Đề án Cơn bão tài chính tiền tệ Châu Á

MỤC LỤC

Lời Nói Đầu 1

Phần 1:Diễn Biến Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Tiền Tệ Châu Á 2

Phần 2:Nguyên Nhân Của Cuộc Khủng Hoảng Và Những Giải Pháp Nhằm Ngăn Ngừa Ảnh Hưởng Của Cuộc Khủng Hoảng 8 Đến Nền Kinh Tế Nước Ta

 I/ NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG 8

 1/Nhóm nguyên nhân tức thời đột biến bao gồm tình trạng vỡ nợ,thâm hụt tài sản quá mức,đầu cơ tiền tệ mạnh và sự mất cân đối lớn giữa cung cầu nội tệ và ngoại tệ 8

 2/ Nguyên nhân bao trùm trong những nguyên nhân tồn đọng lâu ngày là nền kinh tế tăng trởng nhanh 9

 3/ Nhóm nguyên nhân bao gồm sự bất cập không đáp ứng đợc nhu cầu, đòi hỏi đổi mới tại những thời điểm bớc ngoặt, chuyển giai đoạn sang những thời kỳ phát triển cao hơn. 13

II. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NGĂN NGỪA ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐẾN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA: 14

1/ Vì sao nước ta không bị khủng hoảng? 14

2/ Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đến nền kinh tế Việt nam 15 3/Kiến nghị các biện pháp ngăn ngừa ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đến nền kinh tế nước ta 16

4/ Một số chính sách mới ban hành của Việt nam trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ nhằm chống lại sự ảnh hởng của cuộc khủng hoảng 18

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NGÀNH VẬT GIÁ GÓP PHẦN NGĂN NGỪA ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG Ở NƯỚC TA. 19

Kết Luận 21

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cơn bão tài chính tiền tệ Châu Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hoảng tài chính tiền tệ Châu á cũng là nguyên nhân của các cuộc biểu tình ở Thái Lan, Indonexia, Hàn Quốc và cũng là nguyên nhân làm thay đổi nội các ở các nước Thái Lan và Hàn Quốc. Dưới đây là một số số liệu minh hoạ về khủng hoảng tiền tệ ở Châu á: Biểu 1: Tỷ giá hối đoái các đồng tiền trong khu vực so với đồng Đô la Mỹ: Đồng tiền – Tên nước Tỷ giá ngày 15/12/97 Tỷ lệ giảm giá so với 01/7/97 Rubiah – Indonexia 5,100 - 52,50 % Bath – Thailan 45,120 - 42,00 % Won – Hàn Quốc 17,500 - 48,00 % Ringit – Malaixia 3,797 - 33,50 % Peso – Philippine 37,550 - 30,00 % Dollar – Đài Loan 32,321 - 14,00 % Dollar – Singapore 1,652 - 13,50 % Dollar – Hồng Kông 7,750 -0.05 % (Nguồn số liệu được khai thác từ tin của hãng Dow Jones) Biểu 2: Diễn biến các đồng tiền Châu á năm 1997 6/97 7/97 8/97 9/97 10/97 11/97 12/97 SGD/USD 1,44 1,45 1,49 1,46 1,53 1,58 1,65 Bath/USD 25,89 30,23 32,44 36,04 37,06 39,26 44,46 Rubiah/USD 2.470 2.550 2.760 3.020 3.560 3.460 4.840 Ringgit/USD 2,15 2,57 2,73 3,00 3,22 3,39 3,78 Peso/USD 26,37 27,54 29,96 32,75 34,78 34,46 37,92 HKD/USD 7,74 7,75 7,74 7,74 7,74 7,73 7,75 Won/USD 888,30 890,70 894,90 911,80 918,80 1.031 1.540 TWD/USD 27,85 27,45 28,70 28,61 29,34 31,55 32,40 (Số liệu trên được khai thác hàng ngày từ tin của hãngDow Jones và tính bình quân tháng theo phương pháp bình quân số học) Biểu 3: Diễn biến các đồng tiền Châu á năm 1998 1/98 2/98 3/98 4/98 5/98 6/98 SGD/USD 1,760 1,652 1,619 1,603 1,637 1,645 Bath/USD 52,710 45,940 40,550 38,450 38,560 42,760 Peso/USD 42,910 40,176 39,037 38,300 39,220 40,330 Rubiah/USD 8.875 9.005 9.605 7.750 10.258 13.678 TWD/USD 34,610 32,750 32,350 32,990 33,490 34,570 Won/USD 1.685 1.650 1.466 1.386 1.394 1.397 HKD/USD 7,740 7,740 7,740 7,750 7,750 7,750 Diễn biến các đồng tiền Châu á (Tiếp) 7/98 8/98 9/98 10/98 11/98 12/98 SGD/USD 1,71 1,74 1,73 1,64 1,63 1,65 Bath/USD 41,43 41,820 40,85 38.37 36.71 36.35 Peso/USD 41,78 43,05 34,70 42,88 39,39 38,86 Rubiah/USD 14.520 12.760 11.500 8.850 8.010 7.850 TWD/USD 34.35 34.68 34.57 33.04 32.55 32.38 Won/USD 1.243 1.325 1.373 1.344 1.287 1.212 HKD/USD 7,75 7,74 7,75 7,75 7,74 7,75 Những biện pháp khắc phục khủng hoảng hữu hiệu của mỗi chính phủ. Sự trợ giúp của IMF đối với một số nước khủng hoảng cùng những điều kiện ràng buộc nhất định về kinh tế, xã hội; cùng với việc bán ra 500 – 600 triệu USD một ngày 2/2/1998 của các Nhà đầu cơ đã làm cho các đồng tiền khủng hoảng lên giá trở lại. Tốc độ lên giá nhanh hơn tốc độ trượt giá như bảng sau đây cho thấy: Đồng tiền Mất giá tháng 7 (so với USD) % -giá Lên giá % +giá Thời gian Bath Thailan Peso Philippine Ringgit Malaixia Dollar Singapore Rubiah Indonexia 25,5 xuống 55,5 26,5 xuống 44 2,55 xuống 4,69 1,42 xuống 1,785 2450 xuống 14000 118 66 84 26 470 55,5 lên 46,3 44 lên 35,9 4,7 lên 3,6 1,8 lên 1,62 14000 lên 7625 20 22 6 35 10 10 ngày 15 ngày 19 ngày 18 ngày 25 ngày (Nguồn: IMF, International Financial Statistics) Các đồng tiền hiện đang lên giá, cuộc khủng hoảng đã có dấu hiệu đáng mừng. Song thực tế “cơn bão” vẫn chưa thực sự chấm dứt. Phần ii Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng và những giải pháp nhằm ngăn ngừa ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế nước ta I/ nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Qua tìm hiểu tôi thấy rằng có ba nhóm nguyên nhân chủ yếu dẫn tới khủng hoảng: Nhóm nguyên nhân tức thời, đột biến, tác động trực tiếp gây ra khủng hoảng Nhóm nguyên nhân diễn ra từ từ do có sự tồn đọng lâu dài của những vấn đề nan giải hay có thể gọi là nguyên nhân ủ bệnh lâu dài, không được giải quyết kịp thời gây ra khủng hoảng Nhóm nguyên nhân là sự bất cập không đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi đổi mới tại những thời điểm bước ngoặt, chuyển giai đoạn sang những thời kỳ phát triển cao hơn 1/ Nhóm nguyên nhân tức thời đột biến bao gồm tình trạng vỡ nợ, thâm hụt tài chính qua mức, đầu cơ tiền tệ mạnh và sự mất cân đối lớn giữa cung cầu nội tệ và ngoại tệ. Mỗi nguyên nhân đều là tác nhân mạnh nhưng nguy hiểm hơn cả là sự cộng hưởng cùng một lúc của chúng làm ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng làm cho các nước Đông và Đông Nam á bắt đầu từ sự kiện Thái Lan không kiểm soát được đồng tiền của mình. Nợ chồng chất quá cao đến mức không trả nổi và thâm hụt tài khoản vãng lai quá mức cho phép là ngòi nổ cho cuộc khủng hoảng ở nhiều nước. Theo tính toán của IMF thì nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai của một nước lớn hơn 5%/GDP tức là nền kinh tế nước đó đang đứng trước nguy cơ phá sản. Qua thống kê trong bảng dưới đây ta thấy ngòi nổ khủng hoảng ở Thái Lan là do thâm hụ cán cân thanh toán vãng lai, nợ nước ngoài cao; tại Hàn Quốc là do nợ nước ngoài quá lớn so với tiềm năng kinh tế. Thailan Malaixia Indonexia Philippine Hàn Quốc Thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai (%/GDP, 1996) 8 6,5 3,8 4,3 5 Nợ Ngân hàng nước ngoài (%GDP, 6/1997) 47 30 36 17 25 Nợ ngắn hạn (% của dự trữ ngoại tệ) 170 75 180 85 340 Tổng dư nợ ngân hàng (%GDP, cuối 1996) 110 100 57 54 155 Trong bối cảnh khi nợ đã chồng chất quá cao đến mức không trả nổi và thâm hụt tài khoản vãng lai vượt mức giới hạn cho phép, biện pháp mua tiền của nhà tỷ phú Mỹ Geoger Soros đã phá vỡ sự ổn định mỏng manh cuối cùng của đồng tiền nội địa với chế độ ổn định tỷ giá kéo dài hơn một thập kỷ từ đầu năm 1980. Và không chỉ có nhà tỷ phú Geoger Soros đầu cơ, theo thống kê ở Mỹ có khoảng 2300 quỹ tín dụng với tổng giá trị tài sản xấp xỉ 100 tỷ tham gia đầu cơ, ngoài G.Soros còn các nhà đầu cơ khác như Tiger, Orbics, Mumar Panthenr và Jaguat... Trong tháng 5 và tháng 6 lượng tiền đầu cơ ước khoảng 10 - 15 tỷ USD. Những diễn biến trên xảy ra vào thời điểm mà cung và cầu về các đồng tiền ngoại tệ mạnh nhất là Đô la Mỹ và các đồng tiền địa phương rơi vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng: Cầu về ngoại tệ tăng lên rất cao để thanh toán các khoản nợ đến hạn, nhưng số cung rất thấp do thiếu hụt lớn trong tài khoản vãng lai và do cạn nguồn dự trữ ngoại hối, trong khi cầu về các đồng tiền địa phương thấp, nhưng số cung thì cao, bởi qua nhiều năm liên tục tăng in tiền mặt cung cấp ra thị trường. 2/ Nguyên nhân bao trùm trong những nguyên nhân tồn đọng lâu ngày là nền kinh tế tăng trưởng nhanh đồng thời cũng ủ bệnh hiểm nghèo không lường trước được. Nhiều ý kiến cho rằng đây là những nền kinh tế “bong bóng” lớn nhanh nhưng có nhiều điểm xung yếu, dễ nổ dễ vỡ, và thực tế đã vỡ tại khâu yếu nhất là hệ thống tài chính tiền tệ do chậm điều chỉnh sửa đổi kịp thời. Những căn bệnh đó là duy trì chế độ tỷ giá gần như cố định qúa lâu, tình trạng nợ đọng, để kéo dài và ngày càng tăng tình trạng thiếu hụt tài khoản vãng lai, đầu tư quá mức trong một số lĩnh vực như bất động sản và một số ngành xuất khẩu đang mất dần sức cạnh tranh và mất dần thị trường như ngành dệt, điện tử... Nền kinh tế tăng trưởng “quá nóng”, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) quá cao, nền kinh tế xã hội và tài nguyên môi trường được huy động tối đa trong một thời kỳ dài nên đã mệt mỏi và kiệt sức. Thái Lan: bình quân 81-90 tăng trưởng 7,9%, 90-95 tăng trưởng 8.5%, 1995 tăng trưởng 8,7%, 1996 tăng trưởng 6,7%. Singapore: từ 1990 -1996 tăng trưởng 8,5% mỗi năm, gấp 3 lần tốc độ của nước Mỹ thành tích này được xem như là một phép lạ. Phép là này là do sự vắt kiệt chứ không phải sự sáng tạo. Malaixia: Tăng tốc độ phát triển trung bình từ 6% thập kỷ 80 lên 8% thập kỷ 90... Tốc độ tăng đã bị chậm lại do khủng hoảng và năm 1998 khó có thể phục hồi theo dự đoán ban đầu của các học giả thuộc phái lạc quan. Cụ thể: (Đơn vị: %) Tên nước 1996 1997 Dự đoán 1998 Singapore Malaixia Indonexia Hàn Quốc Philippine Thailan Nhật bản 7,0 8,4 7,8 7,1 4,8 6,7 3,6 7,0 7,0 6,6 5,7 4,5 0,3 0,8 5,0 3,5 3,0 3,0 2,9 -2,0 0,7 (Nguồn: Salomom Smith Barne Forecasts) Việc duy trì giá cố định quá lâu đã làm cho chế độ ổn định đồng Bath từ chỗ có lợi đến chỗ bất lợi cho nền kinh tế Thái lan. Điều này đã thể hiện rõ trong quá trình thực hiện tỷ giá của Thái lan từ thập kỷ 80 đến nay. Để kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu Thái lan đã ổn định tỷ giá. Một chính sách bao giờ cũng có cái lợi và cái hại trước mắt cũng như lâu dài. Tỷ giá cố định của đồng Bath so với đô la Mỹ đã có lợi cho Thái lan khi đồng Bath cũng mất giá cùng chiều với đồng đô la Mỹ tính đến năm 1995, bắt đầu không có lợi cho Thái lan từ khi hai đồng tiền mất giá và lên giá nghịch chiều từ năm 1995 đến nay. Như ở trên đã trình bày nợ đọng và thâm hụt lớn tài khoản vãng lai không những là nguyên nhân tức thời mà còn là nguyên nhân sâu xa gây ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, trong đó Thái lan là một ví dụ điển hình. Nợ của Thái lan tăng lên sau các năm như sau: 40,6% GDP năm 1993, 43,3% GDP năm 1994, 49,5% GDP năm 1995, 52,4% GDP năm 1996. Nợ nước ngoài “khó đòi” vượt quá mức cho phép 33 tỷ USD. Tổng số cho vay của 15 ngân hàng và 91 công ty tài chính chiếm 35% GDP. Phần nợ nước ngoài của Thái lan là nợ ngắn hạn và nợ thương mại. Cuối năm 1996 Thái lan nợ 70,2 tỷ USD, trong đó 65% là nợ đến hạn phải trả trong vòng 1 năm. Đến tháng 7 năm 1997 khi công bố thả nổi đồng Bath Thái lan đã nợ hơn 85 tỷ USD trong khi dự trữ ngoại tệ thấp chỉ có 33,3 tỷ USD. Và đến thời điểm 11/1997 nợ tăng lên 89 tỷ USD và dự trữ ngoại tệ giảm xuống còn 30 tỷ USD. Philippine ở thời điểm đó nợ 41 tỷ USD. Năm 1996 Indonexia nợ 109,3 tỷ USD, chiếm 48,4% GDP. Malaixia nợ 36,4 tỷ USD chiếm 38,5% GDP. Đối với Hàn quốc gánh nặng nợ nước ngoài lên đến 200 tỷ USD, trong đó 85 tỷ USD là nợ ngắn hạn và 20% là các khoản nợ đến hạn trong vòng một tháng. Cùng với nợ, thiếu hụt tài khoản vãng lai cũng là yếu tố gây khủng hoảng. Mất cân đối trong đầu tư và tiêu dùng quá mức cũng là nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính tiền tệ. Cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế không cân đối, một số ngành đầu tư vốn lớn nhưng không hiệu quả. Phần lớn các nước Đông Nam á đều gặp khó khăn về cơ sở hạ tầng, một yếu tố ảnh hưởng khá quan trọng đến tăng trưởng kinh tế, chính phủ đầu tư nhiều tiền cho các công trình công cộng với thời gian xây dựng lâu dài; Do công tác quy hoạch, dự báo không tốt nên với mục đích chạy theo lợi nhuận trước mắt, đã dẫn đến tình cạnh tranh hỗn độn, đổ xô đầu tư vào kinh doanh bất động sản, địa ốc, khách sạn, nhà hàng, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí...và không điều chỉnh kịp khi mất thị trường, hoặc giảm khả năng cạnh tranh. Do đó đã dẫn đến cung vượt cầu và nhiều nhà kinh doanh gặp khó khăn, thua lỗ cùng với các ngân hàng cho vay đầu tư lâm vào tình trạng nợ đọng, khó đòi. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhiều nước với đồng thời quá nhiều tham vọng, vốn đầu tư có hạn nhưng lại chia ra quá nhiều dự án, vì thế nhiều dự án kéo dài, dở dang, chậm phát huy hiệu quả. Điển hình là ở Thái Lan nhiều ngân hàng đã bỏ ra 30% vốn tín dụng cho vay vào ngành nhà đất, khiến ngành này phát triển một cách mù quáng, nhiều cao ốc mọc lên dẫn đến cung vượt cầu. Kết quả là phần lớn các ngân hàng và công ty tài chính đều gặp khó khăn. Do lo lắng về việc các ngân hàng này bị phá sản sẽ mất ổn định kinh tế, chính trị nên chính phủ Thái lan đã chấp nhận việc bỏ tiền ra để cứu các ngân hàng và công ty tài chính. Năm 1996 chính phủ Thái lan đã bỏ ra 6 tỷ USD để cứu ngân hàng thương mại Băngkok, 16 công ty tài chính bị khê đọng vốn vào tháng 6 năm 1997 chính phủ đã phải chi 6,7 tỷ USD để xoa dịu sự phẫn nộ của người gửi tiền. Các nước Philippine, Malaixia, Indonexia cũng cùng chung tình trạng là cung vượt quá cầu về nhà đất, và họ cũng trong tình trạng nợ đọng, khó đòi như ở Thái lan. Ngoài ra, các nước đang phát triển cũng đều hướng vào chến lược đầu tư sản xuất hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu và hướng vào xuất khẩu nên chủ yếu đầu tư và các ngành sử dụng nhiều lao động nhờ lợi thế sức lao động giá rẻ như ngành dệt, may, lắp ráp điện tử... Những ngành này thời gian qua đã gặp khó khăn lớn do phải cạnh tranh với hàng Trung Quốc và một số nước đang phát triển khác. Trong khi đầu tư vẫn tiếp tục tăng trong khi thị trường có xu hướng giảm. Sự tăng lên về khả năng cung ứng hàng hoá đòi hỏi phải tăng lên về cung ứng tiền tệ, trong khi cầu đối với cả hai loại sản phẩm này đều đã gây ra tình trạng mất cân đối cung cầu, yếu tố nhạy cảm của thị trường tài chính. Nhịp độ gia tăng xuất khẩu của các nước ASEAN đã giảm từ 20% năm 1995 xuống 10% năm 1996. Xuất khẩu bị giảm là do: Đồng yên Nhật giảm 35% giá so với USD kể từ tháng 4/95 đã làm tăng sức cạnh tranh của hàng Nhật, trong khi các nước ASEAN ổn định tỷ giá nên đã hạn chế sức cạnh tranh của hàng hoá. Đồng thời còn có chính sách khuyến khích xuất khẩu của Trung Quốc dẫn đến sức cạnh tranh của hàng hoá các nước ASEAN giảm, đặc biệt là các ngành sử dụng nhiều lao động như may mặc, dệt, da giầy... Nhu cầu của thị trường thế giới về sản phẩm điện tử - ngành mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của các nước này không tăng như dự kiến. Hàng điện tử chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP và kim ngạch xuất khẩu năm 1996 các nước ASEAN:(Nguồn Thời Báo Kinh Tế VN) Tên nước %/GDP %/Kim ngạch xuất khẩu Singapore Philippine Malaixia Thailan 14,6 1,0 6,1 3,6 66,5 32,9 30,5 18,8 Việc buôn bán nội bộ các nước ASEAN lớn (chiếm tỷ trọng 35%) trong kim ngạch xuất nhập khẩu nên một nước bị khủng hoảng đã nhanh chóng gây ảnh hưởng tới các nước khác. Về việc tiêu dùng do cố định tỷ giá và chính sách thuế chưa phù hợp nên giá cả của một số sản phẩm tiêu dùng nhập khẩu tương đối dẻ, trong lúc thu nhập của người dân tăng cao do nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất là sản phẩm xăng dầu, và sản phẩm đầu vào cho nông nghiệp. Giờ đây khi khủng hoảng nổ ra Chính phủ trả đồng tiền về giá trị thực của nó nên giá cả tăng lên cùng lúc với thu nhập giảm xuống chính là nguyên nhân của các cuộc biểu tình của dân chúng tại Thái Lan, Hàn Quốc, Indonexia... 3/ Nhóm nguyên nhân bao gồm sự bất cập không đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi đổi mới tại những thời điểm bước ngoặt, chuyển giai đoạn sang những thời kỳ phát triển cao hơn. Mỗi quốc gia trong quá trình phát triển của mình luôn đòi hỏi ngày càng đổi mới đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá như chuyển thành nền kinh tế công nghiệp mới ở Thái Lan, Indonexia, Malaixia... hay chuyển thành nền kinh tế phát triển như ở Hàn Quốc từ giữa những năm 90. ở những bước chuyển giai đoạn này các nền kinh tế muốn phát triển liên tục đòi hỏi phải có những chuyển đổi lớn về cơ cấu và thể chế mà trong thực tiễn các nước hầu hết đều chậm thực hiện hoặc chưa thực hiện. Chính cựu tổng thống Hàn quốc ông Kim Dang Sam trước khi dời chức đã thừa nhận rằng: khủng hoảng kinh tế tài chính diễn ra ở Hàn quốc còn có nguyên nhân thiếu quyết tâm cải cách và chậm cải cách, do vậy đã không đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi thay đổi ở trong nước cũng như ngoài nước. Các chính phủ chậm đổi mới, nạn tham nhũng, hối lộ diễn ra ở hầu hết các nước khủng hoảng, có ý kiến cho rằng khu vực Đông, Đông Nam á là khu vực có mối quan hệ “gầm bàn”, nhiều quan chức trong chính phủ lo thu vén cá nhân, chưa đặt lợi ích quốc gia lên trên. Những bất cập về thể chế và cơ cấu, những chậm chạp trong cải cách đã khiến các nền kinh tế này không chuyển kịp trong điều chỉnh đầu tư, tái phân bố nguồn lực, và điều hành nền kinh tế theo phương pháp mới phù hợp với giai đoạn phát triển cao hơn. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng làm cho cuộc khủng hoảng không chỉ dừng trong lĩnh vực tài chính tiền tệ mà còn lan sang nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác, kể cả hệ thống quản lý của chính phủ. Theo dõi diễn biến của cuộc khủng khoảng, tìm hiểu các nguyên nhân và giải pháp khắc phục của mỗi quốc gia, ban đầu nhiều học giả phái lạc quan cho rằng đây chỉ là “một vết xước nhỏ của những cơ thể cường tráng, đang phát triển”. Nhưng đến nay nhiều ý kiến lại đánh giá rằng cuộc khủng hoảng có thể còn trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng ở Mexico năm 1994-1995, do đó có thể kéo dài vài ba năm nữa. Thậm chí có ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng báo hiệu sự sụp đổ những quan niệm về sự thần kỳ của những “con rồng”, và cần phải xem xét lại nhận định “Thế kỷ 21 là thế kỷ của Châu á - Thái Bình dương”. ii. những giải pháp nhằm ngăn ngừa ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế nước ta: 1/ Vì sao nước ta không bị khủng hoảng? Việt nam nằm trong khu vực đang xảy ra khủng hoảng tài chính qua các phân tích nguyên nhân ở trên thấy rằng các căm bệnh dẫn tới khủng hoảng đều có ở Việt nam: Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả kinh doanh thấp đặc biệt là trong các doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư quá nhiều vào bất động sản (khách sạn, văn phòng cho thuê, nhà hàng, đất đai...) ở lĩnh vực này cung đã vượt quá cầu. Hệ thống Ngân hàng yếu kém dẫn tới nhiều thất thoát, nợ quá hạn chiếm tỷ lệ cao (19,3% tại các ngân hàng trên địa bàn TP Hồ Chí Minh vào cuối năm 1997), ngân sách bội chi năm 1997 là 3,5%/GDP, gấp 3 lần năm 1996. Cán cân thanh toán vãng lai thâm hụt, nợ nước ngoài gia tăng, tỷ giá hối đoái được giữ gần như cố định trong 3 năm 1994-19996 ở mức xấp xỉ 11000 ĐVN/USD... Tốc độ tăng trưởng GDP khá cao: năm 1995 là 9,5%, năm 1996 là 9,3%, năm 1997 là 9%, dự kiến năm 98 ở mức 8,7%. Nạn tham nhũng, hối lộ và không thực thi pháp luật vẫn chưa được khắc phục. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt nam không xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ là do: + khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy tại các nước trong khu vực là do thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai nhưng ở Việt nam có may mắn hơn là thâm hụt này được bù đắp bởi vốn vay dài hạn (chủ yếu từ nguồn ODA và FDI), thay vì nợ ngắn hạn. Trong tổng số FDI đầu tư vào Việt nam thì khoảng 30% là vốn cổ phần (kể cả vốn góp của Việt nam mà chủ yếu là đất đai), phần còn lại 70% là nợ dài hạn từ các công ty mẹ hoặc từ các nguồn khác được các công ty mẹ bảo lãnh. + Việt nam chưa có thị trường vốn kể cả ở hai kênh: thị trường chứng khoán và các định chế tài chính tín dụng (chủ yếu cho vay vốn trung và dài hạn theo kế hoạch); đồng Việt nam chưa được tự do chuyển đổi nên khó xảy ra đầu cơ thông qua buôn tiền (tỷ trọng giao dịch trên thị trường “chợ đen” rất nhỏ vì bất hợp pháp; Nhà nước có chính sách quản lý ngoại hối khá chặt chẽ và quy định tất cả các loại lãi suất; Khi khủng hoảng xảy ra tại các nước trong khu vực, Việt nam đã sớm từng bước trả lại cho đồng tiền giá trị thực của nó. Tuy nhiên theo tính toán của nhiều chuyên gia thì tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước Việt nam thông báo ngày 16/02/1998 là 11.800 ĐVN/USD hiện chưa phản ánh đúng giá trị tiền Việt nam mà phải ở mức cao hơn (kể cả khung cho phép dao động 10% đối với các Ngân hàng thương mại là 12.980 ĐVN/USD). Tỷ giá hối đoái thực của Việt nam, sau khi đã tính toán sự chênh lệch lạm phát giữa Việt nam và Mỹ tăng khoảng 36% trong 10 năm qua. Tỷ giá cân đối sức mua đồng tiền (Purchashing Power Parity) của Việt nam hiện nay khoảng 15.200 ĐVN/USD. (Xem đồ thị minh hoạ số 2 ). Chính phủ Việt nam chủ trương thay đổi quan hệ tỷ giá linh hoạt với giao động hình sin nhưng với xu hướng tăng dần tới giá trị thực của đồng tiền. 2/ ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đến nền kinh tế Việt nam: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài: tốc độ tăng trưởng của Việt nam đạt được như vài năm qua do sự đóng góp lớn lao của khu vực sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng đến nay đã có dấu hiệu chững lại, năm 1996 tổng số vốn đầu tư đã cấp phép xây dựng tại Việt nam là 9,2 tỷ USD, năm 1997 tụt xuống còn 5,5 tỷ USD. Điều dáng lưu ý là khoảng 70% đầu tư nước ngoài vào nước ta chủ yếu từ các nước Châu á như Nhật bản Hàn quốc, Đài loan, Singapore, Hồng kông, Thái lan, Malaixia, Trung quốc, ấn độ, Philippine...Đến nay nhiều nước trong số này đã lâm vào khủng hoảng nên vấn đề đầu tư trực tiếp vào nước ta đã giảm. Sự suy giảm này ảnh hưởng khá lớn đến các doanh nghiệp Việt nam đặc biệt là các doanh nghiệp cung ứng vật tư, nguyên liệu và dịch vụ cho khu vực này bao gồm cả dịch vụ tài chính, du lịch, tư vấn đầu tư xây dựng và vận chuyển, cho thuê: nhà, văn phòng, xe... Đầu tư trong nước: do tỷ giá hối đoái tăng, lãi xuất tăng thị trường tiêu thụ diễn biến phức tạp và rất khó dự đoán nên các doanh nghiệp rất dè dặt khi vay vốn để đầu tư và các ngân hàng cũng ngại cho vay sợ khó thu hồi vốn nên kết quả cuối cùng là các quyết định đầu tư dễ được chấp nhận là các phương án có độ rủi ro thấp và vì vậy hiêụ quả cũng thấp. Các phương án có hiệu quả cao gắn liền với độ rủi ro lớn thường không được chấp nhận. Do vậy hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế sẽ bị giảm xuống, tăng trưởng kinh tế vì thế mà thấp hơn tiềm năng, Xuất khẩu một trong những nhân tố quan trọng góp phần đưa nước ta phát triển cao như hiện nay cũng đang gặp nhiều khó khăn, hàng xuất khẩu của nước ta không những bị cạnh trạnh gay gắt về chất lượng (điểm yếu nhất của ta) mà hiện nay còn có khó khăn gấp bội về giá cả. Do đồng tiền các nước trong khu vực bị mất giá tạo thuận lợi cho xuất khẩu, họ có thể linh hoạt giảm giá (mà vẫn thu lãi nội tệ) đẩy hàng Việt nam ra để chiếm lĩnh thị trường, hoặc chúng ta cũng phải giảm giá theo. Theo Bộ Thương mại giá hàng Việt nam xuất khẩu giảm mạnh: cao su giảm 450 - 480 USD/tấn, dầu thô giảm 20 - 30 USD/tấn, hạt điều 60 -70 USD/tấn... Xuất khẩu hàng điện tử cũng gặp khó khăn cho đến cuối tháng 2/98 hai công ty điện tử lớn ở TP Hồ Chí Minh là JVC Việt nam và SONY Việt nam chưa xuất khẩu được lô hàng nào; Ước tính 6 tháng cuối năm 1997 nước ta thiệt hại 500 triệu USD do giá hàng xuất khẩu giảm. Sản xuất trong nước vốn đã có khó khăn nên nay do tỷ giá thay đổi hàng ngoại tràn vào nhiều với giá rẻ đã gây tình trạng đình đốn trong sản xuất, khả năng thanh toán nợ của ngân hàng giảm sút. Cán cân thương mại tuy có cải thiện nhưng vẫn nhập siêu mức độ lớn năm 1997 là 2,39 tỷ USD, cán cân thanh toán vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ cao khoảng 6%/GDP (1,5 - 1,7 tỷ USD). Những ảnh hưởng khác như: lao động xuất khẩu của Việt nam tại các nước khủng hoảng thất nghiệp về nước, công ty mẹ ở các nước gặp khó khăn nên các công ty con đầu tư ở Việt nam cũng ảnh hưởng, một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam có hiện tượng sa thải bớt công nhân đặc biệt là các công trình đang ở giai đoạn đầu tư xây dựng bị hết vốn; Du lịch quốc tế vào Việt nam giảm sút thay vì đến các nước khác ở được lâu hơn “vì rẻ”... 3/Kiến nghị các biện pháp ngăn ngừa ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đến nền kinh tế nước ta: Trong chính sách kinh tế vĩ mô của Việt nam hình thành nên hai nhóm đối sách khác nhau sau: Thứ nhất là tập trung loại trừ các nguyên nhân gây khủng hoảng: Cần kiểm soát chặt chẽ dòng chảy của ngoại tệ, thắt chặt việc vay nơn của các doanh nghiệp không chứng minh được sự chắc chắn của khả năng tái tạo ngoại tệ để trả nợ đúng hạn. Giảm cán cân thanh toán vãng lai xuống dưới 5% GDP. Xây dựng một chiến lược đầu tư phù hợp với mục tiêu hướng nền kinh tế vào xuất khẩu để từ đó có chính sách điều tiết, dẫn dắt đầu tư, tránh tình trạng dầu tư dàn trải như thời gian vừa qua, những công trình đang đầu tư kém hiệu quả kiên quyết dừng lại, tập trung vốn vào lĩnh vực có hiệu quả. Chú trọng đặc biệt hình thức FDI nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở thêm kênh đầu tư gián tiếp nhưng phải phù hợp với các công cụ kiểm soát của chính phủ. Tổ chức lại hệ thống các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, nhằm lạnh mạnh hoá tình hình tài chính của các tổ chức này. Xây dựng một hệ thống thông tin về doanh nghiệp đáng tin cậy, mở rộng các dịch vụ thẩm định, đánh giá doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin chính xác để có cơ sở vững chắc hoạch định chính sách ngắn hạn và dài hạn phù hợp. Đẩy nhanh tiến trình xã hội hoá các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá; tiến trình cải cách hành chính và đổi mới doanh nghiệp để giảm thâm hụt ngân sách nhà nước. Tập trung chính sách để mở rộng thị trường nông thôn, tăng quy mô thị trường nội địa, củng cố sức mua. Tập trung giải quyết việc chống tham nhũng trong bộ máy quản lý Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế , tài chính, tín dụng, ngân hàng. Thực hiện tốt việc thực hành tiết kiệm, đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Xây dựng thị trường chứng khoán nhằm ổn định thị trường tài chính tiền tệ một cách tích cực. Mục tiêu của thị trường chứng khoán là tạo kênh huy động vốn mới phù hợp với đường lối huy động vốn trong nước cho đầu tư phục vụ sự ngiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá theo tinh thần của nghị quyết TW IV. Thứ hai - nhóm biện pháp để vượt qua ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng : Phải tập trung mọi giải pháp để duy trì mức tăng trưởng bình quân GDP 8-9% GDP trong vòng 3 năm tới. Nếu không làm được điều này thì tỷ lệ thất ngiệp sẽ gia tăng và nền kinh tế sẽ xa vào vòng luẩn quẩn: (thất ngiệp - giảm sức mua - giảm sản xuất - thất nghiệp nhiều hơn...) Ưu tiên các dự án đầu tư sử dụng nhiều lao động, tạm thời giảm bớt các dự án phải nhập nhiều máy móc thiết bị nước ngoài. Kiên quyết không tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực kém hiệu quả và tràn lan như xi măng lò đứng, cảng sông cảng biển, mía đườ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34575.doc
Tài liệu liên quan