thời kết hợp khống chế trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của doanh nghiệp để tăng cường quản lý ngoại hối . Phù hợp với diễn biến của nền kinh tế NHNN điều chỉnh giảm nhanh lãi suất trần từ 1/1998- 7/2000 đã 6 lần điều chỉnh giảm . Một số điểm lưu ý trong giai đoạn này : Một là: do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế khu vực và một vài nguyên nhân , tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm, nhu cầu đầu đầu tư vay vốn giảm, các ngân hàng thương mại cạnh tranh bằng hạ lãi suất cho vay . Hai là : Mạng lưới ngân hàng chưa rộng khắp để đáp ứng nhu cầu người dân. Giai đoạn từ 5/8/2000 đến nay thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản: Từ 6/2001 lãi suất cho vay USD do NHTM tự ấn định trên cơ sở lãi suất thanh toán quốc tế và cung cấp vốn tín dụng ngoại tệ trong nước. Qua quá trình trên có thể thấy: + Cơ chế lãi suất gắn chặt và phù hợp với nền kinh tế biểu hiện ở chổ những biện pháp điều hành lãi suất,những năm qua của NHNN là phù hợp, được chấp nhận và chuyển dần theo hướng kinh tế thị trường định hướng XHCN. + Cơ chế lãi suất cơ bản cộng biên độ quy định đã tạo cho các TCTD linh hoạt trong việc ấn định lãi suất cho vay đồng thời tránh khuynh hướng bắt bí khách hàng vay lãi suất cao hoặc chạy theo vụ lợi dẫn đến rủi ro trong tín dụng. Đới với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, lãi suất là công cụ gián tiếp để thực hiện chính sách tiền tệ. NHTƯ chỉ công bố lãi suất cơ bản hay lãi suất tái chiết khấu, kết hợp một số công cụ khác như dự trữ bắt buộc,thị trường mở….để can thiệp vào việc hình thành lãi suất trên thị trường. Đối với các nước có nền kinh tế tập trung hay nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi , lãi suất thường là công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ , NHTƯ qui định mức lãi suất cụ thể trong nền kinh tế . Nước ta cũng đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN , nên việc điều hành lãi suất có những bước quá độ như trên đã trình bày . Tiếp tục đi tìm hiểu xem trước xu hướng suy giảm của nền kinh tế toàn cầu và sự cắt giảm lãi suất trên thị trường quốc tế thì NHNN ta đã có sự thay đổi về điều hành lãi suất như thế nào trước tình trạng trên . Chương II : Thực trạng điều hành lãi suất cơ bản của nước ta I. Diễn biến của lãi suất cơ bản từ khi ra đời Từ 1/8/2000 : NHNN công bố lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng Từ 1/3/2001: 0,75%/tháng Từ 1/4/2001: 0,70%/tháng Từ 1/6/2001: 0,65%/tháng Từ 1/10/2001: 0,60%/tháng Giai đoạn từ 5/8/2000 đến nay NHNN quy định về lãi suất: Nội tệ : Là lãi suất do NHNN công bố hàng tháng trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm TCTD được lựa chọn cộng biên độ công bố . Thời gian đầu mức lãi suất là 0,75%/tháng . Sau đó giảm dần và nhiều tháng nay giữ ở mức 0,6%/tháng . Biên độ không thay đổi 0,3%/tháng ngắn hạn và 0,5%/tháng trung và dài hạn . Ngoại tệ : Đối với USD tối đa Ngắn hạn: Sibor 3 tháng + 1%/năm Trung-dài hạn: Sibor 6 tháng + 2,5%/năm Từ 6/2001 lãi suất vay USD do TCTD tự ấn định trên cơ sở lãi suất thanh toán quốc tế và cung cấp vốn tín dụng ngoại tệ trong nước. Năm 2001, NHNN Việt Nam tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất tín dụng theo định hướng điều chỉnh lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng ( ngoại tệ) đồng Việt Nam một cáhc linh hạot. Lãi suất cơ bản được xác định trên cơ sở bám sát tín hiệu thị trường đáp ứng mục tiêu của chính sách tiền tệ, đảm bảo sự kiểm soát của NHNN và từng bước thực hiện mục tiêu tự do hoá lãi suất . Ngoài việc tham khảo lãi suất cho vay của 15 NHTM áp dụng đối với khách hàng tốt nhất (năm 2000 mới chỉ tham khảo khách hàng tốt nhất của 9 NHTM ).LSCB năm 2001 đã được xác định trên cơ sở tham khảo thêm lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, ks đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước và một số yếu tố khác…Chính vì vậy lãi suất của NHTM là tín hiệu của NHNN trong việc điều hành thị trường tiền tệ. Trong năm 2001 ngân hàng Việt Nam đã chủ động điều chỉnh giảm lãi suất liên tục như ở phần trên cho thấy biên độ trên đối với lãi suất cơ bản được quy định đủ rộng, không có sự phân biệt biên độ giữa các khu vực với nhau mà chỉ có sự phân biệt giữa lãi suất cho vay ngắn hạn và lãi suất cho vay tryng và dài hạn( như trên). Vào thời điểm cuối năm 2001 các mức lãi suất cho vay phổ biến của các NHTM đối với nền kinh tế như sau: + Cho vay ngắn hạn khu vực thành thị là 0,75%/tháng, khu vực nông thôn là 0,9%/tháng. + Cho vay trung và dài hạn khu vực thành thị là 1%/tháng, khu vực nông thôn là 1,1%/tháng. II. Tác động của cơ chế điều hành LSCB đến các chủ thể trong nền kinh tế: Việc thay đổi cơ chế lãi suất này sang cơ chế lãi suất khác làm cho lãi suất ở từng thời điểm là khác nhau, chính việc thay đổi lãi suất đã tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống, kinh tế, xã hội trên cả các lĩnh vực kinh tế vi mô với vĩ mô. 1. Tác động đến hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam : Ta thấy rõ ràng điểm xuất phát của LSCB là từ các NHTM. Đến lượt các NHTM, do muốn giành và giữ khách hàng lại sẵn sàng cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất cơ bản. Do đó làm cho LSCB co xu hướng ngày càng giảm xuống.Điều có thể như phù hợp với tình hình kinh tế nước ta.Xu thế của các NHTM cho vay thấp hơn LSCB cho thấy sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các ngân hàng. Điều đó làm cho một số ngân hàng có ưu thế cạnh tranh chiếm được thị phần lớn hơn và một số ngân hàng khác sẽ bị bớt đi thị phần tín dụng và lâm vào cảnh khó khăn, suy yếu. Mặt khác, sự cạnh tranh lãi suất giữa các NHTM làm cho các ngân hàng luôn như thế với nhau, thường xuyên nghe ngóng thông tin của ngân hàng bạn về việc hạ lãi suất. Kết quả là hiệu quả kinh doanh ngày càng giảm. Việc giảm lãi suất cho vay bất hợp lí của các NHTM ảnh hưởng đến tình hình tài chính chung và cơ chế điều hành chung về lãi suất. Một số NHTM chi nhánh để thu hút khách hàng tốt đã giảm lãi suất ngang bằng lãi suất đầu vào để lôi kéo khách hàng của NHTM khác. Đặc biệt một số chi nhánh NH nước ngoài còn giảm lãi suất thấp hơn mặt bong lãi suất chung, nhưng hưởng lãi từ nghiệp vụ mua bán ngoại tệ hoán đỏi và chiết khấu bộ chứng từ thanh toán của khách hàng xuất khẩu. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ vừa được ký kết và có hiệu lực trong nay mai khi mà Quốc hội 2 nước phê chuẩn. Năng lực cạnh tranh để hội nhập của ngân hàng nước ta theo các chuyên gia kinh tế là còn hết sức khiêm tốn. Vậy thì khi các ngân hàng Mỹ được đối xử ngang bằng như các ngân hàng Việt Nam thì chúng ta sẽ cạnh tranh như thế nào? Chung sống trong một môi trường cạnh tranh là điều tất yếu giữa các NHTM. Mỗi ngân hàng đều tìm và sẽ tìm cho mình một ngách thị trường nào đó mà đối phương bỏ ngỏ. Vì vậy mà mỗi NHTM sẽ sống đơn độc trong một thể trạng không được sung mãn, thiếu hẳn sự hợp tác để chống đỡ các đối thủ cạnh tranh cực ký mạnh về nhiều mặt. Cái khó khăn đối với các NHTM hiện nay là phải vừa cạnh tranh nhưng đồng hành trong sự phát triển. Cả hệ thống phải hướng đến những môi trường lâu dài hơn là những môi trường trước mắt. Trên cơ sở LSCB VND do NHNN công bố hàng tháng chủ động quy định cụ thể mức lãi suất cho vay của mình, đồng thời quy định cụ thể mức lãi suất điều chuyển vốn trong hệ thống như NHNN&PTNT Việt Nam hay lãi suất tiền gửi như NHNT Việt Nam , hoặc tính trả đủ phí huy động vốn với chi nhánh NHTM thừa nhiều vốn phải điều đi….Nhìn chung các NHTM quốc doanh có cơ chế quy định lãi suất điều chuyển vốn trong hệ thống của mình không hoàn toàn giống nhau. Chi nhánh các NHTM cũng chủ động thực hiện mức lãi suất cho vay cụ thể của mình đối với từng khách hàng, còn về lãi suất huy động vốn thì về cơ bản không chênh lệch giữa các chi nhánh trong mỗi NHTM cũng như giữa các NHTM khác nhau. Song đối với các NHTM cổ phần do khó khăn về mạng lưới và năng lực tài chính, do hạn chế về uy tín nên thường có mức lãi suất huy động và lãi suất cho vay cao hơn các NHTM quốc doanh.Còn trong khối NHTM quốc doanh thì NHNNcó mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay thấp. Các chi nhánh NH nước ngoài cũng có lãi suất tiền gửi thấp và lãi suất cho vay hấp dẫn. 2. Tác động tới việc quản lý kinh tế vĩ mô: Sự thay đổi của lãi suất sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư, xuất khẩu….do đó sẽ ảnh hưởng đến tổng sản phẩm quốc dân.Đồng thời sự thay đổi lãi suất cũng ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng, ảnh hưởng tới nhu cầu hàng hoá.Do đó lãi suất đã góp phần điều tiết sản xuất và tiêu dùng, điều tiết cung cầu hàng hoá. Do có sự chênh lệch lãi suất cho vay quá lớn trong nền kinh tế và giữa các loại hình tín dụng, lãi suất cho vay của các TCTD lên tới 1,25%/tháng, lãi suất cho vay trung và dài hạn ở nông thôn lên tới 1,05%/tháng, trong khi lãi suất cho vay các doanh nghiệp nhà nước của các NHTM ở đô thị chỉ có khoảng 0,56%-0,58%. Lãi suất còn là công cụ để thực hiện môi trường chính sách tiền tệ quốc gia. Thông qua cơ chếông cụ lãi suất, NHTƯ có thể thực hiện môi trường thắt chặt hoặc mở rộng tiền tệ, thực hiện môi trường kìm hãm và kiểm soát lạm phát hoặc kích cầu để hạn chế giảm phát, từ đó ổn định tr , kích thích phát triển kinh tế. Về mặt bản chất, có thể thấy vai trò điều tiết lãi suất thị trường của NHTƯ trong cơ chế điều hành lãi suất theo LSCB cũng không khác nhiêù so với cơ chế trần lãi suất trước đây. Khác ở chỗ là trước đay NHNN trực tếp quy định mức lãi suất trần thì trong cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trần lãi suất đực quy định gián tiếp thông qua việc quy định lãi suất cơ bản và biên độ. Tuy nhiên việc phối hợp giữa cơ chế điều hành lãi suất với các công cụ khác của chính sách tiền tệ và nghiệp vụ NHTƯ chưa linh hoạt và thiếu hiệu quả. + Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc hoạt động chưa ổn định, một số phiên không có kết quả trúng thầu hoặc khối lượng trúng thầu thấp. Số lượng thành viên tham gia đấu thầu còn ít, hầu như chỉ có các NH quốc doanh, các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, còn tất cả đứng ngoài cuộc. Chỉ đạo lãi suất của Bộ tài chính còn cứng nhắc nên nhiều NHTM thấy đay chưa phải là thị trường hấp dẫn để đầu tư vốn khả dụng của mình. + Thị trường mở hoạt động trầm lắng, hàng hoá còn nghèo nàn các loại giấy tờ có giá trên 2 năm, nhưng thời hạn thanh toan còn ngắn , vẫn chưa được phép đưa ra giao dich mua bán. + Điều hành công cụ dự trữ bắt buộc chưa sát với tình hình thực tế, còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố phi kinh tế, chưa phù hợp với mục tiêu của công cụ này, còn bị tác động bởi nhiều yếu tố tâm lí, chính trị.Khi điều chỉnh tăng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ thì được giải thích là nhằm tăng chi phí huy động vốn hạn chế các TCTD huy động USD gửi ra nước ngoài.Song khi lãi suất trên thị trường quốc tế liên tục giảm thấp thì tỉ lệ dự trữ bắt buộc vẫn kéo dài là 15% , và hiện nay là 10%. + Biên độ giao dịch trong mua bán ngoại tệ quy định quá hẹp. LSCB là lãi suất ấn định trực tiếp bởi cơ quan chức năng (NHTƯ) dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể là để bảo vệ lợi ích cho người gửi tiền, thì NHTƯ sẽ ấn định lãi suất tiền gửi tối thiểu. Nếu để bảo vệ lãi suất cho người đi vay ( các doanh nghiệp hay tổ chức kinh tế)NHTƯ sẽ ấn định lãi suất cho vay tối đa. Nếu muốn bảo vệ lợi ích cho các ngân hàng , nhằm tạo an toàn cho hệ thống NH_NHTƯ sẽ ấn định mức lãi suất tiền gửi tối đa và lãi suất cho vay tối thiểu. 3. Tác động tới các chủ thể trong nền kinh tế: là người gửi tiền ( người tiêt kiệm) và người đi vay. Cung và cầu vốn trên thị trường dần gặp nhau và tiến tới hình thành lãi suất bình quân trong nền kinh tế.Cơ chế lãi suất cơ bản đã tác động rất lớn đến lãi suất huy động vốn trên thị trường. Do các ngân hàng đa dạng hoá các hình thức huy động khác nhau đã hình thành nên các thị trường: thị trường cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, thị trường tiền tệ, tiền gửi,thị trường chứng khoán….tạo ra được sự lựa chọn tối ưu cho mỗi người dân, với mạng lưới huy động rộng khắp. Đồng thời an toàn về tiền gửi trong huy động vốn của người dân được đảm bảo cao hơn, thúc đẩy nguồn vốn trong xã hội. II- Ưu và nhược của lãi suất cơ bản: 1. Ưu điểm: Có thể nói về cơ bản chính sách lãi suất cơ bản là phù hợp với diễn biến lãi suất ở các nước trong khu vực, bám sát mục tiêu và giải pháp kích cầu của Chính phủ nhằm ngăn chặn đà giảm sút nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Theo đó cơ chế trần lãi suất cho vay tiếp tục được thực hiện và được điều chỉnh theo xu hướng giảm phù hợp với chính sách tiền tệ nới lỏng, sức cung cầu thực về vốn tín dụng trên thị trường, giữ quan hệ hợp lí giữa mức độ biến động của tỉ giá và lãi suất.NHNN có thể kiểm soát được lãi suất thị trường và chủ động điều hành lãi suất, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư,kinh doanh của các thành phần kinh tế. Có thể khẳng định rằng: Với việc ấn định và công bố LSCB, NHNN chứng minh được mình là một bộ máy kinh tế tổng hợp , được quyền sử dụng các công cụ tiền tệ, trong đó lãi suất là một bộ máy tài chính kinh tế tổng hợp trong những công cụ quan trọng để tác động trực tếp lên toàn bộ cơ chế vận hành của hệ thống tín dụng nhằm đạt được những môi trường cụ thể nhất định trong từng Giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội. Điểm khác biệt với nội dung đổi mới chủ yếu của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản khác với cơ chế lãi suất trước đó, kể cả cơ chế trần lãi suất ggần đây được coi lãi suất ưu việt hơn, đó là việc xác định một mức lãi suất dựa vào quan hệ cung cầu vốn trên thị trường , qua việc tính toán bình quân các mức lãi suất huy động và cho vay của một số NHTM được chọn làm đại diện, có sự tham khảo các lãi suất khác. Mức lãi suất này được công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay.Rõ ràng là nếu như các cơ chế lãi suất trước đây chủ yếu được điều hành theo ý thức chu quan, áp đặt, hành chính thì cơ chế này đã thể hiện được một bước đổi mới cơ bản là NHNN đã điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường, chú trọng đến quan hệ cung cầu tín dụng và mục tiêu của chính sách tiền tệ.Việc điều chỉnh các mức lãi suất cơ bản hàng tháng một cách linh hoạt đã tạo điều kiện bám sát tín hiệu thị trường, cung cầu vốn, tín dụng đáp ứng mục tiêu chính sách tiền tệ, đảm bảo sự kiểm soát của NHNN trên thị trường tiền tệ. NHNN đã liên tục cắt giảm trần lãi suất cho vay để khuyến khích đầu tư, làm cho nền kinh tế tăng trưởng và giả quyết được vấn đề việc làm.Đồng thời với việc điều hành theo trần lãi suất cho vay, NHNN chỉ quản lý lãi suất cho vay đã dần thực hiện tự do hoá lãi suất. Mặt khác việc điều hành chính sách tiền tệ theo trần lãi suất sẽ khuyến khích các tổ chức tự do cạnh tranh lành mạnh và tăng cường vai trò tự chủ trong nền kinh tế, chủ động trong việc điều hoà cung cầu về vốn kinh doanh bằng công cụ lãi suất một cách linh hoạt, nhạy bén theo cơ chế thị trường. Theo phân tích LSCB tác động của NHTM dẫn tới cạnh tranh cũng có những mặt tích cực như sau: + Do các NHTM cạnh tranh về lãi suất, nên lãi suất tín dụng giảm thấp, chi phí của dự án sản xuất kinh doanh vì thế sẽ thấp đi, hiệu quả sẽ tăng lên.Điều đó sẽ kích thích các doanh nghiệp và cá nhân triển khai nhiều dự án sản xuất kinh doanh hơn.Và như vậy sẽ tăng cầu về tín dụng, là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. + Các NHTM cạnh tranh về lãi suất tín dụng nhưng cũng đồng thời phải cạnh tranh về lãi suất huy động vốn để giữ vững, tăng trưởng nguồn vốn, đáp ứng chu cầu tín dụng.Song mục tiêu cuối cùng của các NHTM là lợi nhuận.Vấn đề này buộc các NHTM phải chú ý nghiên cứu, thực hiện những biện pháp để tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả, mở rộng, phát triển các dịch vụ khác…Điều đó sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn cho các doanh nghiệp, dân chúng và xã hội, đồng thời tăng thêm sức mạnh cho các NHTM. Việc quy định cho vay trần lãi suất tạo ra một bằng chứng về lãi suất cho vay trong phạm vi cả nước, xoá bỏ tình trạng cho vay theo lãi suất mở rộng vượt xa các mức lãi suất do NHNN quy định.Đồng thời bảo vệ lợi ích cho người đi vay, tạo được mặt bằng về phân phối lợi nhuận giữa các thành phầnkt với các tổ chức tín dụng và người gửi tiết kiệm. Trong thời gian vừa qua, với công cụ lãi suất liên tục cát giảm, kết hợp với việc điều hành các công cụ khác của chính sách tiền tệ đã tác động đến chu chuyển vốn trên thị trường ,xã hội ,điều tiết cung cầu vốn hợp lí giữa các khu vực của nền kinh tế và các vùng của lãnh thổ, thúc đẩy tiết kiệm và tăng đầu tư có hiệu quả, tiến dần tới hình thành lãi suất bình quân hợp lí trong nền kinh tế.Tuy nhiên, trong cơ chế điều hành lãi suất hiện nay vẫn còn nhữngtồn tại. 2. Những tồn tại trong việc điều hành LSCB: Thứ nhất có thể thấy đó là biên độ lãi suất theo quy định của NHNN quá rộng, nên nó có tính chất như NHNN vẫn quy định trần lãi suất cho vay tối đa, còn chính sách lãi suất cho vay tối thiểu thì không có tác dụng. Còn có sự (cho vay ) chênh lệch lãi suất cho vay quá lớn trong

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35302.doc
Tài liệu liên quan