Đề án Cơ sở tồn tại của kinh tế thị trường và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Nội dung 2

I. Cơ sở lý luận 2

1.Ưu nhược đIểm của kinh tế thị trường 2

2. Có thể thực hiện được kinh tế thị trường ở nước ta không? 3

a)Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. 3

b) Kinh tế thị trường là thể chế kinh tế vận hành, nó không phải là cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội. 3

c) Kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có thể dung hoà. 4

3. Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 4

4.Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. 10

II. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là gì? 12

1. Đặc điểm kinh tế thị trường ở nước ta 12

2. Định hướng phát triển kinh tế thị trường ở nước ta 16

a. Định hướng phát triển công nghiệp 16

b. Định hướng phát triển các ngành dịch vụ. 17

c. Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại. 17

d. Định hướng phát triến giáo dục và đào tạo. 18

e. Định hướng phát triển văn hoá. 18

f. Bảo vệ và cải thiện môi trường. 18

Kết luận 19

Tài liệu tham khảo 20

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cơ sở tồn tại của kinh tế thị trường và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa cũng có thể thực hiện thể chế kinh tế thị trường. Nếu sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân) được phân giải thành các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng kinh doanh trao cho doanh nghiệp, thì khi đó sẽ tạo nên những chủ thể kinh tế độc lập có lợi ích riêng, do đó sẽ hình thành được kinh tế thị trường. Sự phân giải các quyền sở hữu toàn dân được thực hiện thông qua việc phát huy tiềm năngcủa các thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 3. Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tăng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa người lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiên vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hoá, bắt nguồn từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra dời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan giã, dựa trên hai tiền đè cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng dần được đổi thay: Từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội không phổ biến, không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trọng xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai giã man). Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển kinh tế thi trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phá triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba,là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc của giai đoạn này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ ... để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường trong một nền hinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá (sản xuất hàng hoá nhỏ) tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của V.I.Lê-Nin) và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, KTTT không phải là một chế độ kinh tế-xã hội. KTTT là một hình thức và phương pháp vận hành kinh tế các qui luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo qui luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất-kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, nâng cao năng xuất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng qui mô của sản xuất-kinh donh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học-công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất-kinh doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình phát triển của văn minh nhân loại, của khoa học-kỹ thuật, của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; Giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ, kỹ thuật vi điện tử-tin học ... Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số.Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối với toàn đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là sự phát triển kinh tế thị trường, cùng với nó là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự cần thiết tất yếu phải chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trước sự suy thoái nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đưa nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI của đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VII đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực trạng diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại. Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng ,tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài. Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng .Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Xét về tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường . Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị đã hình thành và phát triển đạt những mức phát triển khác nhau, ở hầu hết các đô thị và vùng hẻo lánh đang được mở rộng với thị trường quốc tế.Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động ,thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới ,sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với thị trường thế giới.Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong và giá cả hàng hoá quốc tế. Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của một nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữi các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông ,vũ khí nhiều ,quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp , tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu , vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền. Tuy vậy,nền kinh tế thị trường hướng tới của nước ta sẽ không phải là nền kinh tế thị trường thuần tuý. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự do cạnh tranh là không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình” , vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Đói với nước ta vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan trọng. Sự phát triển kinh tế –xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xãhội , nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm những thay đổi về chất(những biến đổi về mặt xã hội). “Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn ”. Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của lịch sử nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không đói lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ-xã hội của sự phát triển. Nó là cach thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn tể xã hội ,là sự thiết lập một trật tự xã hôi với mục tiêu công bằng văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại sự giàu có và sự thống trị của tư bản, của một số ít người trong xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất tư bản chủ nghĩa là sự phát triển cổ điển.Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh , hạnh phúc cho đại đa số nhân dân lao động cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là chủ tịch HCM nhằm giải phóng nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội, của toàn xã hội ,của toàn dân tộc,là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa, sự phát triển hiện đại. Nghiã là, chúng ta phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Điều đó không chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế nhằm đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh,mà còn bao hàm vấn đề quan trọng mang tính hiện đại, là thiết lập một kiểu tổ chức xã hội, một trật tự xã hội với nộng dung công bằng và văn minh. Nhà nước XHCN, “của dân, do dân và vì dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện sự định hướng đó. 4.Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Với vai trò tích cực của nhà nước vào điều tiết nền kinh tế nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển cao và ổn định. Từ đó ta có thể thấy vai trò của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế là rất quan trọng. Như ta đã biết vai trò quản lí của nhà nước là rất quan trọng Vai trò đó thể hiện rất rõ qua các chức năng sau : Thứ nhất, đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Thực tế chức năng này đã vượt ra ngoài chức năng kinh tế đơn thuần. Nhà nước đã tạo ra hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế phát triển trong cơ chế hoạt động của thị trường.Đồng thời với hành lang pháp lý như vậy thì các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế sẽ hoạt động trong sự quản lý, bảo trợ của nhà nước. Hai là, Điều tiết nền kinh tế để đảm bảo cho nền KTTT phát triển ổn định. Trong quá trình vận động của nền kinh tế thị trường thì nền KTTT không tránh khỏi những khủng hoảng, thất bại. Mỗi nền kinh tế đều có chu kỳ hoạt động, phát triển tức là có sự tăng, giảm GDP.Với vai trò ổn định kinh tế của mình nhà nước làm dịu đi những giao động nên xuống của các chu kỳ kinh doanh. Việc điều tiết này thông qua các chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ. Do đó với vai trò quản lý của mình nhà nước đã làm giảm đi tình trạng thất nghiệp và lạm phát. Tuy nhiên nhà nước cũng không thể điều tiết một cách hoàn hảo cho nên trong nền kinh tế vẫn có những thất bại của thị trường nhưng nó đã ở mức độ thấp hơn. Ba là, Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Trong quá trình vận động của KTTT thì nền kinh tế phải chịu những tác động mà các nhà kinh tế gọi là các tác động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi nhuận của mình nên đã khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên gây ô nhiễm môi trường sống của con người và xã hội. Dựa trên sự quản lý của chính phủ buộc những doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường phải trả tiền cho những thiệt hại đó. Chính sự can thiệp của chính phủ đã ngăn chặn những tác động bên ngoài nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Một nguyên nhân khác cũng làm giảm hiệu quả trong hoạt động của thị trường. Đó là việc xuất hiện các công ty độc quyền. Do xuất hiện các công ty độc quyền trên thị trường, các công ty độc quyền họ ép giá trên thị trường gây ra tình trạng các công ty khác không cạnh tranh được. Do đó làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường do đó dẫn tới tình trạnh kinh tế không phát triển được. Bốn là, nhà nước phải can thiệp vào phân phối nhằm phân phối công bằng trong xã hội, bảo vệ những thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động kinh tế. Việc phân phối công bằng sẽ làm cho cuộc sống của người nghèo trong xã hội được nâng cao. Một vai trò khác của nhà nước thể hiện ở chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế. Với sự quản lý của nhà nước thì các nước có một nền kinh tế tăng trưởng ổn định nhờ các chính sách của nhà nước. Nhà nước đã định hướng cho nền kinh tế, các thành phần kinh tế hướng đi. Nhà nước trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực kinh tế nhằm dẫn dắt nền kinh tế của cả nước phát triển theo. Với một môi trường vĩ mô ổn định, các thành phần kinh tế phát triển thì tình trạng thất nghiệp và lạm phát cũng giảm. Nhà nước ta phải xây dựng được một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt để đảm bảo cho yêu cầu phát triển kinh tế. Nhà nước phải có sự quản lý chặt chẽ đối với các thành phần kinh tế nhưng không được can thiệp quá sâu vào đó. Với các chức năng như vậy, nước ta đã có một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ từ sau đại hội Đảng 6. Từ nước có một nền kinh tế lạc hậu, ngày nay nước ta đã có môt nền kinh tế tương đối phát triển và là một nước có môi trường đầu tư ổn định. ii. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là gì? 1. Đặc điểm kinh tế thị trường ở nước ta Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội –xã hội chủ nghĩa ). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hạu và kém phất tiển nhưng khi nước ta chuyển sang kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và là yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cho nên, sự phát triển kinh tế –xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cùng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng và nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Nhân có giàu thì nước mới mạnh, bảo đmr độc lập, tự chủ và toàn vện lãnh thổ của quốc gia. Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của kinh tế – xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hóa, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có thamgia bởi bàn tay “hữu hình” của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò ở một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là “đài chỉ huy”, là “mạch máu” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất,không tách rời, biệt lập. Thứ ba, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là nhà nước của dân, do dân và vì dân.Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới.Nhà nước ta là nhà nước “của dân,do dân và vì dân”,nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nước là môt nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường hiện có trên thế giới. Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiền thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia, quản lý của nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các qui luật kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh – hợp tác... )sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Qui luật giá trị qui định mục đích trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), qui định sự phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượg kinh tế của mình (kinh tế nhà nước), nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung – tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là: thị trường điều tiết nền kinh tế, nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ nhà nước – thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất. Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nề kinh tế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nề sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa hội nhấp với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên 3 nội dung chính là: thương mại; đầu tư; và chuyển giao khoa học – công nghệ. Tuy nhiên, sự mở cửa, hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Thứ sáu, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ phổ biến và là xu thế của thời đại hiện nay. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, lừ tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng với những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, là giảm khoảng cách chênh lệch giàu – nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hịên sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai doạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về chất với chủ nghĩa bình quân, cào bằng thu nhập và “chia đều sự nghèo đói” cho mọi người. Mức độ bảo đảm công bằng cho xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy, nếu qúa nhấn mạnh tới công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn co hẹp, thì chác chắn sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thứ bảy, giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), thông qua phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được thực hiệ n theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong mối quan hệ giữa lao dộng và tư bản (vốn), giữa lao động sống và lao động quá khứ (lao động đã được vật hoá), chủ nghĩa tư bản coi trọng nhân tố tư bản, nhân tố lao động quá khứ được tích luỹ. Bởi vậy, trong phân phối thu nhập, phân phối thành quả lao động, chủ nghĩa tư bản nhấn mạnh đến nhân tố tư bản (vốn) hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đén yếu tố tích luỹ - đầu tư hơn là yếu tố tiền lương – thu nhập của người lao động. Ngược lại chủ nghĩa xã hội đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Cho nên, trong phân phối thu nhập và thành qủa lao động của xã hội, chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tiền lương của ngời lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố lao động, đến nâng cao thu nhập và tiêu dùng của người lao động, chúng ta không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố vốn, đến vai trò tăng cường tích luỹ và đầu tư (cả nước và tư nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa tư bản (vốn) và lao động. Vì vậy, thu nhập theo vốn và tài sản kinh doang giờ đây đã trở thành điều bình thườn. Chỉ có trên cơ sở đó mới gia tăng số người giàu có trong xã hội. Tăng số người có thu nhập cao đồng thời

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35770.doc
Tài liệu liên quan