Đề án Cơ sở khoa học hình thành mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

I. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 2

1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế 2

1.1. Khái niệm 2

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế 2

2. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 8

2.1. Khái niệm và vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế 8

2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 10

2.3. Xu thế cơ bản trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 12

II. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua 14

1. Tăng trưởng kinh tế và một số nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. 14

1.1. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát (chỉ số CPI) 14

1.2. Đầu tư và tiết kiệm 15

1.3. Cán cân thương mại và tài khoản vãng lai 16

1.4. Thu – chi ngân sách nhà nước 17

2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua (từ 1986 đến nay) 18

2.1. Điểm qua một số kết quả đạt được trong chuyển dịch cơ cấu 19

2.2. Những hạn chế cơ bản của cơ cấu đòi hỏi phải tiếp tục chuyển đổi. 21

III.Dự báo tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2010 23

1. Xây dựng các kịch bản phát triển 23

2. Cơ sở khoa học hình thành mục tiêu 24

3. Dự báo định lượng 27

Kết luận 30

Tài liệu tham khảo 31

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cơ sở khoa học hình thành mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế là tổng thể các bộ phận hợp thành của nền kinh tế cùng các mối quan hệ chủ yếu về định tính và định lượng, ổn định và phát triển giữa các bộ phận ấy với nhau hay của toàn bộ hệ thống trong những điều kiện của một nền sản xuất xã hội trong hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở quan hệ tỉ lệ mà quan trọng hơn là mối quan hệ tác động qua lại về nội dung bên trong của hệ thống kinh tế. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (ngành) là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngànhvà làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó. Chuyển dịch cơ cấu đem tính khách quan thông qua những nhận thức chủ quan của con người. Nội dung cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều lĩnh vực (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng); các ngành kinh tế quốc dân (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, ytế, giáo dục,…); các thành phần kinh tế xã hội (Nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), và các vùng kinh tế. Vì vậy có thể chia cơ cấu kinh tế thành nhiều loại: cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu theo thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế kĩ thuật, cơ cấu quản lí,…Trong đó ba loại cơ cấu ngành, vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế là những nội dung quan trọng nhất, phản ánh tập trung nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã hội. Các bộ phận hợp thành của cơ cấu kinh tế có quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau. Tính hợp lý của một cơ cấu kinh tế chính là sự hài hoà, ăn khớp giữa các bộ phận cấu thành, cho phép sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của xã hội phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Về mặt định lượng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự chuyển dịch cơ cấu đầu ra. Sự chuyển dịch đó phụ thuộc vào hai yếu tố: Năng suất lao động và qui mô sử dụng các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên và khoa học công nghệ. Từ đó cho thấy, hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế xét về mặt lượng thể hiện ở hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực trên phạm vi toàn nền kinh tế. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì tăng trưởng kinh tế và biến đổi cơ cấu kinh tế là hai mặt của phát triển của nền kinh tế. Giữa chúng có mối quan hệ qua lại như mối quan hệ tác đọng giữa lượng và chất. Cơ cấu kinh tế hợp lí thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cần thiết để hoàn thiện hơn nữacơ cấu kinh tế trong tương lai. Xét trên góc độ tác động đến quá trình phát triển,cơ cấu kinh tế có vai trò cụ thể: - Tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã được vạch ra trong chiến lượccủa đất nước cũng như của ngành và địa phương. - Khai thác đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả nhất các nguồn lực phát triển, phát huy lợi thế so sánh, cho phép tạo ra các cực tăng trưởng nhanh. - Tạo điều kiện mở đường, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy sự phân công lao động giữa các ngành, vùng lãnh thổ và các thành phần kinh tế. - Bảo đảm tăng cường sức mạnh về quốc phòng và an ninh góp phần quan trọng vào sự ổn định chính trị của đất nước. - Tạo điều kiện cho nền kinh tế nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của hai lực: thị trường và nhà nước. Đó là một quá trình vừa có kế hoạch vừa mang tính tự phát. Sự hình thành cơ cấu kinh tế của một nước chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan hết sức phức tạp. Có thể phân các nhân tố thành hai loại là nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. - Nhóm nhân tố khách quan bao gồm ba nhóm nhân tố chủ yếu sau đây: + Nhóm thứ nhất gồm các nhân tố về điều kiện tự nhiên như dự trữ tài nguyên, khoáng sản, nguồn nước, đất đai, nguồn năng lượng, khí hậu và địa hình,…Chính Các Mác đã viết: ”Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định”. Vì vậy nền sản xuất xã hội và cơ cấu của nó nói riêng chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên. Thiên nhiên vừa là điều kiện chung của sản xuất xã hội, vừa làtư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đối với việc hình thành cơ cấu kinh tế mang tính trực tiếp. Tuy nhiên trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển hiẹn nay, việc đánh giá vai trò các nhân tố điều kiện tự nhiên cần tránh cả hai khuynh hướng đối lập: hoặc là quá lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên hoặc xem nhẹ vai trò của nó. Cả hai khuynh hướng đó đều không đúng đắn. Dưới sự thống trị của khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, tài nguyên thiên nhiên không phải là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển. Ngược lại nếu xem nhẹ yếu tố thiên nhiên sẽ hoặc không khai thác đầy đủ lợi thế so sánh để phát triển kinh tế hoặc là khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí, phá hoại môi trường phát triển kinh tế lâu dài. + Nhóm thứ hai bao gồm các nhân tố kinh tế xã hội bên trong của đất nước như: nhu cầu thị trường, dân số và nguồn lao động, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ quản lý, hoàn cảnh lịch sử của đất nước. + Tiến bộ khoa học công nghệ có ảnh hưởng rất lớn đênswj biến đổi cơ cấu kinh tế. Trước hết nó làm thay đổi vị trí của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Khoa học công nghệ cũng làm thay đổi vai trò của nguyên liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm, đòi hỏi có quan điểm mới trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. + Nhóm thứ ba bao gồm các nhân tố bên ngoài như quan hệ kinh tế đối ngoại và hợp tác phân công lao động quốc tế. Do sự khác nhau về điều kiện sản xuất ở các nước, đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả lao động với bên ngoài ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Trong trao đổi quốc tế mỗi nước đều phát huy lợi thế so sánh của mình trên cơ sở chuyên môn hoá vào các ngành, lĩnh vực có chi phí tương đối thấp. Chính chuyên môn hoá đã thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát triển và kết quả là làm biến đổi cơ cấu kinh tế. Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế hiện nay, cơ cấu kinh tế của một nước còn chịu sự tác động của cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực. Khái quát hoá sự tác động qua lại đó, các nhà kinh tế đã nêu lên một đặc trưng quan trọng về sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo kiểu làn sóng. Xu hưóng hội nhập quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên toàn thế giới. Các quốc gia đều có mối quan hệ về kinh tế, chính trị với nhau thông qua sự hợp tác đa phương, các tổ chức hợp tác như APEC, ASEAN, EU,…kinh tế đối ngoại phát triển kéo theo thương mại, đầu tư, hợp tác khoa học kỹ thuật- công nghệ phát triển theo. Xu hướng tự do hoá thương mại: thưong mại các nước cùng thâm nhập vào nhau, tước bỏ hàng rào thuế quan trong thương mai quốc tế. Tăng cường xuất khẩu, mở rộng nhập khẩu. Cạnh tranh quốc tế tăng lên ở môi trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu kinh tế phải thay đổi phù hợp để có hiệu quả. - Nhóm nhân tố chủ quan như quan điểm đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, cơ chế quản lý, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tóm lại, các nhân tố qui định cơ cấu kinh tế của một nước hợp thành một hệ thống phức tạp, tác động nhiều chiều và ở những mức độ khác nhau. Do đó cần có quan điểm hệ thống, toàn diện và cụ thể khi phân tích và dự báo chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 2.3. Xu thế cơ bản trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. Trong quá trình tăng trưởng kinh tế, docác bộ phận hợp thành có tốc độ tăng trưởng không giống nhau, tất yếu dẫn đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước sự biến đổi của cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của hai lực: thị trường và chính phủ. Thị trường là nơi diễn racác mối quan hệ tác động qua lại giữa người tiêu dùng và các doanh nghiệp để xác định sản lượng và giá cả và thông qua giá cả thị trường thực hiện chức năngphân phối nguồn lực vaò các lĩnh vực, bộ phận của nền kinh tế. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý nền kinh tế, can thiệp vào nền kinh tế thông qua pháp luật, kế hoạch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế nhằm đạt được mục tiêu đã xác định trước. Cơ cấu kinh tế được hình thành từ hai lực tác động đó tất yếu là một cơ cấu có tính hướng đích, hợp lý, hiệu quả, tính kế thừa và phát triển, tính hệ thống và tính mục tiêu. Cần nhấn mạnh rằng cơ cấu kinh tế hợp lý không chỉ biểu hiện về mặt số lượng mà quan trọng hơn là mối quan hệ chất lượng giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Tính hợp lý của một cơ cấu kinh tế chính là sự hài hoà, ăn khớp giữa các bộ phận cấu thành, cho phép sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của xã hội, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Quá trình hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ trạng thái phát triển thấp sang trạng thái phát triển cao hơn. Trong quá trình đó,cơ cấu kinh tế chịu sự chi phối của các xu hướng có tính qui luật, xu thế phổ biến sau đây: - Trong điều kiện khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại phát triển, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, cơ cấu kinh tế các nước có thể và cần phải chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. - Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP có xu hướng tăng lên, còn tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm xuống mặc dù số lượng tuyệt đối vẫn không ngừng tăng lên. - Trong nội bộ công nghiệp, tỷ trọng trong các ngành công nghiệp chế biến tăng lên, cơ cấu sản xuất thay đổi theo chiều hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa hàm lượngcao về vốn và khoa học công nghệ. - Trong nội bộ ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ nông thôn trong giá trị sản lượng tăng lên và tỷ trọng ngành nông nghiệp thuần tuý giảm xuống. Trong nội bộ nông nghiệp, tỷ trọng của giá trị sản lượng ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và tỷ trọng giá trị sản lượng ngành trồng trọt giảm xuống tương ứng. - Xét về cơ câu thành phần, theo đà phát triển của thị trường bộ phận kinh tế tư nhân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, do xu hướng tự do hoá kinh tế ngày càng mở rộng. Kinh tế nhà nước có thể giảm xuống về tỷ trọng song sẽ nắm phần lớn cơ sở hạ tầng và các ngành công nghiệp quan trọng có tính quyết định, then chốt trong nền kinh tế. - Theo khu vực lãnh thổ, sự phát triển kinh tế giữa các vùng sẽ đảm bảo tính chất hài hoà hơn, một mặt giảm bớt sự chênh lệch quá mức về trình độ phát triển, mặt khác sẽ xuất hiện các trung tâm công xưởng nhanh. Sự hình thành các khu công nghiệp tập trung như vậy là một tất yếu khách quan nhằm khai thác một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. II. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua 1. Tăng trưởng kinh tế và một số nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. 1.1. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát (chỉ số CPI) Sau 5 năm thực hiện đổi mới kinh tế nchủ yếu nhờ các biện pháp giải phóng sức sản xuất trong nước và mở cửa nền kinh tế, tận dụng nguồn lực bên ngoài, từ năm 1991 nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng với tốc độ khá cao, trung bình 7,67% hàng năm từ 1991-1999, mức kỷ lục là 9,54% năm 1995. Từ năm 1998, tăng tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm do nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là yếu kém về cơ cấu và thể chế cũng như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những năm đầu 1990, Việt Nam đã khá thành công trong việc kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,5% năm1991 xuống còn 0,1% năm 1999. Từ năm 1996, lạm phát dao động ở mức một con số góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế đã có chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng của khu vực nông lâm ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của khu vực công nghiệp xây dựng, dịch vụ. Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch cơ cấu GDP cìn chậm. Năm 2000, khu vực nông lâm ngư nghiệp trong GDP vẫn còn chiếm 24,3%, trong khi đóng góp của khu vực công nghiệp - xây dựng là 36,6% và của khu vực dịch vụ là 39,1% từ mức 23,5% và 36% tương ứng của năm 1991 Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế cũng có những chuyển dịch đáng lưu ý là: sau thời kỳ suy giảm từ năm 1986 đến 1991 tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước tăng nhanh từ 29,25% năm 1991 lên 39,2% năm 1993 sau đó giữ ổn định khoảng trên 40% từ 1994-1999, trong khi đó tỷ trọng vủa khu vực kinh tế quốc doanh trong nước trong GDP liên tục giảm từ 70,75% năm 1991 xuống còn 49,4% năm 1999. Tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn lớn và chưa khai thác cao cho tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân tập trung chủ yếu ở sản xuất nông lâm ngư nghiệp, sản xuất công nghiệp và cung cấp dịch vụ với qui mô nhỏ và rất nhỏ. Từ năm 1994, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có vai trò ngày càng tăng trong phát triển kinh tế Việt Nam. Mặc dù từ năm 1998, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giảm mạnh, tỷ trọng của khu vực này trong GDP vẫn tăng, chiếm 9,82% năm 1998 và 10,4% năm 1999. Việt Nam đã trải qua thập kỷ 90 với những thành tựu khá ấn tượng về phát triển kinh tế, đồng thời xuất hiện những vấn đề mới đe doạ tới sự phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế với tốc độ tương đối cao và giá cả ổn định là những tiên đề thuận lợi cho công cuộc đổi mới trong giai đoạn tới cũng như cho việc giải quyết các vấn đề xã hội nổi cộm như việc làm, thất nghiệp, nghèo đói,…sẽ được trình bày ở phần tiếp theo. 1.2. Đầu tư và tiết kiệm Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1990-2000 đạt khoảng 682.880 tỷ đồng, tăng liên tục từ 6.747 tỷ đồng năm 1990 lên 68.048 tỷ đồng năm 1995 và 120.600 tỷ năm 2000 (giá hiện hành). Tổng đầu tư xã hội so với GDP cũng tăng nhanh, từ 15,1% năm 1991 lên 28,3% năm 1997 – là mức cao nhất trong cả giai đoạn. Từ năm 1998, khi khủng hoảng tài chính châu á nổ ra, tỷ lệ này có xu hướng giảm chỉ còn 26,3% năm 1999, là một trong những nguyên nhân chính làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong hai năm 1998 và1999. Năm 2000 mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu tăng trở lạivới mức khoảng 6,7% so với mức 4,8% của năm 1999, nhưng tổng đầu tư xã hội ước tính đạt khoảng 27,2% so với GDP. Trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn của tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng lớn: năm 1990 vốn nhà nước chiếm 43,8%, vốn của tư nhânvà dân cư chiếm 41,5% và vốn FDI chiếm 14,7%. Năm 1995, tỷ lệ tương ứng là 38,3%, 29,4% và 32,3%. Từ năm 1998, tỷ trọng của vốn FDI có chiều hướng giảm mạnh, năm 2000 mặc dù có dấu hiệu tăng trở lại cũng chỉ đạt khoảng 18,6% của tổng đầu tư xã hội. Đầu tư của tư nhân trong nước không những còn ở mức thấp mà còn tăng chậm, kết hợp với xu hướng giảm của FDI đã ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng kinh tế, từ đó gây sức ép cho đầu tư tăng trưởngừ ngân sách Nhà nước. Tiết kiệm trong nước trên GDP tăng từ 2,9% năm 1990 lên 18,2% năm 1995, năm 1996 có giảm nhẹ và từ năm 1997 trở đi tăng liên tục, đạt 23,6% năm 1999, ước đạt 25% năm 2000. Trong cả thập kỷ 90, tỷ lệ tiết kiệm/GDP tăng liên tục, kích cầu đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này còn thể hiện rõ hơn qua tỷ lệ tổng đầu tư phát triển so với tổng vốn sử dụng dành cho tiêu dùng và tích luỹ tăng nhanh từ 12,9% năm 1990 lên 24,9% năm 1995 và ước khoảng 27,9% năm 2000. Tiết kiệm trong nước tăng đã làm giảm sức ép phụ thuộc vào vốn đầu tư từ bên ngoài, góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế bền vững hơn. 1.3. Cán cân thương mại và tài khoản vãng lai Trong giai đoạn 1991-2000, tổng bình quân kim ngạch xuất khẩu ước đạt 67,3 tỷ USD, bình quân hàng năm tăng 18,2%. Xuất khẩu bình quân đầu người năm 1999 mlà 166 USD, tăng 4,6 lần so với năm 1990. Hiện nay, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 150 quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp châu lục. Nhiều mặt hàng của Việt Nam đã chiếm được vị thế cao trên thị trường thế giới như: gạo, dầu thô, hàng thuỷ sản chế biến, cà phê,cao su, quần áo may sẵn, giầy dép…Đối tác chính trong quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam là châu á: chiếm khoảng 63% tổng kim ngạch xuất khẩu và 74% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trao đổi thương mại với các nứoc trong khối ASEAN chiếm 24,3% tổng kim ngạch xuất khẩu và 32,4% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu , tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản vẫn còn cao nhưng đã có xu hướng giảm dần, thời kỳ 1996-2000 đạt 38,5% so với 48% của thời kỳ 1991-1996. Đồng thời, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng tương ứng từ 21,7% lên 35,9%. Kim ngạch nhập khẩu trong thời kỳ 1991-2000 tăng liên tục, nhưng với tốc độ giảm dần, đặc biệt từ năm1996 đến nay, là kết quả của các biện pháp thắt chặt nhập khẩu như hạn chế bằng hạn ngạch giấy phép nhập khẩu, đặc biệt đối với hàng nhập tiêu dùng. Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm nhanh từ 16,4% xuống còn 8,1% vào thời kỳ 1996-2000, trong đó dự kiến năm 2000 giảm còn 4,7%. Kết quả của các biện pháp khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu đã cải thiện đáng kể cán cân thương mại. Theo đó, thâm hut thương mại giảm từ 3150 triệu USD năm 1996 xuống còn 113 triệu USD năm 1999. Trong suốt thời kỳ 1991-1998, tài khoản vãng lai của Việt Nam luôn bị thâm hụt, đạt mức cao nhất 2418 triệu USD vào năm 1996. Năm 1999, lần đầu tiên tài khoản vãng lai có mức thặng dư, ước đạt 146 triệu USD. Kết quả này có được chủ yếu là do giảm thâm hụt thương mại cùng với các biện pháp khuyến khích người Việt Nam ở nước ngời chuyển tiền về nước. Cải thiện về tài khoản vãng lai đã có tác động cải thiện cán cân thanh toán của nền kinh tế, qua đó góp phần tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô. 1.4. Thu – chi ngân sách nhà nước Thu ngân sách nhà nước so với GDP trong thời kỳ 1991-1999 trung bình đạt 20,2%, tăng từ 13,8% năm 1991 lên mức cao nhất là 23,3% năm 1995 như là kết quả của tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trong cả giai đoạn. Từ năm 1997, theo đà giảm sút tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách nhà nước so với GDP cũng giảm đáng kể, năm1999 ước đạt khoảng 18%. Chi ngân sách nhà nước so với GDP bình quân thời kỳ 1991-1999 đạt 23,9%, mức thấp nhất là 15,7% năm 1991 và cao nhất là 27,9% năm 1993 và 1994. Như vậy, trong 9 năm liên tục, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát ở mức thấp, trung bình cả thời kỳ là 3,7%, dao động từ 1,9% - 4,9%. Thu ngân sách nhà nước tăng bình quân hàng năm 7,3%. Trong cơ cấu thu ngân sách nhà nước, thu trong nước chiếm tỷ trọng lớn, tăng từ 76% năm 1990 lên 97,3% năm 1999. Trong giai đoạn 1991-1999, Nhà nướcđã thực hiện nhiều chính sách nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, đặc biệt là khuyến khích đầu tư tư nhân kể cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời ưu tiên ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu quan trọng, đặc biệt cho lĩnh vực xã hội. Theo đó, cơ cấu chi ngân sách nhà nước đã được điều chỉnh theo hướng tăng chi cho các lĩnh vực xã hội, năm 1992 chiếm 23,4% và năm 1998 tăng lên, đạt 26,3% tổng chi ngân sách nhà nước . Các lĩnh vực được ưu tiên ngân sách là giáo dục, đảm bảo xã hội. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục tăng từ 8,6% năm 1992 lên khoảng 15% tổng chi ngân sách nhà nước năm 2000. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua (từ 1986 đến nay) Có thể nói đây là một sự đổi mới khá cơ bản về đường lối công nghiệp hoá, có thể tạm gọi tên là giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, cụ thể là: - Nền kinh tế được mchuyển từ nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước. - Nền kinh tế từ cơ cấu tương đối khép kín sang nền kinh tế cơ cấu mở, hội nhập vào khu vực và thế giới. - Cơ cấu từ hai chủ thể sở hữu là Nhà nước và hợp tác xã, thành cơ cấu đa thành phần đan xen. Điều đáng chú ý là nước ta đang trong quá trình chuyển đổi, chưa có một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, chưa có đội ngũ cán bộ hiểu biết đầy đủ, chưa có một tiền lệ tiếp cận cơ cấu trong bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, nên sự lúng túng là khó có thể tránh khỏi. Qua một thời gian nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn để vươn lên, đến giai đoạn 1991-1995 đã thu được những thành tựu nổi bật, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong thời kỳ đạt 8,2%; giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,9%, công nghiệp tăng 13,7% và các ngành dịch vụ tăng 10,1%. Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VIII đã nhận định chúng ta thu được những thành tựu to lớn, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cho phép từ năm 1996 chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá. Từ tháng 7/1997 đến nay có sự tác động tiêu cực của của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, trong khoảng thời gian này có đặc điểm nổi bật là: - Những kết quả đổi mới theo kiểu cởi trói đã không còn là động lực mạnh mẽ như trước, chúng ta đứng trước một vấn đề phải tiếp tục đổi mới sâu, trong đó tập trung vào các lĩnh vực rất quan trọng như: cơ cấu sở hữu và doanh nghiệp nhà nước, hệ thống ngân hàng tài chính, liên kết hội nhập, cải cách hành chính…trên cơ sở phải tạo ra những động lực mới, phải tháo gỡ những bế tắc cơ bản để có được môi trường mới, mới khả dĩ có thể phát triển đi lên một cách mạnh mẽ được. - Châu á đang ở trong một cuộc khủng hoảng đầu tiên về tài chính và tiền tệ rất trầm trọng, Việt Nam phải đương đầu với một môi trường quốc tế kém thuận lợi, gặp những khó khăn lớn trong quá trình CNH, HĐH. Những mô hình phát triển của một số nước châu á trước đây được coi là thần kỳ, đang bị ảnh hưởng lớn của khủng hoảng, cần phải tỉnh táo xem xét lại. Nước ta không bị ảnh hưởng trực tiếp của khủng hoảng tài chính tiền tệ, song vì phần lớn ngoại thương và nguồn vốn đầu tư của nước ta là từ nền kinh tế khu vực, sự chững lại của các nền kinh tế này sẽ có ảnh hưởng xấu ít ra là trong giai đoạn một vài năm trước mắt về các nguồn đầu tư FDI và sự tăng trưởng xuất khẩu(khoảng 60% xuất khẩu của Việt Nam tới các nước châu á). Nền kinh tế đứng trước khó khăn lớn: tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, những cân đối lớn của kinh tế vĩ mô như ngân sách, cân đối ngoại tệ, đầu tư phát triển đứng trước thâm hụt lớn; tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ ảnh hưởng rất lớn đến thị trường nước ngoài và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nói chung là suy giảm mạnh. Những suy giảmlớn này sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu và bước đi CNH, HĐH mà chúng ta đã đề ra. Đứng trước những khó khăn này, chúng ta đã tiến hành điều chỉnh cơ cấu, tập trung vào những công việc chủ yếu sau đây: - Thực hiện điều chỉnh một bước cơ cấu đầu tư, theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, rút bớt các công trình kết cấu hạ tầng có vốn lớn, kéo dài chưa thật sự phát huy hiệu quả. - Cấm vay, đặc biệt cấm vay ngắn hạn để đầu tư vào kết cấu hạ tầng. - Nghị quyết TW 6 (lần 1) kịp thời có quyết sách phát triển nền kinh tế theo hướng phát huy nội lực, đầu tư mạnh vào công nghiệp và nông thôn, đảm bảo an ninh lương thực, phát triển công nghiệp, chăn nuôi và chế biến… 2.1. Điểm qua một số kết quả đạt được trong chuyển dịch cơ cấu Công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế vừa qua đã tạo cho nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng từ 4% năm1987 lên 9% năm 1996, đạt bình quân 7,3% mỗi năm trong thập kỷ vừa qua. Cuối năm 1997 nền kinh tế gặp khó khăn, song ước vẫn có thể tăng từ 8-9%. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP thời kỳ 1996-2000, tăng trưởng đạt 6,7%. Trong 10 năm 1991-2000, tt GDP đạt 7,5%/năm, tất cả các ngành chủ chốt đều tt, trong đó công nghiệp tăng nhanh nhất 12,9%, tiếp đến là dịch vụ 8,2%, nông nghiệp khoảng 5,4%. Với mức tăng trưởng trên, so với các nước thời gian qua và hiện nay là thành tựu đáng kể. 1- Cơ cấu kinh tế đã có một bước chuyển dịch theo hướng CNH: nông nghiệp tăng khá về giá trị tuyệt đối, song tỷ trọng giảm từ 38,7% năm1990 xuống còn khoảng 25% vào năm 2000, tương ứng công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên khoảng 34,5% và dịch vụ từ 38,6% lên 40,5% trong GDP. 2- Trong cơ cấu kinh tế hình thành một số sản phẩm mới, một số sản phẩm có khối lượng lớn như khai thác dầu khí, lắp ráp ô tô bứt đầu hình thành từ năm 1991, đên nay có 14 doanh nghiệp, tổng công suất lắp ráp hiện có 132.860 xe/năm;xe máy có 5 doanh nghiệp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 40 cơ sở trong nước, tổng công suất 1.800.000 xe/ năm; công nghiệp điện tử tổng công suất sản xuất đèn hình 1.600.000 cái, lắp ráp tivi 2.000.000 cái, sản xuất mạch in 78 triệu chiếc. Đến nay đã có 62 doanh nghiệp sản xuất xi măng, 14 doanh nghiệp sản xuất thép xây dưng…Nhiều sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp tăng nhanh, khối lượng tương đối lớn như săm lốp ô tô tăng gần 55%/năm, thép tăng 30%/năm,dầu thô tăng 19,8%/năm,….. 3- Trong nội bộ các ngành, cơ cấu sản xuất có sự chuyển dịch theo hướng CNH + Về nông lâm ngư nghiệp: Trong khối ngành nông, lâm, ngư, thuỷ sản, tỷ trọng nông nghiệp giảm, giá trị ngành thuỷ sản và lâm nghiệp tăng. Trong trồng trọt, cây công nghiệp tăng lên, cây lương thực giảm, đã vượt qua tình trạng thiếu lươn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35365.doc
Tài liệu liên quan